Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

bài 5 về chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.94 KB, 21 trang )

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không tưởng
trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời
sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến
nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên
phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể
phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Qua nhiệm vụ làm bài tiểu luận môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác – Lênin’ em chọn đề tài “Về chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng của
nó” để tìm hiểu.
2.Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội hịên thực và triển vọng của nó”, mục
đích nghiên cứu gồm những vấn đề sau:
- Tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa xã hội hiện thực là gì?
Những diễn biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực…
- Triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng thoái
trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và
tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về tương lai của chủ nghĩa
xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm
vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo
những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay.


1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
đầu tiên trên thế giới
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh
đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân
dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên
trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản
và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng
xã hội mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa
xã hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên
suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư
bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. - Mô hình chủ
nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời
trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây
dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn
phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh
can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó,
từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã
thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu
sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực
chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại
hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới
(NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình
thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng

của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một
trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục
tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản
xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông
qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế
thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa
chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri
thức khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà
nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các
chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản
còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải
tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và
sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một
trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy
xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện
đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm
20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới
mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công
nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh.
Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất
gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến
tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai
trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.

b. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và nhữngthành tựu
của nó
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Sau Chiến tranh
Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước: Liên
Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ,
Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81
Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố
và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài
người”. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực Cho dù lịch sử có biến
động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được
sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại
trong thế kỷ XX.
- Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã
hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra
đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa
được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực
hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm
phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
- Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội
chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm
bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng
vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi

toàn thế giới.
- Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa.
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên
nhân của nó
a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết
Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách
mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu
từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên
tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ
cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư.
b. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ
Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ
nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới
không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời
gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng
thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II,
Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ
chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ
chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo
của người lao động.
Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm
1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình

hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình
phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển
công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu,
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần
tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ
thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu
quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao
động so với các nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo
dài như đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa
suy yếu, rơi vào khủng hoảng.
Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải
xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do
quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ:
“ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm
trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và
khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ Một là, trong
cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường
lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại,
thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ
1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ
cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh
sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển
làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu
của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ
niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những
người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm

được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn,
thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn,
khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh
lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm
nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là
chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện
ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát
quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về
tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với
sự phản bội từ bên trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên
nhân này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất
mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa
xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh
giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa
đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội
trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi
mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.
Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào
để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã
hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho
những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới hiện
nay.
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM

3. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội
a. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người - Bản
chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại.
Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử dụng
triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư bản
chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả năng phát
triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể là chế độ tương lai của
nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không
thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại
vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu
nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên
trong không thể khắc phục mặc dù nó luôn được tô vẽ bằng những lối xưng danh
mới như: “phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội
kinh tế tri thức hóa”
- Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc khủng hoảng,
những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là quá trình quá độ
sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những
yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp: kinh tế tri
thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết
của nhà nước đối với kinh tế thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã
hội của nhà nước tăng lên. Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi
trường ngày càng tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
xã hội quá độ vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã
hội tương lai.
b. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người - Liên Xô và các nước

xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội Sau sự
kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống chủ
nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần trên cho thấy, sự sụp đổ của Liên
Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải
là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà
loài người đang vươn tới. Tương lai của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là
quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn
không thay đổi, loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và
đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết. - Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành
cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn. Sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác động mạnh mẽ
đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định con đường xã hội
chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn thực hiện đổi mới tương
đối thành công.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ
thể của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội thích hợp. Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
trường quốc tế, về văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và
Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng với nhau:
- Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa dạng hóa
sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc công hữu là nền

tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần được xem là hình
thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở
thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi
trọng phân phối theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại
hình doanh nghiệp; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của
nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến
thị trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa
đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ
thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp
với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia tăng sự
phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở
theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận,
của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, thực hiện cải
cách hành chính
- Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội nghề
nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội khuyến khích sự phát triển của các tổ chức này
hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
- Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên
Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành
thành viên tích cực của các tổ chức này. - Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các
mặt. Sự lãnh đạo của Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả
hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải
cách của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng

những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù hợp với
điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam sẽ
góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã hội.
- Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội Trong tình hình chủ nghĩa xã
hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ
Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và phát triển lên thành một
trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các
Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có
nhiều nước tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla
Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống
năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp
tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô
Môralét nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo
và Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện của
“Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh liệt của chủ
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến mới của
chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng minh cho sức sống
và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.
4. Chủ nghĩa xã hội hiên thực trong thế kỷ XX – Bài học từ lịch sử.
Đây là chủ đề thu hút khá nhiều tham luận và ý kiến đề cập từ những khía cạnh
và góc độ khác nhau. Trong Báo cáo đề dẫn GS,TS Nguyễn Ngọc Long đã trình
bày những kết quả nghiên cứu bước đầu của Ban Chủ nhiệm đề tài theo phương
pháp chủ yếu là kết hợp lịch sử và lô-gích : từ tổng kết quá khứ, phân tích hiện tại,
đi tới dự báo tương lai, đưa ra những dự đoán về triển vọng của chủ nghĩa xã hội

trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Báo cáo khẳng định : Sẽ là không biện chứng
và thiếu quan điểm lịch sử, nếu bảo vệ học thuyết xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin mà lại không thừa nhận sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội hơn 70 năm
qua là chủ nghĩa xã hội hiện thực. Những non yếu, cả những khuyết tật của một
chế độ xã hội trong quá trình hình thành là một tất yếu của quá trình lịch sử. Đồng
chí Lê Hoàng Quân, khi đề cập đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam đã
khẳng định : Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược vì độc lập
tự do của Tổ quốc, cùng những thành tựu ban đầu của thời kỳ quá độ và công cuộc
đổi mới là bằng chứng sinh động về sự kiên định và nhất quán mục tiêu và con
đường đã chọn : Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cũng trong phần này, vấn đề "kịch biến" Liên Xô và Đông Âu trở thành chủ đề
nổi bật trong việc luận chứng của các nhà khoa học. Theo ThS Lâm Hiếu Trung
(Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học - Kỹ thuật Đồng Nai), nguyên nhân sâu xa
dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bắt đầu từ
những sai lầm nội tại có tính hệ thống và kéo dài, cụ thể là sai lầm về đường lối
chính trị của những người lãnh đạo Đảng ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Đồng
chí Trần Trọng Tân (cán bộ lão thành cách mạng, Thành phố Hồ Chí Minh) cho
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
rằng : Trong các nguyên nhân bên trong dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông
Âu, có cả những sai lầm về đường lối kinh tế, văn hóa, chính sách dân tộc v.v của
những người lãnh đạo Đảng. Nhất trí với quan điểm đó, TS Trần Chí Mỹ (Trưởng
Bộ môn Khoa học Chính trị, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh) nhận định : Khi thời đại đưa ra những tín hiệu của một thời đại mới -
thời đại xã hội chủ nghĩa mà lại lựa chọn con đường nào đó khác con đường xã hội
chủ nghĩa thì sự lựa chọn đó là sai lầm, tất yếu không thể tránh khỏi những thất
bại. TS Phạm Thăng (Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh) sau khi phân tích
và kết luận rằng, trong các nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông
Âu, nguyên nhân bên trong là quyết định, nguyên nhân bên ngoài là điều kiện, đã

nhận định : Bất kỳ một cuộc cách mạng nào, vấn đề cơ bản không phải là có hoặc
không có sai lầm, mà điều cốt lõi là nhìn nhận để khắc phục và sửa chữa sai lầm
như thế nào. Cụ thể hơn, TS Nguyễn Đức Đạt (Chủ nhiệm Khoa Mác - Lê-nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đại học Văn Lang Thành phố Hồ Chí Minh) đã mổ xẻ : Một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ của Liên Xô là bắt đầu từ lý
luận. Một trong những sai lầm trong đó là ngộ nhận rằng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô xuất hiện từ Cách mạng Tháng Mười (1917). Đây là sự gạt bỏ thô bạo, vi phạm
nghiêm trọng học thuyết về lượng - chất của Ph. Hê-ghen. Bày tỏ quan điểm đồng
tình với các ý kiến trên, ThS Tạ Trần Trọng (Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh) nhận định : sự phản bội của một số cá nhân trong Đảng Cộng sản Liên Xô
đã tạo cho sự phản kích của chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội đạt hiệu quả cao
hơn. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng (Thành phố Hồ Chí Minh) sau khi phân tích,
đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân đã quả quyết : hiện thực bi đát đó chứng
tỏ có một cái gì đó bên trong lớn hơn không chứa nổi. Nó chứng tỏ việc xử lý vấn
đề không tốt. Trong tiến trình cách mạng, nếu ta hiểu được tính kiêu ngạo là tai hại
cũng là một cách phát hiện và làm chủ mình
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Tuy từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng các ý kiến đều thống nhất cho rằng : sự
sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đều xuất phát từ những nguyên nhân rất cụ thể,
gồm nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài ; nguyên nhân trực tiếp - gián
tiếp ; nguyên nhân kinh tế - chính trị - xã hội ; trong đó nguyên nhân nội tại là trực
tiếp và quan trọng.
5. Toàn cầu hoá vói chủ nghĩa xã hội
Về vấn đề này, các ý kiến đã đi sâu vào hai nội dung cơ bản : Toàn cầu hóa và
chủ nghĩa tư bản ; chủ nghĩa xã hội trong quá trình toàn cầu hóa. Các ý kiến đều
thống nhất nhận định : Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra do sự chi phối
của chủ nghĩa tư bản, biểu hiện cụ thể ở sự chi phối nền kinh tế thế giới bởi các tập
đoàn tư bản kếch xù và biểu hiện thứ hai là dựa trên thế mạnh áp đảo về kinh tế.

