Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Độc chất động vật và thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.24 KB, 34 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





Tiểu luận
Độc chất động vật và thực vật
Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Đặng Kim Chi
Nhóm thực hiện: Vũ Thị Thu Hiền
Đào Thị Lệ
Lớp: KTMT 2008 -2010










N

i 12 - 2
008

MỤC LỤC


MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Độc tố động vật 1
I.1. Các đặc điểm của độc tố động vật 1
I.2. Một số loài động vật có chất độc 2
I.3. Tác động của một số chất độc đối với con người 12
II. Độc chất thực vật 14
II.1. Độc tố gây ra viêm dạ dày 15
II.2. Thực vật có chứa Digitalis. 17
II.3. Thực vậ
t có chứa Nicotine, Cystisine, và Coniine 17
II.4. Thực vật có chứa Atropine 17
II.5. Thực vật gây chứng co giật 18
II.6. Thực vật có chứa xyanua 19
II.7. Thực vật có tích tụ Nitrat 19
II.8. Thực vật gây ra bệnh ngoài ra 20
II.9. Một số thực vật thường gặp có chứa độc tố 20
III. Nấm 24
IV. Độc tố Nấm 25
IV.1. Những biểu hiện của độc tố Nấm. 26
IV.2. Ảnh hưởng sinh học của độc tố Nấm. 26
IV.3. Thông tin chi tiết của một số độc tố Nấm 29
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31







Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nhiều năm qua, những thuật ngữ như tính độc, chất độc, độc tố, độc chất
hóa học, hóa học về chất độc được sử dụng một cách phổ biến. Tuy nhiên để phân
biệt được các thuật ngữ đó thật không dễ dàng.
Độc hóa học là môn khoa học chuyên nghiên cứu các hóa chất gây độc hại cho
sinh vật và hủy hoại môi trường, cơ chế gây độc đồng thời đư
a ra các phương pháp
phòng chống và trị liệu chúng
Các động vật có độc hay nọc độc có mặt trong tất cả các ngành và lớp động vật
trừ các loài chim. Các lớp động vật này có mặt ở tất cả các lục địa và gần như ở tất cả
các vùng nước trên trái đất. Khoảng 1200 loài được xếp vào loại có độc (theo tác giả
Russell, năm 1984). Rất nhiều thực vật có độc có mặt trên hành tinh của chúng ta và
ảnh hưở
ng đến các quần thể loài người cũng như động vật. Hàng trăm người đã bị
nhiễm độc do tiếp xúc với các chất độc trên thực vật, gây ra các thiệt hại hàng năm về
kinh tế do các động vật nuôi ăn phải các thực vật có độc. Sự có mặt khắp nơi của các
chất độc trên động và thực vật là mối quan ngại chính của con người.
Đối với mộ
t số loài động vật, việc sử dụng chất độc để tự vệ dường như đóng vai
trò thiết yếu đối với sự sống còn của chúng.
Các động vật có độc là các loài vật tạo ra chất độc ở tuyến phát triển cao hoặc ở
một nhóm tế bào và truyền chất độc này lên động hoặc thực vật khác thông qua việc
cắn hoặc đốt. Trong các trường hợp khác,
động vật có độc không thể truyền trực tiếp
chất độc của chúng mà chất độc này có thể được truyền thông qua việc nạn nhân ăn
phải bộ phận có độc.
Sự phóng chất độc được sử dụng bởi một sinh vật với một hoặc nhiều mục đích.
Nó được sử dụng như một vũ khí tấn công bằng cách làm tê liệt và tiêu hóa con mồi.

Ngoài ra nó còn là vũ khí ch
ống loài vật khác trong khi bị truy đuổi và ăn thịt.
Mặt khác, các động vật có độc có thể vào chất độc của chúng như là tác nhân tấn
công hoặc tự vệ Sự nhiễm độc cũng có thể xảy ra do ăn phải sinh vật có độc (theo tác
giả Russell, năm 1965). Các vụ nhiễm độc và các vết cắn chiếm đến 3,5% số vụ nhiễm
độc ở người tại Mỹ năm 1988 và vào khoảng 47.829 tr
ường hợp (theo tác giả Litovitz
và các đồng tác giả, năm 1989).
I. Độc tố động vật
I.1. Các đặc điểm của độc tố động vật
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 2
Các độc tố động vật khác nhau theo mức độ phức tạp của chúng và bao gồm một
hỗn hợp gồm các hợp chất có trọng lượng cỡ phân tử. Chúng bao gồm các polipeptit,
các enzim, và các amin gây ra chấn thương các mô mềm cục bộ hoặc chấn thương về
thần kinh và gây ra hầu hết các thiệt hại. Phospholipase A, một thành phần nọc độc
thường thấy, tác dụng phá vỡ các màng tế bào, làm tách đôi phosphoryl hóa oxi. cản
trở sự
hô hấp của tế bào, và kích thích sự giải phóng histamine, serotonin, và các kinin.
L-amino-oxidase, một thành phần thường thấy của nọc độc rắn, sẽ hoạt hóa các
peptidase của mô và gây ra giảm huyết áp cũng như các sự thay đổi về tim mạch.
Hyaluronidase gây ra sự hóa lỏng mô và tăng sự phân tán nọc độc ngoài mạch máu.
Nhiều protease phá vỡ các mô và gây ra xuất huyết đã được chiết xuất từ nọc độc rắn
(theo tác giả Russell, năm 1967). Các thành phần khác của độ
c tố động vật bao gồm
các chất chống đông máu, các aminopolysaccharide, các lipid, các steroid, các
glycoside (tìm thấy trong các chất bài tiết của cóc), và axít formic trong nọc độc của
ong bắp cày và ong cũng như trong nước bọt của kiến (theo các tác giả Russell và
Gertsch, năm 1983).
Hầu hết các nọc độc có tác dụng trực tiếp lên các tế bào và mô mà chúng tiếp

xúc. Mức độ gây hại phụ thuộc vào một thành phần cụ thể sẽ tích tụ bao nhiêu tại nơi
nó sẽ tác dụ
ng. Hầu hết nọc độc gây hại cho nhiều mô và gây ra nhiều hậu quả. Các
loài vật có chất độc cho hệ thần kinh chẳng hạn rắn Elapid (rắn san hô coral, rắn hổ
mang cobras, rắn mamba), nhện black widow, và bọ cạp. Các thành phần nọc độc còn
thường gây ra chứng tan máu, chứng xuất huyết, chứng máu đóng cục, sự thoái biến
protein, chứng suy tim, và dị ứng
I.2. Một số loài động vật có chất độc
1. Các loài r
ắn độc
Nọc của rắn gây độc theo nhiều cách:
- Gây loạn thần kinh, đặc biệt là cơ quan kiểm soát việc hô hấp và tuần hoàn,
dẫn đến co rút cơ bắp, nôn ói, co giật và tê liệt.
- Tác động lên máu hay mạch máu, phá hủy tế bào máu, gây xuất huyết nội;
làm đông máu khiến nạn nhân chết do tắc mạch.
- Tấn công và hủy hoại mô cơ, gây hoại tử, làm mô chết và gây ung thối.
Pit Viper. Các loại rắn độc ở
Mỹ thuộc ba nhóm: pit viper, elapid và rắn nước
(tham khảo Bảng.10.1). Các loại rắn thuộc nhóm Pit Viper là nhóm lớn nhất và bao
gồm năm phân loài rắn hổ mang copperhead (Agkistrodon contortrix), ba phân loài rắn
hổ mang cottonmouth water (A. piscivorus), ba phân loài rắn chuông pygmy (Sistrurus
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 3
miliaris), ba phân loài rắn chuông massassauga (S. catenatus), cũng như ít nhất 26 loài
rắn chuông khác (Crotalus spp.). Chức năng cơ bản của nọc độc rắn là làm gây mê nạn
nhân và tiền tiêu hóa các mô của nạn nhân.
Bảng 1.1. Phân loại và sự phân bố của các loại rắn độc ở Mỹ.
Phân loại Phân bố
Nhóm Pit viper
Rắn chuông (Crotalus spp.)

