Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tìm hiểu chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền ở nước ta giai đoạn 1946 – 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.25 KB, 21 trang )

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề chính quyền như Lênin đã nhiều lần chỉ rõ là vấn đề cơ bản và quyết
định sự phát triển của cách mạng. Người nhấn mạnh: "Chính quyền nhà nước nhất
định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai cấp nào giữ chính
quyền? Điều đó quyết định tất cả". Bởi vậy, Đảng cộng sản khi lãnh đạo cách mạng
nhất thiết đặt lên hàng đầu mục tiêu giành lấy chính quyền về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Các giai cấp và thế lực thống trị cũ không bao giờ tự
rời bỏ địa vị thống trị của chúng. Vì thế, cuộc đấu tranh giành chính quyền phải trải
qua nhiều hy sinh, gian khổ và cuối cùng bằng bạo lực cách mạng của quần chúng
mới có thể giành được thắng lợi. Tuy nhiên, việc giành được chính quyền mới chỉ
là nhiệm vụ bước đầu và cũng chưa phải là nhiệm vụ khó nhất. Nhiệm vụ nặng nề,
khó khǎn và phức tạp nhất chính là xây dựng và bảo vệ chính quyền mới, làm cho
nó thật sự là công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội
mới, vì hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn của tất cả các cuộc cách mạng từ trước
tới nay ngày càng cho thấy: "Giữ vững chính quyền thì khó hơn là giành lấy chính
quyền". Từ khi lãnh đạo chính quyền, một trong những mối quan tâm hàng đầu của
Đảng ta là chǎm lo xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân, làm cho chính quyền
ngày càng vững mạnh. Đó là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu chủ trương bảo vệ chính quyền nước ta thời kì non
trẻ mới được thành lập qua bài tiểu luận “ tìm hiểu chủ trương xây dựng và bảo vệ
chính quyền ở nước ta giai đoạn 1946 – 1954”.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 1
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã
phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị các
thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.


Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta
từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực
lượng tay sai phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng)
và "Việt cách" (Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tưởng
Giới Thạch còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh,
đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng.
Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế
độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp
quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương.
Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một
số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn
đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 2
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy nhiễu,
phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi theo chúng
chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và các bộ trưởng
là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở Móng Cái,
Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt nhiều thù trong, giặc
ngoài như lúc này. Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm
trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc
phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả
tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có
1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm

trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị
trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức
nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta.
Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ
quốc lâm nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo và
sáng suốt phân tích tình thế, chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên
thế giới và sức mạnh mới của dân tộc làm cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp
đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao
trên trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát
triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 3
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
đang vươn lên mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân
dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang
phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân
tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết
tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi cơ bản và
những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác định: Tính
chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải

phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập.
Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết". Phân tích âm
mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ thù chính của ta
lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng".
Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược" mở
rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận
Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
II. Bảo vệ chính quyền non trẻ và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945-1954)
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 dẫn tới sự ra đời Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam và ở vùng Đông Nam á. Đó là thành quả của 15
nǎm đấu tranh giành chính quyền của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 4
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ngay sau cách mạng thành công, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động đã bao vây, chống phá hòng tiêu diệt chính quyền
cách mạng non trẻ. Gần 20 vạn quân Tưởng, đồng minh của đế quốc Mỹ cùng bọn
tay sai kéo vào miền Bắc nước ta với ý đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền
cách mạng, lập nên chính quyền tay sai của chúng. ở miền Nam, quân đội Pháp
được đế quốc Anh che chở đã đánh chiếm Nam Bộ hòng lập lại chế độ thực dân
của chúng. Nhiều đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt ) công
khai hoạt động chống chính quyền. Chính quyền cách mạng tiếp thu một đất nước
đổ nát với nạn đói và sự kiệt quệ về kinh tế, tài chính và biết bao hậu quả khác mà
chế độ phong kiến, thực dân để lại. Với những thử thách nặng nề đó, sự mất - còn
của chính quyền đặt trong thế "ngàn cân treo sợi tóc". Trước tình hình đó, nhiệm vụ
xây dựng, củng cố chính quyền được Đảng ta đặt lên hàng đầu. Vì chính quyền là
công cụ sắc bén của nhân dân để kháng chiến, kiến quốc, bảo vệ thành quả cách
mạng, Đảng chủ trương bất kể tình hình như thế nào cũng phải "củng cố chính

quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho
nhân dân". Củng cố chính quyền trước hết là tǎng cường sức mạnh, hiệu lực và cơ
sở pháp lý về cả đối nội cũng như đối ngoại. Chính quyền mới ra đời trong hoàn
cảnh đất nước đã bị chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn nǎm và chế độ thực dân
cai trị gần một thế kỷ nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do dân chủ. Vấn đề cấp bách đặt ra là "chúng ta phải có ngay một
hiến pháp dân chủ". Đảng chủ trương phải xúc tiến nhanh việc bầu cử Quốc hội,
lập chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến pháp. Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên ở
nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội của một nhà nước dân chủ. Ngày 2-3-
1946, Quốc hội họp, cử ra chính phủ tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của toàn dân. Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được công bố ngày 9-11-1946.
Để tǎng cường hiệu lực quản lý đất nước, chính quyền cách mạng đã ban hành
hàng loạt sắc lệnh và những quy định cần thiết như: sắc lệnh giải tán các đảng phái
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 5
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
phản động, sắc lệnh thay đổi chế độ thuế và bãi bỏ thuế thân, sắc lệnh cấm không
được hợp tác với quân Pháp, sắc lệnh bầu cử, v.v Xây dựng và củng cố bộ máy
chính quyền các cấp là một nhiệm vụ bức bách. Chính phủ đã xem xét các vǎn bản
của Uỷ ban nhân dân các xứ và có kế hoạch "cải cách chính quyền nhân dân ở các
địa phương và thanh trừng những phần tử xấu trong Uỷ ban nhân dân địa phương
và cải tiến cách làm việc của những Uỷ ban ấy". Chính quyền nhân dân cũng đã
kiên quyết "trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khǎn về nội trị, ngoại giao
và dựa vào thế lực bên ngoài mà ngóc đầu dậy; trừng trị bọn chia rẽ, bọn đầu cơ,
tích trữ và bọn lạm quyền, nhiễu dân". Đảng chủ trương trong mọi tình thế phải bảo
đảm sự thống nhất của chính quyền nhân dân từ trung ương đến cơ sở, xử trí kịp
thời "bọn đối lập". Đảng ta nhận thức rằng chính quyền cách mạng trước mắt phải
chǎm lo đời sống nhân dân, đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nạn đói. Do vậy,
việc cứu đói thật sự cần kíp như đánh giặc ngoài mặt trận. Trên cơ sở khôi phục,
phát triển kinh tế để ổn định đời sống nhân dân, chính quyền cách mạng phải từng

bước mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân trong điều kiện, hoàn cảnh cho phép.
Sự nghiệp kiến thiết đất nước đặt ra trước chính quyền không chỉ nhằm mục tiêu cụ
thể trước mắt về cơm ǎn, áo mặc cho dân, mà còn làm sao cho chúng ta theo kịp
các nước khác trên thế giới. Nhiều chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách phát
triển sản xuất nông nghiệp đã mang lại hiệu quả thiết thực. Nạn đói bị đẩy lùi, nhân
dân tin tưởng gắn bó với chính quyền cách mạng. Xác định rõ chức nǎng, nhiệm vụ
ban đầu của chính quyền là rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn. Đồng thời, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ
chính quyền, ngǎn chặn nguy cơ quan liêu hoá, cán bộ chính quyền trở thành những
"quan cách mạng". Trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, tháng 10-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những cǎn bệnh xuất hiện trong bộ máy chính quyền
mới như: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Những hành vi đó là
trái với bản chất của chính quyền nhân dân, làm giảm uy tín, làm suy yếu chính
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 6
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
quyền. Người vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng
đều là đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, chính quyền cách mạng đã kiên quyết tổ chức cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp ở Nam Bộ với lực lượng tại chỗ, đồng thời huy động sức mạnh của
cả nước bằng tổ chức những đoàn quân Nam tiến. Đảng và chính quyền cách mạng
chủ trương thực hành chính sách ngoại giao khôn khéo nhằm bảo vệ chính quyền:
triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hoá chúng và có những
nhân nhượng cần thiết. Khi thì hoà với Tưởng để tập trung đánh thực dân Pháp, khi
thì hoà với Pháp để gạt Tưởng. Với sách lược mềm dẻo nhưng có nguyên tắc chẳng
những bảo vệ được chính quyền mà còn đưa sự nghiệp cách mạng phát triển một
cách vững chắc. Hoạt động ngoại giao của Nhà nước cách mạng non trẻ theo
phương hướng: làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn
hết. Dù chưa có nhà nước nào trên thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao,
song Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và nhân dân Việt Nam vẫn quyết tâm

