Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

biện pháp quản lý của hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp ở trường thpt huyện vĩnh bảo thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.01 KB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cùng với sự bùng nổ của công nghệ
thông tin thì sự phát triển toàn diện của đất nước không chỉ dựa vào tài nguyên,
vốn kỹ thuật mà yếu tố ngày càng trở nên quyết định chính là nguồn lực con
người, tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người. Với mục tiêu đến năm
2020, cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã chọn
Giáo dục - Đào tạo(GD-ĐT), khoa học công nghệ (KH-CN) là khâu đột phá,
phát huy yếu tố con người, coi con người “vừa là mục tiêu vừa là động lực phát
triển”. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “ Phát triển
GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[16,tr 19].
Trong thời gian qua, ngành GD-ĐT cả nước nói chung và huyện Vĩnh
Bảo thành phố Hải Phòng nói riêng bên cạnh những thành tích đã đạt được,
vẫn còn có một số hạn chế nhất định, trong đó chất lượng và hiệu quả giáo
dục vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất
nước. Một trong những nguyên nhân của sự yếu kém đó đã được chỉ ra từ
Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII là: “công tác quản lý giáo dục - đào tạo
còn những mặt yếu kém, bất cập”. Đến Hội nghị Trung ương 6 khoá IX đánh
giá: “Năng lực quản lý Nhà nước về GD còn bộc lộ nhiều yếu kém, lúng túng
trước yêu cầu mới, thiếu tầm nhìn và giải pháp chiến lược, nặng về đối phó vụ
việc… đội ngũ cán bộ quản lý GD còn nhiều bất cập, tư duy và phương thức
quản lý GD còn chịu ảnh hưởng của cơ chế hành chính bao cấp”. Để khắc
phục những hạn chế đó thì một trong những biện pháp chủ yếu là: “Đổi mới
mạnh mẽ quản lý Nhà nước về giáo dục, xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện”. Vì vậy hơn lúc nào hết, những người
làm công tác quản lý giáo dục trong giai đoạn hiện nay cần thường xuyên
1
nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, nâng cao trình độ và nghiệp vụ quản lý, cải tiến
các biện pháp quản lý, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện cụ


thể trong đơn vị mình quản lý.
Trong nhà trường phổ thông, lớp học là đơn vị hành chính cơ bản, một
tế bào hữu cơ của hệ thống nhà trường. Mỗi lớp học gồm một số lượng học
sinh ổn định, có lứa tuổi và trình độ nhận thức tương đương, cùng nhau tiến
hành các hoạt động học tập, lao động, vui chơi, giải trí Các hoạt động giáo
dục và dạy học của nhà trường chủ yếu diễn ra theo đơn vị lớp học. Vì thế, sự
trưởng thành của lớp học gắn liền với sự trưởng thành và phát triển của mỗi
thành viên trong lớp học và những thành tích của nhà trường.
Người giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm quản lý và giáo
dục, người điều khiển và phối hợp mọi hoạt động của các thành viên trong lớp
cũng như tổ chức mối quan hệ giữa lớp học với nhà trường, gia đình và xã
hội. Người chủ nhiệm lớp thay mặt Hiệu trưởng quản lý một lớp nhằm thực
hiện các mục tiêu giáo dục đề ra, chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng các
hoạt động của một lớp. Có thể nói người giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa
các lực lượng giáo dục. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cao, thì không
chỉ có sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm mà cần phải có sự quản lí,
chỉ đạo phù hợp của Ban giám hiệu mà trực tiếp là của Hiệu trưởng nhà
trường. Quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp là nhiệm vụ, quyền hạn của người
Hiệu trưởng. Vì vậy nếu Hiệu trưởng triển khai linh hoạt và sáng tạo các biện
pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp sẽ góp phần to lớn vào việc nâng cao
hiệu quả của công tác này. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục – đào tạo của trường trung học phổ thông, xây dựng và phát triển nhân
cách toàn diện của người học sinh.
Thực tế ở Hải Phòng, Hiệu trưởng trường THPT đã có những đổi mới
nhất định về quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp, song kết quả đạt chưa cao.
Những biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp mà các Hiệu trưởng đã áp
2
dụng vào hoạt động quản lý của mình chủ yếu là do kinh nghiệm bản thân và
tự học hỏi. Mặt khác, với ngành giáo dục đào tạo nói chung, giáo dục bậc
THPT của huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng nói riêng, chưa có một tác

giả, một đề tài nào nghiên cứu đầy đủ, khoa học về công tác quản lý của Hiệu
trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu thực
trạng hoạt động quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp ở
trường THPT huyện Vĩnh Bảo nhằm đề ra các biện pháp quản lý đồng bộ có
tính khả thi cao, phù hợp với sự phát triển của giáo dục trong thời kì đổi mới
là vấn đề cấp thiết sớm được nghiên cứu và làm sáng tỏ.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác chủ nhiệm lớp
ở trường THPT huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng các trường THPT huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng nhằm nâng
cao chất lượng quản lý và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở các
trường trung học phổ thông.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý của Hiệu trưởng trường THPT đối với công tác chủ
nhiệm lớp của giáo viên trường THPT
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường
THPT Huyện Vĩnh Bảo
4.Giả thuyết khoa học
Hoạt động quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường
THPT Huyện Vĩnh Bảo những năm qua đã được tiến hành có kế hoạch và đã
mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên việc vận dụng các thành tựu khoa học
3
hiện đại vào công tác quản lí, cũng như các biện pháp nhằm kích thích tính
tích cực và trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm còn hạn chế, chỉ đạo hoạt
động chủ nhiệm lớp chủ yếu bằng các biện pháp hành chính. Nếu Hiệu trưởng
trường THPT tăng cường các biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của