Rắn hổ mang copperhead (Agkistrodon contortrix)
Rắn hổ mang cottonmouth water (A. piscivorus)
Nhóm Elapid
Rắn san hô coral (Micrurus spp.)
Nhóm rắn nước
Rắn lyre California (Trimorphodon vanderbrughii)

Toàn lục địa Mỹ
Phần phía đông, phía nam của Mỹ
Phần phía đông, phía nam của Mỹ

Phần phía đông, phía nam của Mỹ

Phần tây nam của Mỹ
Nọc độc của nhóm rắn pit viper chứa hai thành phần chính: polypeptide enzym và
không enzym. Các enzym chủ yếu là hyaluronidase và phospholipase A, sẽ tương ứng
phá hủy các màng và tách đôi sự phosphoryl hóa oxi. Các triệu chứng đông máu (kém
đông máu) xảy ra sẽ ảnh hưởng đến các bước enzym của từng mức vón cục khác nhau
tùy thuộc vào loại rắn pit viper cụ thể. Thành phần không enzym tác động trực tiếp lên
hệ tim mạch và hô hấp. Nọc độc của rắn chuông gây ra là sự tích máu trong đáy gan lá
lách hoặc các mạ
ch máu chính vùng ngực tùy vào loại nạn nhân. Hậu quả cuối cùng
của nọc độc trên tất cả các loài là chứng giảm huyết áp. Hầu hết nọc độc của rắn pit
viper sẽ phá hủy thành mạch máu gây ra sự thoát các tế bào màu đỏ của máu và huyết
tương. Lên đến 1/3 lượng máu tuần hoàn có thể bị thoát ra không gian giữa các mô
trong vòng vài giờ nếu tình trạng nhiễm độc nặng. Mặc dù các vết cắn của các loài rắn
pit viper thường đ
i kèm với các bất thường về huyết học, một số loài như rắn chuông
Mojave (Crotalus scutulatus scutulatus) còn có các chất độc thần kinh.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của vết cắn của rắn pit

viper. Mức độ độc thay đổi theo từng loài. Tuy nhiên rất ít trường hợp bị chết được ghi
chép do vết cắn của rắn hổ mang copperhead. Kích thước của rắn là một nhân t
ố quan
trọng trong việc phán đoán mức độ độc hại vì các loài rắn lớn thường phóng một
lượng nọc độc lớn hơn theo tỷ lệ thuận. Số lượng cũng như tính chất của nọc độc cũng
bị ảnh hưởng bởi các nhân tố về thời gian. Rắn non hơn có sự tập trung peptide lớn
hơn trong nọc độc của chúng. Thành phần peptide còn được biết đế
n là tăng lên vào
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 4
mùa xuân hàng năm. Khoảng thời gian và lượng nọc độc từ lần cắn trước cũng ảnh
hưởng tới lượng nọc độc dự trữ vì cần thời gian để tái tạo. Động cơ của rắn cũng tạo
sự khác nhau chẳng hạn các vết cắn tấn công thường độc hơn các vết cắn để phòng
thủ. Vết cắn khi hấp hối có lẽ là nguy hiểm nhấ
t (đầu rắn bị chặt còn nguy hiểm trong
vòng 1,5 giờ). Các nhân tố liên quan đến phản ứng của nạn nhân là kích thước của nạn
nhân, kích thước vết cắn, thời gian từ khi bị cắn, và hoạt động của nạn nhân từ khi bị
nhiễm độc.
Triệu chứng lâm sàng do rắn cắn là bị phù nặng (sưng tấy) và ban đỏ (tấy đỏ) tại
chỗ cắn. Chứng phù và ban đỏ sẽ phát triể
n ra cả đầu, chi, hoặc thậm chí toàn bộ cơ
thể. Việc đau cục bộ sẽ xảy ra ngay lập tức, sự vận động trở nên đau đớn và khó khăn,
và gây ra sự đau cơ nghiêm trọng. Nạn nhân sẽ cảm giác rất khát nước. Một số nạn
nhân sẽ bị buồn nôn, nôn, tiêu chảy. Bị sốc là biến chứng quan trọng của các nạn nhân
trẻ. Phản vệ c
ũng được ghi nhận là một hội chứng lâm sàng hiếm thấy. Nếu nạn nhân
bị cắn ở mặt hoặc cổ, sự phù nặng mô mềm và triệu chứng viêm sẽ gây ra sự ngẽn các
đường hô hấp trên dẫn đến khó thở.
Rắn Elapid (Rắn san hô Coral). Vết cắn do rắn san hô coral thường nguy hiểm hơn
vết cắn của rắn chuông do khả năng gây ra liệt hô hấp và do đó cần phải đả

m bảo hỗ
trợ y tế ngay lập tức. Các loại rắn san hô coral thường không tấn công trừ khi bị truy
đuổi. Trẻ em thường bị hấp dẫn bởi các màu sáng của rắn và do đó thường là nạn nhân
của loại rắn này. Sự đau do vết cắn thường rất ngắn. Nọc độc của loại rắn này chủ yếu
là chất độc thần kinh; tuy nhiên, cơ chế hoạt độ
ng của nó đang được hiểu một các sơ
sài. Các dấu hiệu của hệ thống thần kinh trung ương thường xảy ra là tê liệt các chi,
mất phương hướng, liệt cơ xương và cơ hô hấp. Các chữa trị duy nhất là liệu pháp sử
dụng thuốc chống rắn cắn ngay lập tức (theo các tác giả Peterson và Meerdink, năm
1989)
Rắn biển. Một số loài rắn elapid biển giống rắn hổ mang cobra
đã được biết đến. Vết
cắn của rắn biển gây ra các dấu hiệu tương tự với vết cắn của rắn hổ mang cobra.
Trong khoảng 20 phút đến vài tiếng, nạn nhân sẽ có cảm giác lưỡi dầy lên. Các cảm
giác cứng cơ, chứng liệt và cứng quay hàm tăng lên là các triệu chứng điển hình. Các
cơn co thắt có thể xảy ra và tỷ lệ tử vong vào khoảng 25%.
Rắn chuông long lanh.
Có tên khoa họ
c là Crotalus adamanteus, có chiều dài từ 90cm – 2,4m, chúng
sống tập trung ở miền Đông nước Mỹ. Bằng nọc độc tấn công tế bào máu của con vật
hiến sinh, con rắn này là một trong số những con rắn nguy hiểm nhất Bắc Mỹ. Nó
dùng đuôi phát ra tiếng động, mỗi lần lột xác thì phần phụ mới ở đuôi lại xuất hiện.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 5


2. Thằn lằn.
Chỉ có hai loại thằn lằn độc được biết đến là Gila monster (Heloderma
suspectum) và thằn lằn Mexican beaded (H.horridum). Các loài thằn lằn này có răng
dạng rãnh với bốn tuyến nọc độc ở mỗi bên của hàm dưới sẽ cung cấp nọc độc đến bề