giữ vững nền độc lập. Trong vòng vây và sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
bọn phản động, trong điều kiện chưa có sự giúp đỡ trực tiếp của các nước anh em,
bầu bạn trên thế giới, sự tồn tại và vững mạnh của Nhà nước dân chủ nhân dân non
trẻ được quyết định bởi chính sức mạnh của nhân dân và của dân tộc. Chính bản
lĩnh và sự sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tạo thành sức mạnh
không thể phá vỡ nổi mà kẻ thù không thể không thừa nhận. Những chính sách về
chính trị, kinh tế, vǎn hoá, xã hội đúng đắn đã khơi dậy sức mạnh vật chất, tinh
thần to lớn của nhân dân. Tất cả đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, tạo nên thế và lực
mới của chính quyền nhân dân. Những nǎm tháng đầu tiên xây dựng và bảo vệ
chính quyền là quá trình tǎng cường thực lực về mọi mặt. Đó cũng là nét nổi bật về
khả nǎng tự bảo vệ của chính quyền cách mạng Việt Nam trong hoàn cảnh khó
khǎn điển hình. Nhà nước và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng với
thực dân Pháp. Nhưng dã tâm xâm lược của thực dân Pháp ngày càng trắng trợn.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 7
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Khi không thể nhân nhượng được nữa, chính quyền cách mạng đã chủ động phát
động nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến. Kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ (từ 12-1946 đến 7-1954) là tiếp tục sự nghiệp của Cách
mạng tháng Tám, là tiếp tục công cuộc bảo vệ chính quyền bằng một cuộc chiến
tranh cách mạng. Cuộc kháng chiến được tiến hành trong điều kiện đã có chính
quyền cách mạng. Chính quyền là công cụ mạnh mẽ và hiệu lực để tổ chức, động
viên nhân dân tham gia kháng chiến. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài và tự lực cánh sinh của Đảng, Chính phủ kháng chiến không chỉ tổ
chức, chỉ đạo đấu tranh quân sự, mà còn đề ra và thực hiện hàng loạt các chính sách
kinh tế, xã hội hợp lòng dân, bồi dưỡng sức dân, phát triển lực lượng kháng chiến.
Chính quyền nhân dân đã ban hành sắc lệnh giảm tô và từng bước tiến hành cải
cách ruộng đất mang lại lợi ích cơ bản và thiết thân cho nông dân, một nhân tố
quan trọng bảo đảm thắng lợi của cuộc kháng chiến. Việc từng bước kết hợp nhiệm
vụ chống đế quốc với chống phong kiến là kết hợp sự nghiệp giải phóng dân tộc và