giáo viên một cách khoa học và phù hợp hơn thì công tác chủ nhiệm lớp của
giáo viên chủ nhiệm sẽ có hiệu quả hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục ở các trường trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu vấn đề lý luận của quản lý, quản lý giáo dục, quản lý
trường THPT, quản lý công tác chủ nhiệm
5 2. Tìm hiểu thực trạng các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối
với hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên trong một số trường THPT ở
Vĩnh Bảo.
5.3. Đề xuất và khảo nghiệm một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng
đối với hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
6.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường
THPT huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng.
6.2. Phạm vi về địa bàn nghiên cứu
Việc điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng các biện pháp quản lý hoạt
động chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng được tiến hành ở trường THPT: Nguyễn
Khuyến, trường THPT Vĩnh Bảo, trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, trường
THPT Tô Hiệu, trường THPT Cộng Hiền.
6.3. Phạm vi về khách thể điều tra khảo sát
Việc điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng các biện pháp quản lý hoạt
động chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng được tiến hành đối với 100 giáo viên
4
chủ nhiệm, 19 cán bộ quản lý ở năm trường THPT: Nguyễn Khuyến,Vĩnh
Bảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tô Hiệu, Cộng Hiền.
6.4. Phạm vi về thời gian
Các số liệu tổng quan và khảo sát từ năm học 2005 - 2010
7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Để có cơ sở lý luận làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu chúng tôi
tiến hành phân tích, tổng hợp, hệ thống tài liệu liên quan đến công tác chủ
nhiệm lớp, quản lý trường THPT, quản lý công tác chủ nhiệm lớp của người
Hiệu trưởng.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát các hình thức biểu hiện hoạt động quản lý của Hiệu trưởng và
hoạt động chủ nhiệm lớp của đội ngũ giáo viên ở trường THPT.
7.2.2. Phương pháp điều tra
Điều tra thực trạng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng ở
trường THPT. Chúng tôi sử dụng các bảng hỏi sau:
- Bảng hỏi dành cho giáo viên. Mục đích: Tìm hiểu thực trạng của giáo viên
về lĩnh vực hoạt động chủ nhiệm lớp: Nội dung, hình thức, hiệu quả, thuận
lợi, khó khăn của hoạt động chủ nhiệm lớp. Tìm hiểu đánh giá của giáo viên
về công tác quản lý của Hiệu trưởng.
- Bảng hỏi dành cho cán bộ quản lý nhà trường (Hiệu trưởng, Phó Hiệu
trưởng, chủ tịch công đoàn, bí thư Đoàn trường). Mục đích: Tìm hiểu đánh
giá của các nhà quản lý về hoạt động của giáo viên chủ nhiệm lớp. Tìm hiểu
đánh giá của cán bộ quản lí về các biện pháp quản lí hoạt động chủ nhiệm lớp
của Hiệu trưởng
7.2.3. Phương pháp khảo nghiệm
5
Tiến hành khảo nghiệm các biện pháp đã đề xuất để khẳng định tính
khoa học, cần thiết, khả thi của các biện pháp đó.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các Giáo sư, Phó Giáo sư, các chuyên gia đầu
ngành về giáo dục, các nhà quản lý … để có thêm thông tin tin cậy đảm bảo
tính khách quan cho các kết quả nghiên cứu. Đặc biệt xin ý kiến đóng góp cho
những đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu hoạt động chủ

nhiệm lớp của Hiệu Trưởng được nghiên cứu.
7.2.5. Phương pháp phỏng vấn
Bổ sung, kiểm tra và làm rõ những thông tin đã thu thập được thông qua
phương pháp điều tra. Qua đó tìm hiểu thêm những biện pháp quản lý công
tác chủ nhiệm lớp của GV. Những thông tin này có giá trị là căn cứ để nhận
xét, khẳng định chính xác hơn thực trạng biện pháp quản lý công tác chủ
nhiệm lớp của hiệu trưởng . Ngoài ra, có thể tìm hiểu thêm các nhân tố ảnh
hưởng tới tới thực trạng đó cũng như những khuyến nghị của họ. Đồng thời
những thông tin này cũng giúp cho nhà nghiên cứu có thêm căn cứ để khẳng
định tính trung thực, độ tin cậy của kết quả nghiên cứu.
7.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
Số liệu thu được từ bảng hỏi được xử lý, phân tích bằng phần mềm SPSS
phiên bản 15.0.
8. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng trường THPT
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng
trường THPT huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng
6
Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường THPT huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG CHỦ NHIỆM LỚP
CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và giao

lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực, độc
lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội thành hành vi
và thói quen tương ứng. Hoạt động chủ nhiệm lớp là một trong những hình
thức tổ chức của nhà giáo dục góp phần hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện của học sinh.
Tuy không đúng hoàn toàn nhưng hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
gần như người trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây giống. Người làm vườn
không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải tạo điều kiện cho hạt giống nảy
mầm. Người giáo viên chủ nhiệm cũng vậy. Công tác chủ nhiệm lớp được
đánh giá là một công tác hết sức quan trọng ở các trường học trong công tác
dạy học và giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm cũng là cầu nối các mối quan hệ
giáo dục trong nhà trường để nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh. Đó chính là quan điểm chủ đạo được thể hiện
trong nhiều công trình nghiên cứu, giáo trình, tài liệu tham khảo trong lĩnh
vực giáo dục học trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Có thể kể đến những
học giả nước ngoài nghiên cứu sâu về lĩnh vực này như: Macarenko,
7
Usinxki Các học giả trong nước như: PGS.TS Hà Thế Ngữ, PGS.TS Hà
Nhật Thăng, PGS.TS Nguyễn Dục Quang
Và trong lĩnh vực quản lý công tác chủ nhiệm lớp thì trên thế giới cũng
như Việt Nam đã có nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục quan tâm. Các
vấn đề về lý luận và thực tiễn công tác quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp đã
được đề cập ở cả góc độ quản lý vĩ mô và vi mô. Nhiều hội thảo khoa học về
hoạt động chủ nhiệm lớp đã được tổ chức: Ngày 24/10/2009 tại trường Đại
học Tây Bắc; Ngày 14/10/2010 tại trường Đại học Hải Phòng ; Ngày 11-
12/8/2010 tại Đồ Sơn thành phố Hải Phòng ; Ngày 26-27/8/2010 tại thành
phố Hồ Chí Minh; Ngày 23/10/2010 Tại trường THPT Vĩnh Định - Quảng
Trị; Gần đây, tại Thừa Thiên Huế, ngày 6/11/2010 vừa qua, một cuộc hội thảo
về công tác chủ nhiệm lớp trong các trường trung học phổ thông đã thu hút sự
tham gia của hơn 100 Hiệu trưởng trung học phổ thông trên địa bàn Các hội

thảo phân tích vấn đề trên nhiều phương diện, góc độ quản lý theo ngành, bậc
học. Nhiều kết quả, nhiều công trình nghiên cứu đã và đang được ứng dụng
trong các nhà trường, hệ thống giáo dục các cấp.
Những năm gần đây, nhiều luận văn tốt nghiệp thạc sĩ đã chọn đề tài
nghiên cứu thuộc lĩnh vực quản lý nhân lực trong giáo dục, trong đó có vấn đề
quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp. Các tác giả nghiên cứu về vấn đề quản lý
hoạt động chủ nhiệm lớp theo bậc học và ngành học, vùng miền và địa
phương khác nhau, như tác giả: Nguyễn Thị Dung với đề tài : “Biện pháp
quản lý bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm làm công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh ở trường trung học cơ sở,”, tác giả Nguyễn Khắc Hiền với
đề tài : “ Một số biện pháp tăng cường quản lí của Hiệu trưởng đối với hoạt
động chủ nhiệm lớp trong trường THPT tỉnh Bắc Ninh ”. Các tác giả đã tập
trung nghiên cứu về cơ sở lý luận; tìm hiểu và đánh giá thực trạng về đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm lớp và công tác quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp;
đề ra các giải pháp, biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp phù hợp với
8
tình hình thực tiễn của các nhà trường, của địa phương nơi các tác giả công
tác.
Đối với ngành GD - ĐT nói chung, giáo dục cấp THPT của huyện Vĩnh
Bảo thành phố Hải Phòng nói riêng chưa có một tác giả, một đề tài nào
nghiên cứu đầy đủ khoa học về quản lý công tác chủ nhiệm lớp trong mối
quan hệ các trường học trên địa bàn huyện. Chính vì vậy, nghiên cứu về quản
lý công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THPT huyện Vĩnh Bảo trong giai
đoạn hiện nay là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một cách khoa học và
hệ thống.
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà
trường
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm quản lý
Trong quá trình hình thành và phát triển loài người, con người phải luôn

luôn lao động để duy trì và phát triển nòi giống. Trong khi lao động cần sự hợp
tác của một nhóm người để tạo ra thành quả cao. Do sự hợp tác này mà xã hội
xuất hiện một loại hình lao động mới mang tính đặc thù, đó là hoạt động quản
lý với chức năng tổ chức điều khiển các hoạt động lao động theo yêu cầu nhất
định.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của quản lý, đặc biệt trong quá trình xây
dựng lý luận về quản lý, khái niệm quản lý được nhiều nhà lý luận đưa ra, nó
thường phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người.
Theo Frederich Wiliam Taylor ( Mỹ - 1856-1915) : “Quản lý là nghệ
thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương
pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”[10,tr89].
Hoặc theo nhà lý luận quản lý quốc tế Henri Fayol (1841-1925) người
Pháp cho rằng: “Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất
các nguồn lực của nó”[13,tr25]
9
Paul Herscy và Ken Blanc Heard trong cuốn “Quản lý nguồn nhân lực”
là: quản lý là một quá trình cùng làm việc giữa nhà quản lý và người bị quản lý,
nhằm thông qua hoạt động của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác
để đạt mục tiêu của tổ chức”[4, tr46].
Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định”[26,tr28].
Theo Mai Hữu Khuê: “Hoạt động quản lý là một dạng hoạt động đặc
biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp các loại lao động trí óc, liên kết
bộ máy quản lý, hình thành một chỉnh thể thống nhất điều hoà phối hợp các
khâu và các cấp quản lý, làm sao cho hoạt động nhịp nhàng, đưa đến hiệu
quả”[14,tr15]
Quan điểm của Nguyễn Văn Lê: “Quản lý là một hệ thống xã hội khoa
học và nghệ thuật tác động vào từng thành tố của hệ bằng phương pháp thích
hợp nhằm đạt các mục tiêu đặt ra cho hệ và từng thành tố của hệ” [21,tr 5]

Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một số điểm chung:
• Quản lý là hoạt động lao động, hoạt động này để điều khiển lao động,
hoạt động khác.
• Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý
Trong quản lý, bao giờ cũng có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý. Những tác động quản lý
chính là những quyết định quản lý, là những nội dung chủ thể quản lý yêu cầu
đối với đối tượng quản lý. Các Mác so sánh một cách hình ảnh: Nhạc trưởng
đối với hệ thống nhạc công, trong đó nhạc trưởng là một chủ thể quản lý, nhạc
công là chủ thể bị quản lý (các nhạc công chịu sự tác động của nhạc trưởng)
để đưa đến một sản phẩm “kép” một sản phẩm “siêu sản phẩm” - Đó là cả chủ
thể quản lý và chủ thể bị quản lý đều phát triển (hoạt động tạo ra các chủ thể
và về sự phát triển của con người).
10
• Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của một quá trình lao động xã
hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài
người tồn tại, vận hành và phát triển.
• Quản lý là một hệ thống xã hội trên nhiều phương diện. Điều đó cũng xác
lập rằng quản lý phải có một cấu trúc và vận hành trong một môi trường
xác định.
Trên cơ sở tham khảo tài liệu, bằng việc phân tích, tổng hợp hệ thống
hóa và khái quát hóa các quan điểm của cá tác giả đi trước, đề tài có thể xác
định: “ Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường.
Có thể mô tả cấu trúc của một hệ thống quản lý qua sơ đồ 1.1.

Sơ đồ 1.1. Cấu trúc của một hệ thống quản lý.
1.2.1.2. Các chức năng quản lý
- Chức năng kế hoạch hoá

Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và quyết định
những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của kế
hoạch hoá là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hoá, với
mục đích, biện pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các điều
kiện cung ứng cho việc thực hiện mục tiêu.
11
Mục tiêu quản lý
Môi trường quản

Chủ thể quản lý Khách thể quản lý
Nhiều lý thuyết gia quản lý cho rằng, kế hoạch là cái khởi nguyên của
mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Họ ví kế hoạch như một chiếc
đầu tầu kéo theo các toa “tổ chức”, “chỉ đạo”, “kiểm tra”. Như vậy, người
quản lý, nếu không có kế hoạch thì không biết phải tổ chức nhân lực và các
nguồn nhân lực khác như thế nào, thậm chí họ còn không rõ phải tổ chức cái
gì nữa. Không có kế hoạch, người quản lý không thể chỉ dẫn, lãnh đạo người
thuộc quyền hành động một cách chắc chắn với những kỳ vọng đặt vào kết
quả mong đạt tới. Cũng vậy, không có kế hoạch thì cũng không xác định được
tổ chức hướng tới đúng hay chệch mục tiêu, không biết khi nào đạt được mục
tiêu và sự kiểm tra trở thành vô căn cứ.
Trong QLGD, quản lý nhà trường, kế hoạch hoá là một chức năng quan
trọng vì trên cơ sở phân tích các thông tin quản lý, căn cứ vào những tiềm
năng đã có và những khả năng sẽ có mà xác định rõ hệ thống mục tiêu, nội
dung hoạt động, các biện pháp cần thiết để chỉ rõ trạng thái mong muốn của
nhà trường khi kết thúc các hoạt động. Kế hoạch hoá có vai trò to lớn như vậy
bởi bản thân nó có những chức năng cơ bản cụ thể sau:
- Chức năng chẩn đoán
Bao gồm việc xác định trạng thái xuất phát và những phân tích về trạng
thái đó. Đối với nhà trường đó là trạng thái về cơ sở vật chất, về đội ngũ giáo
viên, về các kết quả về hoạt động sư phạm của các năm học trước đó, những