mặt sau của răng. Theo ghi nhận, tất cả các răng đều có độc chứ không chỉ mỗi các
răng hàm. Thằn l
ằn Gila monster và Mexican beaded đã được biết đến là thường cắn
và nhai do đó gây độc cho nạn nhân hiệu quả hơn so với trường hợp chỉ cắn. Nọc độc
heloderma chưa được xác định rõ nhưng có một loại chất độc thần kinh,
hyaluronidase, các peptide kích hoạt mạch, và hai arginine esterases đã được đã được
chiết xuất. Chất độc còn chứa nhân tố kích thích cơ trơn ổn định nhiệt. Nghiên cứu gần
đây đã phát hiện enzym giảm huyết áp dạng kallikrein từ nọc độc của thằn lằn
Mexican beaded (theo các tác giả Peterson và Meerdink, nằm 1989). Đau đớn và phù
nề tại vết cắn đã được ghi nhận. Các triệu chứng này sẽ lan nhanh lên toàn bộ cơ thể
gây ra sốc, nôn mửa, suy giảm hệ thống thần kinh trung ương cho nạn nhân.
3. Các loài lưỡng cư
Rất nhiều loài lưỡng cư tạo ra dịch tiết ở các tuyến c
ủa da nhằm chống lại việc
khô da làm cho các động vật ăn thịt nhụt chí, và kiểm soát sự sinh trưởng của các tổ
chức tế vi trên bề mặt. Các dịch tiết gây nhiễm độc tế bào và hồng cầu. Mặc dù tất cả
các loài cóc và một số loài ếch tiết ra các chất trên da của chúng, nhưng chỉ có một số
loài là tiết ra các chất độc. Các loài này bao gồm cóc Colorado River (Bufo alvarius),
cóc biển (B. marinus), và ếch arrow poison (Dendrobates spp.)
ở miền trung và nam
của Mỹ. Các loài cóc này được tìm thấy ở Florida, hệ thống thoát nước của sông
Colorado ở Arizona và California, và ở Hawaii. Các tuyến độc (các tuyến da phía sau
mắt) tiết ra chất độc phức tạp gây ra các triệu chứng tương tự với các chất dẫn xuất từ
các glycoside kích thích tim. Các triệu chứng lâm sàng là tiết nước bọt nhiều, kiệt sức,
loạn nhịp tim, chứng co giật, và chết chỉ trong vòng 15 phút.
Chất độc trên các loài sa nhông và kỳ
nhông đã được nghiên cứu tỉ mỉ. Chất độc
taritoxin đã được chiết xuất từ ba loài sa nhông: sa nhông California (Taricha torosa),
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 6

sa nhông châu Âu (Triturus spp.), và loài unk (Bombia variegota). Các chất độc này
tác động lên hệ thần kinh trung ương dẫn đến giảm huyết áp và mất xúc giác.
4. Các động vật biển
a. Động vật ruột khoang. Các động vật ruột khoang gồm các loài thủy tức
(Portuguese man-o-war), sứa, san hô, và hải quỳ có độc. Các động vật ruột khoang có
các tế bào ngòi độc được biết với tên nematocyte được sử dụng để phòng thủ hoặc tìm
thức ăn. Dấu hiệ
u lâm sàng của các vết chích là chứng đau dây thần kinh, cảm giác
nhức nhối, đau nhói, đau mạnh, kiệt sức, chứng đỏ da, ngứa, nổi mày đay, sốc, chứng
chuột rút, buồn nôn, nôn, đau lưng, cấm khẩu, chứng tiết nước bọt (tiết nhiều nước
bọt), bị liệt, mê sảng, chứng co giật, và chết (theo tác giả Russell, năm 1984).
b. Động vật thân mềm. Các động vật thân mề
m là động vật không xương sống
không phân đoạn thường bao gồm bởi sò đá vôi và có chân bằng cơ bụng được sử
dụng để di chuyển. Trong khoảng 80.000 loài, khoảng 85 loài được biết đến là gây độc
cho con người. Ốc sên thuộc lớp Conus (thể nón) là nguy hiểm nhất. Chất độc được sử
dụng để làm tê liệt con mồi và hiếm khi được sử dụng để phòng thủ. Hệ thống truyền
chất độc tinh vi bao gồm ống chất độc và các răng rỗng được sử dụng. Vết cắn của
động vật chân bụng gây ra đau nhói và nhức nhối. Các triệu chứng bao gồm chứng
thiếu máu cục bộ, chứng xanh tím, chứng tê cóng, chứng liệt và hôn mê.
c. Động vật chân đầu. Nhiều loài thuộc lớp động vật chân đầu bao gồm bạch
tuộc, mực ống, mực, ốc anh vũ là có
độc. Tuyến độc là một phần của hệ thống tiêu hóa
của các động vật này. Hiện vẫn chưa rõ bộ phận nào của động vật chân đầu có chứa
chất độc. Vết cắn gồm hai chấm nhỏ dẫn đến cảm giác bỏng hoặc đau nhói thần kinh,
xuất huyết từ vết thương, sưng phù, và chứng viêm. Các vết thương này rất đau nhưng
ít khi gây chết ngườ
i.
d. Động vật da gai. Một lớp khác của động vật không xương sống gồm các loài
gây độc cho con người là động vật da gai, thường được biết là các loài sao biển, nhím

biển, và hải sâm. Các gai nhỏ (chân kìm nhỏ) bằng canxi cacbonát bao quanh thân của
chúng. Các gai này có chức năng tìm kiếm thức ăn, làm đẹp, và phòng thủ. Các gai
nhả chất độc trực tiếp lên da. Các dấu hiệu lâm sàng bao gồm cảm giác bỏng nặng và
chứng viêm lập tức tại vế
t thương, tiếp theo là tình trạng tê cóng và liệt cơ. Các vết
thương này thường không nghiêm trọng (theo tác giả Russell, năm 1984).
e. Cá. Cá độc gây ra vết thương bằng ngạnh của chúng dưới dạng cơ học hoặc kết
hợp với bộ phận tạo ra chất độc. Ngạnh cá thường nằm trên vây lưng hoặc vây ngực.
Hơn 200 loài cá được ghi nhận là nguy hiểm. Trúng độc từ cá ratfish, cá quái bạc, và
cá trê (có nhiều ở phương Đông) gây ra
đau đớn tức thời và nhói và có thể mất khả
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 7
năng làm việc. Chứng viêm cục bộ có thể ở mức độ rất trầm trọng dẫn đến hoại tử và
sốc. Vết châm của cá weaver (Trachinus spp.), cá bọ cạp (Scorpaenidae), cá sư tử
(Pterois spp.), và cá đá (Synanceja) gây ra các dấu hiệu tương tự với vết châm của cá
ratfish, nhưng có thể dẫn đến sưng tấy và tê liệt của chi bị ảnh hưởng, bệnh toàn thân,
và chết. V
ết châm của cá mập hound shark hoặc cá mập spring shark và cá đuối
thường ít nguy kịch, và gây ra đau đớn và hiếm khi là giảm huyết áp, nôn mửa, tiêu
chảy, và đổ mồ hôi. Cá cóc và cá đuôi gai gây ra vết thương cơ học bằng các ngạnh
hình cây thương có thể di chuyển nằm ở phần đuôi của chúng.
Một số loài cá có độc nếu ăn phải. Cá ăn phải tảo đơn bào hai roi cũng có độc nếu
ăn vào. Cá ăn thị
t ăn cá ăn cỏ đã ăn phải thuốc bảo vệ thực vật độc hại cũng gây độc
hại nếu ăn vào. Một số loài cá độc do chính chất độc của chúng. Gan cá mập cũng có
thể độc hại, và cũng không nên ăn lươn moray vùng nhiệt đới. Cá scromboid chẳng
hạn cá ngừ Califoni, cá thu, cá ngừ cũng có thể có độc nếu bị ươn. Cá nóc, đặc sản rất
đắt đỏ
ở Nhật Bản, nên được chế biến một các đặc biệt. Dấu hiệu của sự nhiễm độc là