Chung quanh sự phát triển của tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn chủ nghĩa tư
bản toàn cầu hóa, GS,TS Nguyễn Ngọc Long phân tích tính hai mặt của quá trình
này. Theo GS, quá trình toàn cầu hóa tác động tiêu cực đối với chủ nghĩa xã hội
trên ba mặt : một là, làm cho một số người tôn sùng "tính ưu việt của tư bản", niềm
tin đối với tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa bị dao động ; hai là, làm cho
một số người tiếp nhận quan niệm giá trị của phương Tây, lạc mất phương hướng
xã hội chủ nghĩa ; ba là, làm cho một số người thay đổi "khẩu vị" văn hóa truyền
thống của mình. Song, toàn cầu hóa cũng có tác động tích cực đối với tương lai của
chủ nghĩa xã hội. Đó là trong khi tăng cường cao độ tính quốc tế của chủ nghĩa tư
bản thì toàn cầu hóa cũng làm tăng tính cấp thiết, đồng thời tạo điều kiện thực hiện
sự liên hợp các lực lượng cộng sản quốc tế. Mặt khác, bằng cách chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, chủ nghĩa xã hội có thể học tập những mô hình kinh tế "quá
độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập thể"
của chủ nghĩa tư bản để giải quyết những vấn đề nan giải đối với mô hình xã hội
chủ nghĩa trước đổi mới. Thực tiễn đó đang đòi hỏi chủ nghĩa xã hội hiện thực phải
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
chủ động hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa để nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, đưa công cuộc đổi mới, cải cách của chủ nghĩa xã hội đi tới thành công. TS
Phạm Đình Nghiệm (Giảng viên khoa Triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng : thực ra "phong trào chống toàn cầu hóa"
là một tên gọi chưa hoàn toàn chính xác và không đồng nhất. Một bộ phận đúng là
chống lại toàn cầu hóa, đòi giải thể các tổ chức WB, IMF, WTO còn một bộ
phận khác lớn hơn thì trên thực tế không chống toàn cầu hóa mà đòi hỏi sự công
bằng trong toàn cầu hóa, đòi hỏi tính đến các yêu cầu của các nước đang phát triển.
Vậy tên gọi chính xác hơn của phong trào này có lẽ là "phong trào chống mặt trái
của toàn cầu hóa"
Ý kiến chung của nhiều người nghiên cứu cho rằng, mặt tiêu cực của tác động
trực tiếp trước mắt của toàn cầu hóa đối với chủ nghĩa xã hội là lớn hơn. Đối với