mặt tốt và mặt tồn tại, nguyên nhân của chúng…Dựa trên những số liệu của
năm học trước rút ra kết luận cụ thể về trạng thái xuất phát của nhà trường
trong năm học mới.
- Chức năng dự báo
Bao gồm việc xác định nhu cầu và các mục tiêu trên cơ sở phân tích và
căn cứ vào hướng dẫn của cấp trên về nhiệm vụ của năm học mới để suy ra
những hướng phát triển cơ bản của nhà trường, trong đó có tính tới nhu cầu
12
bên ngoài và bên trong của nhà trường, lựa chọn những hướng ưu tiên, dự
kiến những mục tiêu cần đạt và các tiêu chuẩn đánh giá.
- Chức năng dự đoán
Bao gồm việc phác thảo các phương án chọn lựa có tính tiềm năng của
nguồn lực dự trữ và những mong muốn chủ quan.
- Chức năng tổ chức.
Bamard định nghĩa tổ chức như là “ Hệ thống các hoạt động hay tác
động có ý thức của hai hay nhiều người”.
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, cho
phép các cá nhân góp phần tốt nhất vào mục tiêu chung. Tổ chức được coi là
điều kiện của quản lý, đúng nhưV.I.Lê-nin đã khẳng định:“Chúng ta phải hiểu
rằng, muốn quản lý tốt…còn phải biết tổ chức về mặt thực tiễn nữa” [23].
Thực chất của tổ chức là thiết lập mối quan hệ bền vững giữa con người, giữa
các bộ phận trong hệ thống quản lý. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn các động lực,
tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
- Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành
vi và thái độ của những người khác nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra. Chỉ đạo
thể hiện quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên
trong tổ chức nhằm góp phần thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra.
Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thể hiện mối quan hệ

giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó
để họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.
- Chức năng kiểm tra
Sau khi xác định các mục tiêu, quyết định những biện pháp tốt nhất để
đạt tới các mục tiêu và triển khai các chức năng tổ chức, chỉ đạo để thực hiện
hoá các mục tiêu đó cần phải tiến hành những hoạt động kiểm tra để xem xét
13
việc triển khai các quyết định trong thực tiễn, từ đó có những điều chỉnh cần
thiết trong các hoạt động để góp phần đạt tới mục tiêu đã xác định.
Như vậy, kiểm tra có vị trí quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý
như đổi mới công tác kế hoạch hoá, công tác tổ chức, chỉ đạo cũng như đổi mới
cơ chế quản lý, phương pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
quản lý.
Tóm lại: Sự phân công và chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý đã
hình thành nên các chức năng quản lý, đó là chức năng kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo và kiểm tra. Các chức năng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như
minh hoạ ở sơ đồ dưới đây:
Sơ đồ1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục
Theo M.I.Kônđacôp: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý
thức và hướng đích của chủ quản lý ở các cấp khác nhau, đến tất cả các mắt
xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành
nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật
chung của xã hội cũng như các quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát
triển thể lực và tâm lý trẻ em [21, tr.124].
Kế hoạch hoá
Tổ chứcChỉ đạo
Kiểm tra
14

Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục nói
chung là thực hiện đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo
dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học
sinh…” [19,tr.61].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: Quản lý là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận
hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính
chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất [25,tr.35].
Từ những quan niệm trên chúng ta có thể khái quát rằng: Quản lý giáo
dục là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng giáo dục nhằm đẩy
mạnh công tác giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã
hội. Trong hệ thống giáo dục, con người giữ vai trò trung tâm của
mọi hoạt động. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt
động giáo dục và QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách
thế hệ trẻ, bởi vậy con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
1.2.3. Quản lý nhà trường trung học phổ thông
1.2.3.1. Khái niệm nhà trường trung học phổ thông
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho mọi nhóm dân cư nhất
định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên
đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động
vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội.
Quá trình sư phạm là quá trình kiến tạo các điều kiện và cơ hội để cá
thể người lĩnh hội, chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội, thực hiện việc xã hội hoá
nhân cách của mình. Nhà trường thực hiện chức năng kiến tạo các kinh
15
nghiệm xã hội thông qua quá trình sư phạm hay nói cách khác, nhà trường là

thiết chế chủ yếu để thực hiện quá trình sư phạm.
Trong bối cảnh hiện đại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như một
thiết chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành
những công dân có ích cho tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ
chức chặt chẽ, được cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức
năng của mình mà không một thiết chế nào có thể thay thế được. Những
nhiệm vụ của nhà trường cũng được đề cập đến từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Việc quản lý nhà trường cũng có nhiều cách để tiếp cận. Bản chất giai cấp của
nhà trường được khẳng định bởi tính mục đích cũng như cách thức vận hành
của nó và một điều được khẳng định là: Khi nhà trường thực hiện chức năng
giáo dục trong một xã hội cụ thể, bản sắc văn hoá dân tộc in dấu sâu đậm
trong toàn bộ hoạt động của nhà trường.
Ta có thể thấy rõ các dấu hiệu phân biệt nhà trường với các thiết chế
khác là: Tính mục đích tập trung hay mục đích hẹp, mục đích được “chiết
xuất”; Tính tổ chức và tính kế hoạch cao; Tính hiệu quả giáo dục - đào tạo
cao nhờ quá trình truyền thụ có ý thức; Tính biệt lập tương đối hay tính lý
tưởng hoá các giá trị xã hội; Tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính
chất phân biệt đối xử theo phát triển tâm lý và thể chất [13].
Theo Luật Giáo dục năm 2005 thì nhà trường trung học bao gồm: tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông. “Giáo dục trung học phổ thông
được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào lớp 10
phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi là 15 tuổi” (Điều 26 - Luật
Giáo dục 2005). Trường trung học (bao gồm trung học cơ sở, trung học phổ
thông, trung học có nhiều cấp học) là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống
giáo dục quốc dân. Trường có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng.
1.2.3.2. Khái niệm quản lý nhà trường trung học phổ thông
16
Bản chất của việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy – học,
tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần
dần tiến tới mục tiêu giáo dục [15, tr72].

Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh” [42].
Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là tập hợp những
tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp…)
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các cán bộ khác. Nhằm
tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp, do
lao động xây dựng và vốn lao động tự có hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện
có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái
mới” [30].
Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh
và các lực lượng giáo dục khác, huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để
nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [44, tr205].
Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động sau: Tác động của
những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường (đó là những tác
động quản lý của các cơ quan QLGD cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều
kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, hoặc những
chỉ dẫn, những quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có
liên quan trực tiếp đến nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình
thức Hội đồng giáo dục nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường và hỗ
17
trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó); Tác động
của những chủ thể quản lý bên trong nhà trường (bao gồm các hoạt động:
Quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học – giáo dục,
quản lý cơ sở vật chất trang thiết bị trường học, quản lý tài chính trường học,

quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
Như vậy, quản lý nhà trường chính là QLGD trong một phạm vi xác
định, đó là nhà trường (đơn vị giáo dục). Quản lý nhà trường là một hoạt động
được thực hiện trên cơ sở những quy luật chung của quản lý, đồng thời có
những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục. Do đó quản lý nhà trường
cần vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh mọi hoạt
động của nhà trường theo mục tiêu đào tạo.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang
có tiến lên một trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát
triển mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng giáo
dục. Mục đích cuối cùng của QLGD là tổ chức quá trình giáo dục có hiệu quả
để đào tạo lớp trẻ thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn
đấu vì hạnh phúc của bản thân và của xã hội [13, tr20].
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục nên
quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của QLGD. Thực chất
của quản lý nhà trường, suy cho cùng là tạo điều kiện cho các hoạt động trong
nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà trường XHCN ở
Việt Nam.
1.2.3.3. Mục đích của quản lý nhà trường
Mục đích của quản lý nhà trường là nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, đưa nhà trường từ trạng thái hiện có tiến lên một trạng thái mới có
chất lượng hơn. Mục đích cuối cùng của quản lý giáo dục là tổ chức quá trình
giáo dục có hiệu quả để đào tạo một lớp thanh niên thông minh, sáng tạo,
năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc của bản thân và xã hội
18
Mục đích quản lý giáo dục còn là xây dựng và phát triển mạnh mữ các
nguồn lực giáo dục, hướng các nguồn lực đó phục vụ cho việc tăng cường hệ
thống giáo dục và chất lượng giáo dục
1.2.3.4. Nguyên tắc quản lý trường học
Để đảm bảo sự thành công trong mọi hoạt động của nhà trường, công

tác quản lý phải thực hiện các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với toàn bộ
công tác giáo dục trong nhà trường về: chuyên môn, tư tưởng, chính trị, đạo
đức, văn thể, lao động, hướng nghiệp và giáo dục quốc phòng
- Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo các công việc
của nhà trường. Động viên và phối hợp với các tổ chức đoàn thể, các tập thể
giáo viên, cán bộ công nhận viên cùng tham gia vào công tác quản lý nhà
trường. Phát huy vai trò chủ động tích cực của các lực lượng giáo dục đối với
sự nghiệp giáo dục. Đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong tập thể sư phạm
- Nguyên tắc quản lý quan trọng nhất là quản lý theo chất lượng. Mỗi
trường học phải có sứ mệnh, mục tiêu, chính sách chất lượng, công bố các
tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng.
- Đảm bảo nguyên tắc tính khoa học trong hoạt động quản lý, đó là áp
dụng kỹ thuật quản lý gồm 4 khâu: kế hoạch hoá, thực hiện, kiểm tra và điều
chỉnh. Mỗi công việc cần có mục tiêu cụ thể, được tổ chức thực hiện chu đáo,
có kiểm tra uốn nắn, điều chỉnh kịp thời.
1.2.3.5. Nội dung của quản lý nhà trường trung học phổ thông
- Quản lý nguồn nhân lực trong nhà trường
+ Quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường:
Bố trí và sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên, nhân viên trong
nhà trường; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên,
nhân viên, xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ
19
+ Quản lý tài chính, cơ sở vật chất trong nhà trường: quản lý
ngân sách, thu – chi, quản lý vốn ngoài ngân sách, quản lý trang thiết bị, cơ sở
vật chất trong nhà trường…
- Quản lý hoạt động dạy và học, các hoạt động khác trong nhà trường
+ Quản lý hoạt động dạy học: quản lý việc thực hiện chương
trình, hoạt động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học tập của học sinh,
quản lý cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học