sự đau nhói dây thần kinh ở môi và lưỡi, mất điều hòa trong vòng 10 đến 45 phút, tiếp
theo đó là nuốt vào (ingestion), buồn nôn, nôn, tiêu chảy, triệu chứng liệt, co giật dẫn
đến tỷ lệ tử vong là 60%.
Không nên ăn cá có chất ciguatoxin hoặc ichthyosarcotoxin. Bất kỳ cá biển nào
cũng có thể trở nên có độc, có th
ể là do kết quả của những thói quen ăn uống. Các chất
độc này có thể hòa tan trong nước, do đó thịt cá phải được rửa sạch để chấy độc trôi ra
ngoài, và nước này được đổ đi. Cũng không nên ăn trứng cá. Các dấu hiệu của nhiễm
độc ciguatoxicosis là đau dây thần kinh ở môi, lưỡi, và cổ họng dẫn đến tê liệt, buồn
nôn, , cứng bụng, tiêu chảy, đau đầu, lo lắng và co thắt, ngườ
i rất yếu và tê liệt, đau cơ,
thị lực kém, viêm da. Tỷ lệ tử vong vào khoảng 7%. Chất ciguatoxin ngăn enzym
acetylcholinesterase và cho phép sự tích tụ acetylcholine tại màng postsynaptic, dẫn
đến sự phá hủy chức năng thần kinh và liệt hô hấp.
h. Động vật có vỏ. Động vật có vỏ trên nhiều đại dương cũng gây ra nhiễm độc
nghiêm trọng. Tảo đơn bào dinoflagellate có chứa chất độc được lọc qua các bộ phận
tiêu hóa và hô h
ấp của động vật có vỏ. Mặc dù động vật có vỏ không bị ảnh hưởng gì,
con người và các động vật khác ăn động vật có vỏ có thể bị nhiễm độc. Việc nhiễm
độc được ghi nhận là theo mùa (thường là vào mùa hè) và được quy cho “tảo nở hoa”,
và thường được gọi là hiện tượng “thủy triều đỏ”. Các loài động vật có vỏ tạo ra
toxicosis là sò, trai, trai Bắc Mỹ, và hàu. Chất độc nằm trong các c
ơ quan tiêu hóa,
mang, và vòi. Chất độc này nóng và tan trong nước. Nạn nhân bị nhiễm độc thường bị
buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, cứng bụng khoảng 12 tiếng sau khi ăn vào. (Các triệu
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 8
chứng này cũng có thể do sự nhiểm khuẩn và vi sinh vật của động vật có vỏ). Dị ứng
cũng được ghi nhận với những nạn nhân trước đó đã tiếp xúc với chất độc.
Nhiễm độc động vật có vỏ nặng là kết quả của chất saxitoxin tạo ra bởi

dinoflagellate. Chứng đau nhói dây thần kinh và nóng môi, lợi, lưỡi và mặt sẽ xảy ra,
và sau đó lan ra các khu vực khác c
ủa cơ thể. Tê liệt, đau vùng mặt, đau khớp, chứng
ứa nước bọt, khát nước, khó nuốt, và tê liệt dẫn đến chết người có thể xảy ra.
Rùa. Các loại rùa biển đã được biết đến là có độc, cụ thể là các loài ở vùng Ấn
Độ Dương-Thái Bình Dương. Chỉ nên ăn gan của các loại rùa này với sự chú ý đặc
biệt. Các dấu hiệu nhiễm độc gồm đau phía tr
ước đầu, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy,
đau bụng, chóng mặt, buồn ngủ, khó chịu, sợ ánh sáng, các cơn co thắt.
5. Động vật chân đốt (Động vật thuộc lớp nhện)
Chỉ có một số lượng nhỏ động vật chân đốt đủ gây độc nguy hiểm cho con người.
Tuy nhiên, các động vật chân đốt được cho là độc với con người hơn các nghành khác
cộng lại. Khoảng gần 30.000 loài nhện được cho là có độ
c, chỉ một số nhỏ có răng nọc
đủ xuyên qua da nạn nhân. Vết cắn của nhện black widow (Latrodectus spp.) gây ra
rung cơ cục bộ, đổ mồ hôi, tình trạng khó ở. Loài nhện đen lớn ở châu Âu
(Aphonepelma spp.), có vẻ hung dữ và nguy hiểm tạo ra vết thương không mấy nguy
hiểm.
Vết cắn của loài nhện brown recluse hoặc loại nhện violin (Lovosceles reclusa),
loài vật có ở khắp nơi như sống trong nhà, chuồ
ng trại, bên ngoài, gây ra sự khó chịu.
Tuy nhiên, khu vực vết cắn thường bị hoại tử và gây lở loét gây ra sự kết vảy hàng loạt
của các mô mềm tạo ra vết sẹo méo mó. Các triệu chứng trên cơ thể có thể xảy ra bao
gồm mệt mỏi, buồn nôn, khó di chuyển, nôn mửa, thiếu máu tan huyết, chứng giảm
tiểu cầu (theo các tác giả Peterson và Meerdink, năm 1989).
Chất độc neurotoxin của nhện gây khó thở, đau đớn, tim đậ
p nhanh và có thể làm
chết người. Neurotoxin của nhện Latrodectus mạnh gấp 15 lần nọc rắn đuôi chuông.
Nhện độc tại Australia có lượng nọc đủ giết chết một em bé trong 1 giờ.
a. Nhện góa phụ đen

Họ Theridiidae, nó kích thước gần 1,2cm, số lượng loài 2500 con. Con nhện cái
tung các dây tơ lên trên con mồi mà nó bẫy được trong mạng nhện. Vết cắn của nó độc
còn hơn độc của con rắn chuông. Nhện đực không cắn, nên loài nh
ện này có tên là góa
phụ đen.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 9


b. Bọ cạp
Trong nọc độc bọ cạp có chất katsutoxin (còn gọi là butothoxin). Độc tính của
nọc bọ cạp đối với thần kinh giống như nọc rắn. Nọc bọ cạp khiến nạn nhân đau đớn
dữ dội kèm theo nôn mửa, tăng huyết áp, co giật và hôn mê. Có loại ngăn cản xung
động thần kinh từ não xuống cơ bắp và cơ quan khác, gây tê liệt; có loại gây co cứng
cơ, d
ẫn đến tử vong.
Bọ cạp (Centroides spp.).Họ hàng xa của loài nhện, được biết đến là gây ra vết
thương đau đớn bằng gai ở phần đuôi. Chất độc Centroides sculpturatus chứa năm
chất độc thần kinh khác nhau kích thích các kênh chuyển natri gây ra các khả năng vận
động chậm và sự khử cực các đầu khớp thần kinh. Điều này sẽ dẫn đến gây ra độc hại
thần kinh kích thích. M
ỗi năm có hàng nghìn vụ bị bọ cạp đốt được ghi nhận ở
Mexico. Vết đốt ban đầu gây ra đau nhẹ. Sau đó các triệu chứng sẽ khác nhau ở người
lớn và trẻ em. Ở trẻ em, các triệu chứng thay đổi từ sự bơ phờ, và chuyển động bất
thường của đầu cho đến nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh, mất điều hòa (mất sự kết
hợ
p), và liệt hô hấp. Nếu không xảy ra chết người, đứa trẻ sẽ hết triệu chứng trong
vòng 36 tiếng. Hội chứng với người lớn thường ít nguy hiểm hơn, nạn nhân sẽ hết
triệu chứng trong vòng 12 đến 24 tiếng (theo tác giả Keegan, năm 1980).
Bọ cạp lông

Họ Buthidae, có kích thước 5 – 7cm, số lượng loài 700. Con bọ cạp này có thân
đầy lông con nối liền với các đầu mút có độc, cho phép đảm nhận mọi cử
động nhỏ
nhất chung quanh, và do vậy nó dễ dàng phát hiện ra con mồi. Nó làm bất động con
mồi trong cái gọng, trước khi ăn nó làm tê liệt hoặc giết chết con mồi bằng cách chích
độc.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 10

c.Con rết:
Rết: Một trong số rất nhiều cặp chân của rết có những mấu thịt cực khoẻ và
vuốt sắc mà tuyến độc tố tiết chất độc vào đó. Cặp chân này có tác dụng bắt và giết
con mồi. Vết đứt mà chân một số loài rết gây ra rất nguy hiểm cho con người.
Có tên khoa học Lithobius forficatus, kích thước 3cm, phân bố châu Âu. Nó di
chuyển khá nhanh trên 15 đôi chân. Nó là động vật ăn nhện và các con vật nhỏ bé
khác. Nó bắt con mồi trong các vuốt sắc rồi tiêm thuốc độc làm tê liệt con mồi.


6. Cóc tía phương Đông:
Tên khoa học Bombina orientalis, có kích thước 5cm, phân bố Xiberi, Đông
Bắc Trung Quốc, Triều Tiên. Da con cóc này tiết ra một chất kích thích đối với miệng
và mắt con mồi. Khi bị đe dọa, nó chưng cái bụng đỏ hồng có chấm đen để đối phương
thấy, rồi bỏ ý định tấn công. Con cái đẻ các túi trứng, mỗi túi từ 2 – 8 trứng.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 11

Ếch Mũi tên độc: Một trong những loài lưỡng cư có khả năng tiết độc tố từ
các tuyến trong da. Tại sao nó lại có cái tên như vậy? Đó là vì thổ dân các
vùng Trung và Nam Mỹ vẫn thường tẩm chất độc của da ếch vào đầu mũi tên
để làm vũ khí chiến đấu.