các nước đang phát triển và kém phát triển thì áp lực của toàn cầu hóa càng lớn,
thậm chí còn đứng trước nguy cơ bị gạt ra bên lề của quá trình này. Vấn đề là ở
chỗ, áp lực và thách thức là khách quan, buộc chủ nghĩa xã hội hiện thực phải đối
mặt ; còn cơ hội lại phải thông qua nỗ lực chủ quan mới có thể nắm bắt được. Sự
tồn tại song trùng giai đoạn đầu của thời đại quá độ sang xã hội sau, với giai đoạn
cuối của thời đại trước không phải là ngoại lệ của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Giai đoạn đầu của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã trải qua hơn 8 thập
kỷ. Nó còn kéo dài bao lâu thì cũng có nghĩa là giai đoạn chủ nghĩa tư bản toàn cầu
hóa còn kéo dài bấy lâu nữa.
6. Cục diện chính trị thế giới hiện nay và triển vọng của chủ nghĩa xã hội
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI
Đây là nội dung thu hút nhiều ý kiến nhất với không khí rất sôi nổi. Trước hết,
các ý kiến đều tập trung đi sâu vào ba điểm. Một là, việc dự báo triển vọng của chủ
nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI đòi hỏi phải nhận thức mâu thuẫn
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
chủ yếu của thế giới hiện nay. Hai là, trong vài thập niên tới, những điều kiện cho
sự tồn tại tư tưởng bá quyền, hơn nữa là bá quyền đơn phương của đế quốc Mỹ
chưa có sự thay đổi một cách căn bản. Ba là, triển vọng của chủ nghĩa xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong sự tương tác giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan. Đồng chí Mai Chí Thọ (cán bộ lão thành cách mạng, Thành phố Hồ Chí
Minh) đánh giá rằng, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là
một chấn thương tâm lý nặng, không chỉ đối với những người cộng sản mà còn đối
với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Theo đồng chí, sự bênh vực chủ nghĩa xã
hội của người dân ở các nước xã hội chủ nghĩa là tấm lòng đáng trân trọng. Nhưng
phải làm sao để thuyết phục và khôi phục được niềm tin của nhân dân bằng chính
nỗ lực của chế độ mới là quyết định. Và, chỉ khi nào những người cộng sản khẳng
định được sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội một cách thuyết phục, không gò ép và
nặng tư tưởng quan liêu bao cấp thì mới thực sự đảm bảo được niềm tin của nhân

dân. ThS Nguyễn Thế Huân (Hiệu trưởng trường Chính trị tỉnh Đồng Nai) nhận
định : Tuy kẻ thù bên trong và bên ngoài huy động sức mạnh tổng hợp tấn công,
song với sự nhận thức và vận dụng sáng tạo, chỉ sau 10 năm cải cách và đổi mới, ở
các nước kiên định con đường xã hội chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục phát triển đi
lên; phong trào cộng sản và công nhân đã dần khắc phục những khuyết điểm, đang
phục hồi và phát triển. Điều này khẳng định sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu
chỉ là một khúc quanh của lịch sử. Mâu thuẫn vốn có bản chất của chủ nghĩa tư bản
là không thể điều hòa và sẽ chuyển hóa theo qui luật phát triển của lịch sử. Như
vậy, có thể dự đoán chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ phát triển mạnh mẽ trở lại vào
khoảng từ 2020 đến 2025 ; chu kỳ tiếp theo đi lên chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ là
những năm 2050 - 2055. Như một đề nghị về trách nhiệm của những người cộng
sản với chủ nghĩa xã hội, đồng chí Nguyễn Thọ Chân (cán bộ lão thành cách mạng,
Thành phố Hồ Chí Minh) tâm tư : Nếu Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân thế
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
giới hiểu sâu sắc khát vọng của loài người là độc lập và hòa bình thì phải tập trung
sức để bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh. Dù tình hình thế giới như thế nào thì
các nước xã hội chủ nghĩa vẫn phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo ; trong đó, đường
lối tinh tường, đối sách linh hoạt và sáng tạo là những vấn đề cốt tử. Nhất trí với
quan điểm đó, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng khẳng định : Nhu cầu và khát vọng
hòa bình, độc lập của các dân tộc và loài người tiến bộ trên thế giới càng mạnh mẽ
thì chủ nghĩa xã hội càng phải sớm được khẳng định, mà đây là xu thế tất yếu.
Đồng chí Lê Hoàng Quân dẫn ra dự báo trong Báo cáo Chính trị của Đại hội IX
của Đảng : " Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội". Đồng chí cũng nhận định rằng, với những ưu thế
vốn có, bản thân chủ nghĩa xã hội có khả năng tạo cho mình sức đề kháng kỳ diệu,
nhất định sẽ đủ sức vượt qua mọi trở ngại, vững bước tiến về phía trước.