+ Quản lý việc đổi mới phương pháp dạy và học
+ Quản lý hoạt động giáo dục nhằm hoàn thiện và phát triển nhân
cách cho học sinh: quản lý các hoạt động giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất,
giáo dục môi trường…
+ Quản lý các hoạt động khác trong nhà trường
- Quản lý chất lượng giáo dục: Chất lượng giáo dục là kết quả của quá
trình giáo dục, là sự phản ánh trình độ, năng lực của người được giáo dục so
với mục tiêu giáo dục đã đề ra, có đảm bảo được yêu cầu của xã hội đã đặt ra
hay không
- Quản lý việc thanh tra, kiểm tra trong nhà trường nhằm đánh giá các
hoạt động của các đơn vị trong nhà trường, có sự động viên, biểu dương,
khuyến khích những cái tích cực, có biện pháp điều chỉnh, xử lý kịp thời các
sai phạm để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường
1.3. Một số vấn đề liên quan đến quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường trung học phổ thông
1.3.1. Giáo viên chủ nhiệm trung học phổ thông
1.3.1.1. Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp
Tại trường trung học phổ thông, công tác dạy học – giáo dục học sinh
được tiến hành với nội dung ngày càng toàn diện hơn, phong phú hơn, sâu sắc
hơn, hệ thống hơn và nhiều hình thức hoạt động đa dạng ở trong và ngoài
trường. Trong đó, các môn học đã được đưa vào quá trình dạy học với sự
20
phân hoá ngày càng sâu. Do vậy, toàn bộ công tác dạy học – giáo dục học
sinh không thể chỉ do một giáo viên đảm đương; trái lại phải do một tập thể
sư phạm bao gồm nhiều giáo viên phụ trách: các giáo viên bộ môn và giáo
viên chủ nhiệm.
Các giáo viên bộ môn có trách nhiệm tổ chức việc dạy và học các môn
mà mình phụ trách, và qua đó, góp phần tích cực nhất vào việc giáo dục cho
học sinh cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng và những
phẩm chất đạo đức của con người lao động mới làm chủ tập thể. Song do tính

chất của môn học và khối lượng thời gian dành cho việc học từng môn ở từng
lớp, một giáo viên bộ môn có thể phải đảm đương công tác giảng dạy ở nhiều
lớp khác nhau. Như vậy, học sinh ở mỗi lớp đồng thời phải học nhiều giáo
viên khác nhau. Vấn đề đặt ra là, ai sẽ là người đứng ra phối hợp hoạt động
của tất cả các giáo viên giảng dạy trong cùng một lớp nhằm đảm bảo được sự
tác động giáo dục thống nhất? Người đó chính là giáo viên chủ nhiệm.
Hơn nữa, như chúng ta đều biết, mỗi lớp bao gồm một số lượng học
sinh nhất định, ở lứa tuổi nhất định, có trình độ phát triển nhất định…Chúng
họp thành một tập thể có tổ chức chặt chẽ với những hoạt động chung và cùng
nhằm mục đích chung: xây dựng nhân cách con người mới phù hợp với mục
tiêu giáo dục của từng cấp học. Do đó, có thể nói rằng, mỗi lớp được coi như
một đơn vị, một tế bào hữu cơ của cả hệ thống nhà trường, một bộ phận hữu
cơ của cả tập thể trường học. Sự trưởng thành của nó gắn liền với sự trưởng
thành của toàn trường. Mỗi thành công hay không thành công của nó đều ảnh
hưởng đến sự thành công hay không thành công của cả trường. Vì vậy, một
yêu cầu có tầm quan trọng đặc biệt là phải làm thế nào xây dựng được tập thể
lớp thành tập thể tốt, góp phần xây dựng tập thể, nhà trường tốt. Người đứng
ra đảm đương vai trò chủ đạo chính trong công tác giáo dục học sinh của từng
lớp, trên cơ sở phối hợp các lực lượng giáo dục cũng chính là giáo viên chủ
nhiệm.
21
Tóm lại, người giáo viên chủ nhiệm là người vừa thay mặt Hiệu trưởng,
thay mặt nhà trường để quản lý và giáo dục toàn diện học sinh; là cầu nối giữa
các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập thể học sinh; đồng
thời lại là người đại diện cho quyền lợi và nghĩa vụ của tập thể học sinh
1.3.1.2. Chức năng quản lý của người giáo viên chủ nhiệm lớp
Lớp học là đơn vị cơ bản trong hệ thống giáo dục của nhà trường,
nơi diễn ra các hoạt động dạy học và giáo dục toàn diện đối với mỗi học sinh
trong lớp. Giáo viên chủ nhiệm có thể vẫn tiến hành giảng dạy môn học nào
đó ở lớp mình làm chủ nhiệm và ở các lớp khác trong trường, nhưng chức

năng cơ bản của họ là chức năng quản lý – giáo dục. Người giáo viên chủ
nhiệm lớp thực hiện một số chức quản lý như sau:
- Quản lý toàn diện hoạt động của học sinh trong một lớp học
- Xây dựng tập thể và giáo dục toàn diện học sinh trong lớp
- Phối hợp và thống nhất các tác động để giáo dục học sinh lớp
mình chủ nhiệm
- Kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục toàn diện của học sinh lớp
mình chủ nhiệm
1.3.2. Quản lý hoạt động chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường trung
học phổ thông
1.3.2.1. Hiệu trưởng và vai trò, trách nhiệm, nhiệm vụ và quyền hạn của
người Hiệu trưởng trường trung học phổ thông
Bộ máy quản lý trường phổ thông bao gồm: ban giám hiệu, các bộ
phận chức năng và các đoàn thể. Ban Giám hiệu gồm từ 1 đến 3 người. Hiệu
trưởng là người phụ trách cao nhất của trường, chịu trách nhiệm trước Nhà
nước, trước nhân dân và trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động giáo dục
của trường.
Trách nhiệm của Hiệu trưởng được quy định tại điều 54 của Luật Giáo
dục năm 2005 như sau:
22
1. Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của nhà
trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận
2. Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phải được
đào tạo bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lý trường học
3. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ quyền hạn của Hiệu trưởng; thủ tục bổ nhiệm,
công nhận hiệu trưởng trường Đại học do Thủ tướng chính phủ quy định; đối
với các trường ở các cấp học khác do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; đối
với các cơ sở dạy nghề do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước sẽ dạy nghề
quy định
Điều lệ trường trung học phổ thông ban hành theo quyết định số