7. Côn trùng
Kiến California harvester (Pogonomyrmex californicus) và kiến lửa (Solenopsis
xyloni) gây ra các vết đốt đau cục bộ do axit formic trong nước bọt của chúng. Các vết
thương sẽ trở nên nguy hiểm nếu bị nhiều vết đốt cùng lúc. Vết đốt ong wasp, ong bắp
cày, ong mật gây ra khoảng 200.000 phản ứng phản vệ ở Mỹ hàng năm. Vết đốt có thể
gây ra sưng tấy cục bộ và gây ra phản vệ ở nạn nhân nhạ
y cảm. Nhiều vết đốt có thể
gây ra sưng phù và dị ứng chỉ mất đi sau vài phút đến vài giờ. Vết cắn của bướm cũng
có thể gây ra bỏng cục bộ.
Ăn phải bọ ban miêu (Epicuata spp.) gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho vật
nuôi, đặc biệt là ngựa. Loài bọ này sống trong cỏ linh lăng. Mặc dù chúng bị chết rất
nhiều do các phương pháp xử lý cỏ khô hiện đại bao gồm g
ập và đóng thành bó, chúng
vẫn còn ở trong các bó cỏ. Yếu tố gây độc là chất cantharidin gây ra vết bỏng cho bộ
máy tiêu hóa và bài tiết. Nếu thận bị ảnh hưởng nặng có thể dẫn đến tử vong.
8.Bướm độc arctiide:
Họ Arctiidae, có kích thước sải cánh 2 – 7cm, số lượng loài 2500. Con bướm
trưởng thành và con sâu loài bướm này có đường nét lòe loẹt. Con sâu ăn cây thường
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 12
độc đối với động vật có xương sống và nó tích đọng chất độc của cây trong cơ thể nó,
khi trường thành con bướm cũng có độc nhằm chống lại con vật ăn mồi.

9. Động vật có vú
Chỉ một số loài động vật có vú là có độc. Thú mỏ vịt đực (Ornithorphynchos
anathmus) có cựa bằng sừng có thể cử động được ở phía trong của chi sau và gần với
gót chân. Cựa này được nối với đùi hoặc tuyến độc. Rất hiếm trường hợp tấn công
người, cũng như không để lại hậu quả nghiêm trọng. Có thể có hiện tượng sư
ng tấy và

đau tại chỗ bị thương và nạn nhân có thể bị sốc nhẹ. Bộ máy của tuyến chất độc và
hoạt động của chất độc của thú ăn kiến phủ đầy gai (Tachyglossus spp. và Zaglossus
spp.) tương tự với thú mỏ vịt. Chuột chù có các tuyến nước bọt ở hàm dưới
Thú mỏ vịt: Loài thú có vú rất nhút nhát, sống ở Tasmania, đông và nam Australia.
Con đực trưởng thành có tuyến
độc ở chân sau, khi cần có thể phun chất độc ra.
10. Chim Petohui: Loài chim duy nhất có độc tố. Nơi cư trú của chúng là Papua New
Guinea. Năm 1992, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng lông và da của loài chim này
chứa một lượng chất độc có tên là homobatrachotoxin. Chất này có thể gây tê và mẩn
ngứa trên da bất kỳ người hay động vật nào chạm phải nó.
I.3. Tác động của một số chất độc đối với con người.

Từ nọc độc của các loài rắn, ong, bọ cạp, cóc, nhện có thể giết người trong
chớp mắt nhưng cũng giúp chữa các bệnh hiểm nghèo, chẳng hạn như ung thư.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 13
Việc ứng dụng trên đang ở mức độ khiêm tốn (các nhà khoa học mới chỉ xác định
được khoảng 1-2% trong số 400.000 protein của các thứ nọc độc). Tuy nhiên, nó vẫn
mở ra một hướng đi nhiều hứa hẹn trong việc tìm tòi các thuốc mới hiệu lực cao.
Nọc rắn
Nọc rắn thường được dùng để chế tạo huyết thanh kháng nọc, chữa cho những
người bị rắn c
ắn. Khoảng 400 loài rắn có nọc độc, và huyết thanh chế từ loài nào chỉ
chữa được cho người bị loài rắn đó cắn. Hiện gần 100 quốc gia đã chế tạo trên dưới
200 loại huyết thanh. Việt Nam đã điều chế thành công loại huyết thanh kháng nọc rắn
hổ đất, lục tre, hổ chúa và chàm quạp.
Nọc rắn còn được dùng chế các thuốc giảm đau, chống viêm trong thấp khớ
p, đau
cơ, đau dây thần kinh dưới dạng tiêm hay thuốc mỡ.
Nọc rắn độc hổ mang ở Brazil có chất captopril gây hạ huyết áp rất nhanh khiến

con mồi bủn rủn, tê liệt. Các nhà khoa học đã mô phỏng và chế tạo được chất này để
chữa trị bệnh tăng huyết áp.
Loại nọc độc làm đông máu được ứng dụng chế tạo thuốc cầm máu, chống chả
y
máu nội tạng.
Từ nọc độc của rắn hổ mang, các nhà khoa học đã trích ra một chất có tên là
contortrastin, có khả năng khống chế tế bào ung thư, làm chậm sự lan truyền của các
khối u.
Nọc độc của bọ cạp
Nọc rắn đã đắt nhưng nọc bọ cạp còn đắt hơn, muốn có 1 g nọc phải lấy từ 8.000
con bò cạp (mỗi con chỉ lấ
y một lần). Trong nọc độc bọ cạp có chất katsutoxin (còn
gọi là butothoxin). Độc tính của nọc bọ cạp đối với thần kinh giống như nọc rắn. Nọc
bọ cạp được dùng để điều trị những rối loạn của hệ thần kinh.
Viện ung thư và chiếu xạ sinh học Canada đã điều chế thành công loại thuốc có
tên là Escozul từ nọc độc c
ủa bọ cạp xanh, dùng điều trị một số bệnh ung thư,
parkinson, viêm khung chậu. Thuốc được áp dụng cho hơn 70.000 bệnh nhân, kết quả
khả quan.
Nọc ong
Những người nuôi ong thường không bị thấp khớp vì trong quá trình tiếp xúc với
ong, họ không thể tránh khỏi một vài lần bị ong đốt. Từ thực tế này, các nhà khoa học
đã nghiên cứu và phát hiện nọc ong có khả năng chứa bệnh khớp. H
ọ chế tạo được
dược phẩm chứa mellitine có tác dụng kháng viêm giảm đau mạnh gấp nhiều lần
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 14
hydrocortison, dùng trong bệnh thấp khớp. Melltine còn được dùng trong phẫu thuật
chỉnh hình và thẩm mỹ để làm các tế bào mịn màng hơn khi trở thành sẹo.
Các nhà khoa học đang hy vọng chế tạo từ nọc ong một loại văcxin chống dị ứng