Trong phát biểu kết luận Hội thảo, GS,TS Nguyễn Ngọc Long đã tổng hợp các ý
kiến của các nhà khoa học, nhà lãnh đạo và các đồng chí cán bộ lão thành cách
mạng, với những nét chính như sau :
• Chủ đề Hội thảo và mục tiêu của nó là vấn đề có ý nghĩa thời sự thiết thực,
thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học với trách nhiệm cao và đầy tâm
huyết ; và được sự ủng hộ rất nhiệt tình của Tỉnh ủy, các cơ quan và cán bộ tỉnh
Đồng Nai.
• Bên cạnh trình bày quan điểm của mình ; góp ý những nội dung Ban Tổ chức
đã làm, các đại biểu tham gia đã đề xuất các ý kiến đồng tình, nhất là góp phần làm
sáng tỏ và gợi ý những vấn đề nghiên cứu mới sâu sắc hơn. Nhiều ý kiến cho rằng,
phải nhìn nhận lại chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XX là cần thiết theo tinh thần "ôn
cố tri tân". Các ý kiến đều khẳng định : Chủ nghĩa xã hội hơn 70 năm qua ở Liên
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Xô là chủ nghĩa xã hội hiện thực ; khẳng định những thành tựu, đổi mới là tất yếu ;
và khi gặp khủng hoảng, nếu giải quyết đúng đắn, có nguyên tắc sẽ khắc phục
được những sự đổ vỡ. Nhiều ý kiến đi sâu phân tích nguyên nhân sụp đổ của Liên
Xô và Đông Âu, nhưng nguyên nhân cơ bản là bắt đầu từ những sai lầm về đường
lối, mà xuất phát điểm là từ những người lãnh đạo, trong việc không thay đổi mà
tiếp tục duy trì đường lối, quan điểm đã lỗi thời.
• Để tìm hiểu và có cái nhìn khách quan, khoa học về triển vọng của chủ nghĩa
xã hội, phải đi sâu phân tích bối cảnh ngày nay, trong đó phải nhìn nhận rõ những
đặc điểm cơ bản của thời đại. Nhiều ý kiến gợi ý phân tích về chủ nghĩa tư bản và
thống nhất rằng : nếu ta đánh giá đúng những thành tựu của chủ nghĩa tư bản thì đó
không phải là để ca ngợi hay bi quan, mà chính là tự hiểu rõ về mình hơn, giúp
chúng ta củng cố niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Trước những thách thức và vận
hội đan xen nhau, cần có sự điều chỉnh linh hoạt để có đối sách đúng đắn vượt qua
thách thức, chính là vận dụng và tạo ra những cơ hội để ổn định và phát triển. Chủ
nghĩa xã hội đã có những đổi mới đáng mừng, nhưng đang trong quá trình chứ

chưa phải đủ để yên tâm và lạc quan. Điều kiện để đảm bảo là Đảng Cộng sản cầm
quyền phải thực hiện được chủ nghĩa xã hội đổi mới.
• Qua Hội thảo, cũng có nhiều ý kiến tâm huyết suy nghĩ và liên hệ thực tế về
Đảng ta, nhân dân ta trên tinh thần tự soi rọi lại mình; tự hào về quá khứ và thành
quả đã đạt được ; củng cố niềm tin trong hiện tại, tiếp tục phấn đấu để giữ vững
con đường và mục tiêu đã chọn trong tương lai.
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
KẾT LUẬN
Từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có
thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất
bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật phát triển khách quan của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Cuối cùng em xin được cảm ơn thầy Lê Ngọc Tòng đã trau dồi cho em những
kiến thức để em thực hiện được bài viết này. Tuy nhiên do sự hiểu biết và trinh độ
của em còn nhiều hạn chế nên bài viết con nhiều thiếu sót, em mong được thầy góp
ý và chỉ bảo thêm cho em.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – lenin
2. Hồ Chí Minh toàn tập
3. Chinhphu.vn
4. tailieu.vn
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………….1
NỘI DUNG……………………………………………………………………. 2
1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ………………………………………………….2

2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên
nhân của nó …………………………………………………………………….6
3. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội ………………………………………… 9
5. Chủ nghĩa xã hội hiên thực trong thế kỷ XX – Bài học từ lịch sử. ……… 13
5. Toàn cầu hoá vói chủ nghĩa xã hội …………………………………………15
6. Cục diện chính trị thế giới hiện nay và triển vọng của chủ nghĩa xã hội
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI ………………………………………… 16
KẾT LUẬN ………………………………………………………………… 20
Giảng viên: Lê Ngọc Tòng Lớp: CDKT13BTH
Sinh viên: Trương Thị Thanh Mai

×