07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 tại khoản 1 - điều 19 nêu rõ nhiệm vụ
và quyền hạn của Hiệu trưởng, đó là:
a) Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
b) Thực hiện các Nghị quyết, Quyết nghị của Hội đồng trường được
quy định tại khoản 2 - Điều 20 của Điều lệ này
c) Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học
d) Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công
tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen
thưởng, kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước;
quản lý hồ sơ tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
đ) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ
chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký
xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học vào học bạ học sinh tiểu học (nếu
có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật
học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
e) Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường
23
g) Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên,
nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của
nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường
h) Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật
i) Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy
định trong khoản 1 Điều này.
1.3.2.2. Nội dung quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng
trường trung học phổ thông
Nhiệm vụ quản lý của người Hiệu trưởng đối với hoạt động chủ nhiệm
lớp được thể hiện trên hai khía cạnh:
- Quản lý đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp
-Quản lý các hoạt động của chủ nhiệm lớp

Hoạt động quản lý là một chuỗi công việc kế tiếp nhau, đã được tách
riêng thành từng việc trên cơ sở chuyên môn hoá. Đó là các chức năng quản
lý. Đối với bất kỳ đối tượng quản lý nào, ở cấp độ quản lý nào cũng phải thực
hiện những chức năng quản lý chung. Do đó, chức năng quản lý là tất yếu
khách quan của quản lý giáo dục hay quản lý bất kỳ đối tượng nào. Khi quản
lý trường học hiệu trưởng phải thực hiện chức năng cơ bản đó. Hệ thống chức
năng bao gồm: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, thông tin.
Đối với việc quản lý con người, người Hiệu trưởng phải căn cứ vào kế
hoạch tuyển sinh, môi trường thực tế, căn cứ vào đội ngũ để lựa chọn đội ngũ
giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp phù hợp với điều kiện của trường sao
có hiệu quả nhất. Việc lựa chọn giáo viên làm chủ nhiệm lớp thường thông
qua phỏng vấn, trao đổi để hiểu thêm về đội ngũ và dựa vào các tiêu chí sau:
- Về tri thức: Bên cạch những kiến thức sâu rộng về chuyên môn, mà
mình phụ trách giáo viên chủ nhiệm cần có những hiểu biết đầy đủ về các
hoạt động quản lý và giáo dục học sinh, những quy định vê sự phối hợp giữa
24
nhà trường với gia đình và xã hội . Đó là những hiểu biết về quy chế, quy
định về công tác quản lý giáo dục học sinh, những hiểu biết về nội dung ,
phương pháp giáo dục học sinh và tập thể học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cũng
cần nắm được những quy định và cách thức tiến hành các nội dung phối hợp
giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm với tổ
chức Đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm với các tổ chức xã hội, hội phụ huynh và
gia đình học sinh. Đặc biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải có những tri thức về
công tác giáo dục tập thể học sinh, giáo dục học sinh cá biệt, học sinh chậm
tiến về học tập, đạo đức; những tri thức về đặc điểm tâm sinh lý học sinh, về
nội dung ,phương pháp giáo dục các em…Những hiểu biết này là cơ sở hình
thành kĩ năng quản lý giáo dục học sinh, giúp giáo viên chủ nhiệm lớp làm
tốt vai trò và trách nhiệm của mình.
Để có được hiểu biết sâu rộng về nghề nghiệp, về đối tượng và phương
pháp giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải không ngừng cố gắng vươn lên,

thường xuyên cập nhật kiến thức và năng lực, học tập không mệt mỏi, suốt
đời.
- Về kĩ năng: Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,bên cạnh những kỹ
năng chung của giáo viên, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp cần có những kỹ
năng: Nhóm kĩ năng thiết kế các hoạt động giáo dục: Thiết kế các hoạt động
giáo dục sẽ làm cho hoạt động giáo dục tập thể học sinh được tiến hành một
cách chủ động về thời gian, đảm bảo nội dung và phương pháp tiến
hành.Muốn thiết kế các hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm phải biết thu
thập các thông tin, về tình hình của lớp học, của nhà trường xác định các mục
tiêu và cụ thể hóa các mục tiêu thành các hoạt động giáo dục…Hình dung ra
những thuận lợi và khó khăn khi tổ chức các hoạt động giáo dục.
Nhóm kỹ năng tổ chức triển khai các hoạt động giáo dục: Để tổ chức và triển
khai tốt các hoạt động giáo dục giáo viên chủ nhiệm cần có các khả năng thiết
lập mối quan hệ đối với học sinh, gia đình và các cá nhân có liên quan; Kĩ
25

×