- căn bệnh tăng rất nhanh trong 20 năm gần đây.
Mủ cóc
Mủ cóc rất độc nhưng từ lâu đã được trong Đông y với tên gọi thiềm tô. Nó có
công d
ụng giải độc, tiêu sưng, chữa mụn nhọt, sưng đau họng, đau bụng (do bị cảm),
cảm sốt, kinh giật, mê sảng.
Ở Canada, dân nghiện ma túy đã sử dụng chất độc có trong da một loài cóc khổng
lồ (xuất xứ từ Australia) vì nó tạo cảm giác "phê" như ma túy. Việc này đã tạo ra một
chiến dịch săn bắt cóc trên nên chính phủ Canada phải ra lệnh cấm.
Nọc nhện
T
ừ nọc độc của loài nhện ở Chile, các nhà khoa học Mỹ bào chế ra một chất có
tên là Gs. Mtx-4, giúp điều hòa nhịp tim của những con vật thử nghiệm nhằm chế tạo
một loại thuốc chữa rung tim.
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng nhận thấy chất độc có trong loài sên nón có tác dụng
giảm đau mạnh gấp hàng nghìn lần morphin mà không gây nghiện; chất độc gây ngứa
của hải sâm tác dụng ngăn chặn sự lan r
ộng của tế bào ung thư Họ đang hy vọng từ
các nọc độc chết người này sẽ tìm ra "thần dược" làm tăng tuổi thọ của loài người
II. Độc chất thực vật
Sự nhiễm độc thực vật bởi con người và động vật là một điều rất bình thường. Năm
1988, thực vật xếp thứ 4 trong những độc chất xảy ra thường xuyên có
ảnh hưởng tới
con người ở Mỹ. Trong thời gian này có khoảng 94 000 trường hợp xảy ra (chiếm
6,9% trong tổng tất cả các trường hợp được phát hiện). Trong đó có một vài bệnh nhân
không có biểu hiện ảnh hưởng gì, một số bệnh nhân cần phải chữa trị hay đi bệnh viện,
thậm trí có nhiều trường hợp còn bị tử vong.
Chắc chắn chỉ có một phần rất nh
ỏ của loài (hoa, dễ, lá, quả, vỏ cây,…) cần để hấp thụ
thành sản phẩm có ảnh hưởng sâu sắc. Một số loài thực vật là chất độc nếu nhai hoặc

nuốt, mặt khác có một số loài gây dị ứng, hoặc gây ra bệnh viêm da, hoặc gây tổn hại
đến toàn bộ cơ quan. Một số thực vật chỉ nguy hại nếu như ăn hoặc là nhai vào một
giai đoạn phát tri
ển nào đó của chúng. Một số cây khác là độc chất trong cả quá trình
phát triển.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 15
Loài thực vật và các giai đoạn phát triển của chúng hoặc các mùa của năm rất là quan
trọng trong việc xác định khả năng cho phép hấp thụ độc chất.
Rất là khó để thống kê đầy đủ về sự nguy hiểm hoặc những nguy hiểm của độc chất từ
thực vật bởi vì chưa có một báo cáo đầy đủ và thông tin giới hạn để Bác sỹ đạt được sự
đồ
ng nhất thực vật đáng tin cậy.
II.1. Độc tố gây ra viêm dạ dày.
Phần lớn các ca nhiễm độc thực vật ở U.S xảy ra từ hấp thụ thực vật có chất kích ứng
gây viêm dạ dày. Hàng loạt triệu trứng từ quá trình đốt cháy miện và cuống họng, Khi
một đứa trẻ chập chững biết đi nhai những lá cây trong vườn như các cây leo phát triển
trên ngưỡng cửa sổ (Philodendron: cây Môn xanh), hoặc chậ
u cây Dumlcane
(Diefenbachia) trước cửa, gây nôn mửa, và rửa sạch đường ruột từ các dễ tươi và thân
cây thương lục (pokeweed), hạt giống cây đậu tía, hạt của cây nguyệt quế, hoặc lá của
cây mao lương hoa vàng (Ranunculus sp). Sự tấn công của chất kích thích có thể thay
đổi được, phục thuộc vào đặc tính tự nhiên của độc chất, cần thiết cho sự hoạt hóa sinh
học của các chất kích thích, và một vài cơ chế khác gây ra nôn mửa và bệnh viêm d

dày. Nhiều cây chỉ gây ra triệu trứng rất nhỏ ở người lớn nhưng có thể gây nôn mửa
nặng và ỉa chẩy trong trẻ nhỏ, cuối cùng gây mất nước và mất cân bằng điện hóa.
Một vài chất gây nhiễm độc là sản phẩm của cây có chứa anbumin độc, như là
cây cam thảo dây (abrus precacious) và cây thầu dầu (Ricinus communis). Trong quá
trình nuốt và hấp thụ các hạt giống của các hạt cây này, Một sự tạm ng

ừng đáng kể có
thể xẩy ra trước khi có dấu hiệu kích thích. Quá trình tạm ngừng này phục thuộc vào
số lượng đã bị nuốt. Triệu chứng của quá trình tạm ngừng này có thể ngắn từ 1 đến 2
giờ, hoặc có thể kéo dài tới một ngày. Xuất huyết dạ dày thường là kết quả của dấu
hiệu như nôn mửa, ỉa chảy, đau bụng (bảng 2.1)








Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 16
Bảng 2.1. Những thực vật gây ảnh hưởng đến bộ máy tiêu hóa, Những tác nhân độc
chất có liên quan, và những biểu hiện lâm sàng.
Loài thực vật Độc chất có liên quan Biểu hiện lâm sàng
Hạt đậu
Độc tố thực vật (có liên quan
đến độc tố Albumin)
Đâu đầu, tiêu chảy, mệt mỏi,
buồn nôn, nôn mửa, mê sảng,
đau bụng, run rẩy,
Cây trạng nguyên
(Euphorbia pulchenia).
Cây ráy thơm
Oxalat canxi
Gây rối loạn sự hoạt động của
thận, và gây bơ phờ.

Dumlcane
(Diefenbachia)
Tinh thể oxalat Gây kích ứng miệng
Cây thường xuân
(Hedera helix)
Glicozit saponic trong hạt Tình trạng bị kích động. tẩy xổ.
Cây cứt lợn
Alkaloid trong quả chín mọng,
hoặc những phần bị cắt ra
- Liều lượng nhỏ gây kích thích
Gi, sự cảm quang ánh sáng.
- Liều lượng lớn – Cơ bắp yếu,
phá vỡ sự lưu thông máu
trong cơ quan.
Cây thủy tiên
(Narcissus)
Alkaloid trong củ
Thổ mửa, kích thích viêm dạ
dày, co giật, khó đi tiểu.
Cây đại hoàng (Rhum
chaponticum)
Chất oxalat trong lá đau bụng, tử vong, nôn mửa
Cây thương lục Mỹ
(phytolacca)
Có chứa Alkaloid trong tất cả các
bộ phận, nhiều nhất là trong lá
Viêm dạ dày, co giật, cơn co
thắt
Camus chết
(Zygadenus)

Alkaloid trong củ Kích ứng dạ dày
Mayapple (Podophyllun
pelatum)
Nhựa dễ cây Tiêu chảy nặng
Cây thầu dầu Độc tố trong hạt Kích ứng dạ dày, co giật
Quả cây cơm cháy
(sambucus)
Không thể xác định được trong
bộ phận nào
Gây viêm dạ dày
Cây Thụy hương
(daphne)
Chất kích động Glycoxin trong
tất cả các bộ phận
Tiêu chảy ra máu, viêm dạ dày
Cây đậu tía Không xác định được độc chất Viêm dạ dày, suy sụp tinh thần
Cây locust đen
(Robinia)
Độc tố thực vật nogs, và
glycoxin (trong tất cả các bộ
phận đặc biệt là hạt, vỏ cây)
Viêm dạ dày, lo lắng hoảng sợ,
suy nhược cơ thể.

Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 17
II.2. Thực vật có chứa Digitalis.
Con người bị chết bởi ăn dễ, nhai lá hoặc hoa, hoặc là uống nước từ lọ mà trong
đó có thực vật chứa Digitalis như là cây Huệ chuông (Convallaria majalist), cây mao
địa đàng (Digitalis purpurea), hay cây trúc đào (Nerium oleander) được thể hiện dưới

đây. Đầu tiên có một sự tác động cục bộ tới cuống họng tiếp theo đó là nôn mửa.
Ngược lại với những tác dụng của chất Glycosides tim, ngộ
độc do các cây như trên là
có liên quan tới tiêu chảy và đau bụng vì có sự hiện diện của chất saponins và các chất
kích thích khác. Nhiễm độc cấp tính là sự biểu hiện giảm độ co thắt tim, nhịp tim
chậm, và hyperkalemia (bảng 10.3)
Bảng 2.2 Các thực vật có chứa Digitalis – cấu tạo đặc trưng, các biểu hiện lâm sàng
Thực vật Nguồn độc chất Biểu hiện lâm sàng
Cây tầm gửi
(Phooradendron
serotinum)
Chứa độc chất Amin trong
quả
Gây ảnh hưởng mạnh đến
dạ dày; hoạt động của tim
mạch suy sụp
Cây huệ chuông
(Convallaria majalist)
Glycoxin trong lá
Nhịp tim không đều, nôn
mửa
cây mao địa đàng tía
(Digitalis purpurea)
Digitalis glycoxin trong lá Kích thích GI
Cây trúc đào (Nerium
oleander)
Digitalis giống như là
Glycoxin
Nôn mửa, tiêu chảy ra
máu, …


II.3. Thực vật có chứa Nicotine, Cystisine, và Coniine
Tất cả các chất Alkaloid này có ảnh hưởng như nhau. Một vài chất gây độc ở
phía tây nước Mỹ là do bởi ăn những cây này vào bụng, Bao gồm thực vật hoang dã
trong món trộn và lá cây thuốc lá. Nhiễm độc Cystisin xảy ra khi là mầm của cây đỗ,
như vỏ của cây hoa mai vàng (golden chain tree Laburnum anagyroides. Nhiễn độc
Coniine xảy ra ăn cây rau mùi tây như Lá hoặc mầm của cây độc cần (Conium
maculatum). Socrates được cho là khi uống phả
i một dung dịch chiết suất từ chất độc
của cây độc cần. Hiện tượng nôn mửa xảy ra trong vòng hàng giờ (phổ biến thường
thường trong khoảng 15 phút), kèm theo hiện tượng sùi bọt mép. Hiện tượng đau
bụng, tiêu chảy xảy ra rất ít và hiếm. Đâu đầu, rối loạn, mệt mỏi cơ bắp, tim đập
nhanh, sốt, co giãn đồng tử mắt. Cái chết xảy ra khi ngừng hô hấp.
II.4. Thực vật có chứa Atropine
Một số loài thực vật ở Mỹ có chứa Atropine hoặc Atropine có liên quan tới Alkaloids.
Quan trọng nhất trong nhóm thực vật này là cây cà độc dược (Datura stranmonium).
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 18
Con người bị nhiễm độc khi ăn phải mầm giống hoặc là cánh hoa non của cây cà độc
dược thường gây ra những ảo giác. Sớm có triệu chứng co giãn đồng tử cùng với mắt
mờ do sự điều tiết của mắt kém và khan cuốn họng gây khó nuốt, và nói rất khó khăn.
Da trở nên khô, nóng và đỏ ứng. Chứng phát ban có thể xuất hiện trên cổ, mặt và tai.
Gây ra nhiễm độc nặng hơn như s
ốt, gây ảo giác, và gây mê sảng, co giật.Nhiễm độc
Atropine giống như một trong những trạng thái khác nhau của bệnh lý như Viêm não,
tăng hàm lượng Ure, chấn động não, và gây rối loạn tinh thần. Đặc biệt là trẻ em rất
nhạy cảm với chất độc Atropine. May mắn thay, sự rủi ro này cũng không phổ biến và
quá trình phục hồi xảy ra trong 24 giờ (bảng 2.3).
Bảng 2.3. Thực vật có chứa Atropine và các chất liên quan, và các biểu hiện lâm sàng
sau khi ăn phải được chỉ ra theo bảng sau:

Thực vật Độc chất liên quan Biểu hiện lâm sàng
Cây cà dược (atropa
belladonna)
Atropine alkaloid
Kích thích GI, biểu hiện
thần kinh
Khoai tây, và cà chua
(solanum)
Solanum Alkaloid
Kích thích GI, biểu hiện
thần kinh, nóng da, giãn
đồng tử
Cây cà độc dược (datura
stramonium)
Alkaloid, hyoscyamine,
scopolamine
Khát nước, mê sảng, rối
loạn, hôn mê.
II.5. Thực vật gây chứng co giật.
Thực vật có nguồn gốc ở Mỹ chúng gây ra chứng co giật đó là biểu hiện của nhiễm
độc cấp tính của chúng khi ăn phải cây độc cần nước(Cicuta sp.). Nước cây độc cần
chỉ tìm thấy ở những nơi ẩm ướt, vùng đầm lầy và có thể nhầm với củ cải dại. Trong
khoảng từ 15 phút cho đến 1 tiếng sau khi ăn phả
i thì nạn nhân bị nôn mửa, chảy nước
dãi, những cơn chấn động nhẹ. Những biểu hiện này xảy ra nhanh chóng nặng hơn là
dẫn đến bệnh động kinh. Tử vong xảy ra sau quá trình thiếu oxy kéo dài trong suốt quá
trình tiêm nhiễm của các cơ hô hấp. (bảng 2.4).
Bảng 2.4. Độc chất thực vật ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh, những biểu hiện lâm sàng.
Thực vật Độc chất liên quan Biể
u hiện lâm sàng

Chăm sóc sức khỏe gia
đình (Azalea,
rhododendron)
Họ cây đỗ Quyên
Nhựa carbonhydrate
(andromedotoxin)
Kích thích GI, suy nhược, hôn
mê, tình trạng tê liệt
Hoa nghệ Tây (olchicum
autumnala)
Alkaloid Nôn mửa, ảnh hưởng tới thần kinh
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 19
Cây độc cần nước(Cicuta) Rượu không no
Gây rối loạn mạnh, dấu hiệu thần
kinh nặng, suy giảm hô hấp
Cây chữa rắn cắn trắng
(Eupatorium rhugosum)
trematol
Biểu hiện thần kinh, chân tay run,
đa Xeton
Cây Thủy tùng (Taxus) Alkaloid (taxine)
Gây chết người, Kích thích dạ
dày, giảm trí nhớ, suy nhược sự
sống, dối loạn.
II.6. Thực vật có chứa xyanua
Một số thực vật có chứa xyanua hay các dạng khác nhau của xyanua báo trước
sự phát thải xyanua trên quá trình tiêu thụ. Xyanua làm gián đoạn quá trình vận
chuyển chuỗi electron và làm ngừng tế bào hô hấp.Do đó xyanua là nguyên nhân của
sự giảm oxy trong máu và thiếu oxy. Dấu hiệu cấp tính cổ điển là sự hô hấp nhanh

chóng, máu có màu đỏ anh đào, cuối cùng là bị tai biến mạch máu. Sẽ bị chết trong
khoảng 10 đến 30 phút nếu nh
ư bệnh nhân không được chữa trị kịp thời. Chứng nhiễm
độc Xyanua thường thường được quan sát thấy trong những động vật nuôi ăn cỏ như
loài cây lúa miến (loài cỏ Sudan, cỏ Johnson, milo) và Ngô (bảng 2.5).
Bảng 2.5. Thực vật có chứa chất xyanua Glycosides
Thực vật Độc chất liên quan
Cây Tú cầu (Hydrangea macrophylla) Cyanogenic glycoside
Hoa Anh Đào (Prunus)
Cyanogenic glycoside trong lá,
trong hốc cây
Táo (Malus) Cyanogenic glycoside trong hạt
Cây đào, mơ (prunus)
Cyanogenic glycoside trong lá,
trong hốc cây

II.7. Thực vật có tích tụ Nitrat
Nitrat tích tụ trong chuỗi thực vật đặc biệt là trong vỏ thân cây thực vật. Chứng
nhiễm độc Nitrat từ việc ăn phải nguyên liệu thực vật mà phổ biết nhất thường thường
trong động vật nhai lại, và Nitrat được giảm bớt để tạo thành Nitrit bởi vi khuẩn rumin.
Ion Nitrit oxy hóa Fe
2+
trong Hemoglobin thành trạng thái Fe
3+
. Kết quả là tạo thành
dạng của methemoglobin chúng không thể vận chuyển oxy tới toàn bộ cơ thể sống.
Nếu tạo thành đủ methemoglobin, sự thiếu hụt oxy trầm trọng có thể xảy ra trong quá
trình vận chuyển máu. Nhiễm độc cấp tính thường xảy ra trong khoảng ½ cho đến 4
giờ sau khi hấp thụ một lượng lớn thức ăn có hàm lượng nitrat cao. Dấu hiện đặc trưng
bao gồm những nguyên nhân tớ

i chuỗi thiếu oxy như là sự lo lắng, thở gấp ( hô hấp
mạnh), chứng khó thở ( hô hấp nặng), và một sự nhanh lẹ, nhịp tim yếu. Lượng máu
lớn trong methemoglobin có dạng điển hình là mầu nâu đen hoặc màu chocolate, phổ
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 20
biến là hiện tượng tím tái xuất hiện và tạo thành các màng nhày. Tử vong xảy ra trong
khoảng vài tiếng nếu phương pháp xử lý không thích hợp.
Bảng 2.6. Thực vật gây ra dị ứng da, những tác nhân độc chất có liên quan, dấu hiệu
lâm sàng
Thực vật Độc chất liên quan Biểu hiện lâm sàng
Độc chất cây Thường Xuân
(Toxincodendron radicans)
Nhựa dị ứng Gây viêm da
Chất độc cây Sơn, cây muối
(Toxincodendron vernix)
Nhựa kích thích dộp da
Làm tấy bộ phận, gây
viêm dạ dày nếu ăn phải.

II.8. Thực vật gây ra bệnh ngoài ra.
Trong thực tế, nhiễm độc ngoài ra do thực vật gây ra sưng tấy, phồng dộp, đau
đớn, và ngứa. Cơ thể phản ứng có thể cũng xảy ra nếu chất nhiễm độc ngoài ra như ăn,
nhưng mà trường hợp này cũng rất hiếm. điều trị bằng cách rửa da với xà phòng trong
nước trong khoảng 5 phút để loại bỏ chất độc và
để ngăn ngừa sự lan rộng của độc
chất trên toàn bộ da.
II.9. Một số thực vật thường gặp có chứa độc tố
1. Hoa đậu tía
Đậu tía là loại cây thân rủ xuống. Hoa của nó có màu xanh da trời, màu hồng
hoặc màu trắng. Toàn bộ cây đậu tía từ cây đến quả đều chứa chất độc, nhưng cũng có

một số
người cho răng hoa đậu tía không độc.

Hoa đậu tía
Hầu hết các trường hợp ăn cây đậu tía đều gây buồn bôn, bị chuột rút và bị tiêu
chảy. Những người sau khi vô tình ăn loại cây này phải được điều trị ngay bằng
phương pháp Hydrat hóa tĩnh mạch và uống thuốc chống nôn.
2. Hoa mao địa hoàng
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 21
Hoa mao địa hoàng là một loại thực vật đầy sức cuốn hút, có thể cao tới 1m.
Những bông hoa mao địa hoàng có thể có màu tím, màu hồng hoặc màu trắng, thỉnh
thoảng có những chấm chấm bên trong thân. Hoa mao địa hoàng có tên La-tinh là
Digitalis purpurea.
Khi ăn bất kỳ phần nào của loại thực vật này sẽ dễ dàng bị mắc các vấn đề với
hệ thống tim mạch sau khi cảm thấy buồn nôn, chuột rút và đau ở miệng. Khi bạ
n lỡ
ăn loại thực phẩm này, bác sỹ sẽ cho rửa dạ dày hoặc cho dùng loại thuốc làm nhịp tim
bạn trở lại bình thường.

Hoa mao địa hoàng
3. Hoa tú cầu (hoa đĩa)
Những bông hoa có hình khối màu xanh đậm hoặc xanh trắng này có thể cao
đến 4,5m. Khi ăn loại hoa này bạn sẽ bị đau bụng nhiều giờ sau đó. Thông thường,
người bị nhiễm độc từ loại cây này có thể bị ngứa da, buồn nôn, sức lực giảm, mồ hôi
túa ra.
Những người xấu số có khi còn bị hôn mê, co giật và máu ngừng lưu thông.
Còn những người may mắ
n hơn khi phát hiện kịp thời thì có thể nhờ sự trợ giúp của
bác sỹ. Bác sỹ sẽ cho bệnh nhân dùng thuốc làm giảm những triệu chứng nguy cấp.

4. Hoa lan chuông
Những bông hoa lan chuông trông thật đáng yêu, nhưng lại chứa rất nhiều độc
tố. Chất độc có ở mọi nơi, từ đỉnh hoa. Nếu vô tình ăn một chút hoa lan chuông thì có
thể chưa có triệu chứng gì, nhưng nếu lỡ ă
n nhiều thì có thể bị buồn nôn, đau ở miệng,
chuột rút và bị tiêu chảy.
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 22

Hoa lan chuông.
Nhịp tim của người bệnh cũng có thể bị chậm lại hoặc loạn nhịp. Muốn trở lại
nhịp tim như bình thường các bác sỹ sẽ phải rửa dạ dày và cho bệnh nhân uống thuốc
ổn định nhịp tim.
5. Hoa hồng môn
Lá và những bông hoa hồng môn hình trái tim đầy nhựa sống lại mang độc tính
cao. Khi ăn phải loài thực vật này sẽ khiến bạn cảm giác đau nh
ức cả miệng, tiếp đến
là sưng và phỏng rộp. Giọng cũng bị khan và cổ họng đau khó nuốt.

Hoa hồng môn.
Trong trường hợp này bệnh nhân phải uống ngay nước lạnh, thuốc giảm đau và
những loại thảo dược như cam thảo. Như vậy, tình trạng nguy hiểm cũng sẽ được giảm
nhẹ hơn.
6. Hoa cúc
Những bông hoa vàng này thường được mọi người ưu ái trồng trong các chậu
đặt ở các bậc thềm nhà trong những dịp lễ tết. Có 100 đến 200 loại hoa cúc. Nói
chung, hoa cúc thườ
ng mọc thấp dưới đất nhưng chúng cũng có thể mọc phát triển
thành những bụi cao. Tuy vậy, phần đầu của hoa cũng có chứa độc tố gây độc cho cơ
thể người. Khi bị nhiễm độc, có thể bị viêm sưng, ngứa và dị ứng.

7. Hoa trúc đào
Chương 10: Animal and Plant Toxin
Lớp KTMT 2008 23

Trúc đào (Nerium oleander) nở hoa
Với trúc đào, mọi phần trên thân cây đều có độc. Thậm chí cũng bị nhiễm độc
khi chẳng may hít phải khói đốt thân cây, hay khi vô tình nuốt phải nước đọng trên
hoa, cũng bị nhiễm độc vì độc tố sinh ra từ loại thực vật này rất cao. Thường người bị
nhiễm độc từ loại cây này sẽ có nhịp tim thay đổi, có thể chậm xuống hoặc có thể cao
v
ọt lên. Khi bị nhiễm độc, nên nhanh chóng đến bác sỹ. Các bác sỹ sẽ đưa đơn thuốc
làm ổn định nhịp tim hoặc có biện pháp tẩy độc trong dạ dày của bạn.
8. Cây thuộc loại Ficus
Những loại cây thuộc Ficus ví dụ như sung, bồ đề… Những cây này có đặc
điểm chung là trên lá có mủ. Có khoảng 800 loại cây thuộc loại ficus. Những cây này
có thể cao 23m. Những cây này có thể trồng làm cảnh. Tuy nhiên, những trường hợp
khi nhiễm độc từ cây này là có thể bị ngứa da và bị sưng phồng da lên.
9. Hoa đỗ quyên
Hoa đỗ quyên có hình chiếc chuông trông lôi cuốn, nhất là thời gian mùa xuân.
Nhưng lá cây đỗ quyên và mật của nó lại rất độc. Nếu lỡ ăn phải loại này, môi sẽ bị
phỏng rộp, tiếp theo là chảy dãi, buồn nôn, bị tiêu chảy và ngứa nhức trên da.

Hoa đỗ quyên

×