giải phóng xã hội bằng những hoạt động quân sự, chính trị và kinh tế thông qua vai
trò tổ chức của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các chính sách
khuyến khích sản xuất nông nghiệp, chính sách thuế nông nghiệp, thuế công
thương nghiệp, chính sách tài chính, ngân hàng, v.v. của Chính phủ đã có tác dụng
to lớn giải quyết khó khǎn về kinh tế, đời sống, từng bước cân bằng thu chi ngân
sách, bảo đảm cho bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến hoạt động có hiệu quả.
Với sự tổ chức, điều hành của bộ máy chính quyền nhân dân ở vùng tự do, chẳng
những bảo đảm kinh tế tự túc tự cấp cho kháng chiến, ổn định đời sống, không để
xảy ra thiếu đói nghiêm trọng, mà còn phát triển được sự nghiệp vǎn hoá, giáo dục.
Hệ thống giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp và phổ thông được hình thành,
phát triển với những kết quả bước đầu. Lực lượng vũ trang với ba thứ quân được
xây dựng và trưởng thành nhanh, cơ sở chính là khối đoàn kết dân tộc được củng
cố. Hậu phương của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố vững chắc. Trong
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 8
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
suốt cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà luôn luôn giương
cao ngọn cờ chính nghĩa, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao để tranh thủ sự ủng họ và
giúp đỡ của các nước và các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới, cô lập kẻ
thù là bọn đế quốc và tay sai (chính phủ bù nhìn). Thành công nổi bật là nǎm 1950,
ta đã phá được thế bao vây cô lập cách mạng Việt Nam của chủ nghĩa đế quốc. Đầu
nǎm 1950, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân đã công nhận
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự trưởng
thành của chính quyền nhân dân gắn liền với thắng lợi về quân sự, chính trị, kinh
tế, vǎn hoá, ngoại giao. Chính quyền được củng cố vững mạnh lại là một trong
những nhân tố quyết định thắng lợi về mọi mặt của cuộc kháng chiến. Thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã chứng minh vai trò
tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân chống ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước
của chính quyền cách mạng.
III. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược
1.Sự hình thành đường lối kháng chiến.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta mà đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vạch ra đường 1ối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân và dân
ta. Đường 1ối đó được xuất phát từ những văn kiện chính sau đây:
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946)
- Ban chi thị Toàn dân kháng chiến của Ban thường vụ trung ương Đảng
(22/12/1946).
-Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh 1947.
Từ những văn kiện ấy dần dần hình thành đường 1ối kháng chiến của ta. Đường
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 9
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
1ối đó 1à: Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, và tự lực cánh sinh. Đường
1ối này đã thể hiện tính chất của cuộc kháng chiến của nhân ta 1à:
- Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
chống lại một cuộc chến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích: Giành độc 1ập và thống
nhất
Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
- Trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình,
vừa đấu tranh cho hòa bình thế giới.Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
Việt Nam do đó còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc 1ập, vì dân chủ
hòa bình.
2. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến.
- mục đích:là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng t8, đánh thực dân pháp xâm
lược,hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất thật sự cho tổ quốc
- tính chhất kháng chiến:cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến
tranh chính nghĩa =>có tính chất dân tộc và dân chủ mới
-chính sách kháng chiến:liên hiệp viới dân tộc pháp, chống phản động thực dân

pháp. doàn kết với miên - lào và các dân tộc yêu chuộng tự do
- nhiệm vụ kháng chiến: đoàn kết toàn dân, thực hiện quân chính, dân nhất
trí dộng viên nhân lực,vật lực,tài lực,thực hiện toàn dân kháng chiến,toàn diện
kháng chiến, trường kì kháng chiến.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 10
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
-Phương châm tiến hành kháng chiến:tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực
hiện kháng chiến toàn đân toàn diện lâu dài dựa vào sức mạnh là chính
* Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc không
phân biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi 1àng xóm là một pháo
đài. Sở dĩ như vậy là vì: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích toàn
dân nên phải do toàn dân tiến hành
* Kháng chiến toàn diện: Là kháng chiến trên tất cả các mặt: Quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, ngoại giao… Vì thực tiển giặc Pháp không những đánh ta về
quân sự mà còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa…Cho nên ta không những
kháng chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng chiến toàn diện trên
tất cả các mặt. Đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân.
* Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài): Đây là một chủ trương vô cùng
sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê Nin vao
hoàn cảnh nước ta. Ta yếu địch mạnh nên phải đánh lâu dài để chuyển hóa lực
lượng.
*Tự lực cánh sinh: Chủ yếu la dựa vào sức mình là chính (sức mạnh của nhân
dân) không trông chờ ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự viện trợ của
quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phải dựa vào sức mình là chính.
* Kết quả
- Về chính trị xã hội: xây dựng được nền móng cho xã hội mới, chế độ dân chủ
nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. quốc hội , hội đồng nhân dân
được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. hiến pháp đc quốc hội thông qua và

ban hành. Bộ máy chính quyền với các cơ quan tư pháp tòa án , các công cụ chuyên
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 11
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
chính như vệ quốc đoàn công an nhân dân đc thiết lập và tăng cường. các đoàn thể
nhân dân như mặt trận việt minh , hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, đc xây dựng
và mở rộng.
- Về kinh tế, văn hóa: phát động phong trào tăng gia sx, cứu đói, xóa bỏ các thứ
thuế vô lí của chế độ cũ ra sắc lệnh giảm tô , xây dựng ngân quỹ quốc gia. Các lĩnh
vực sản xuất được hồi phục. cuối năm 45 nạn đói cơ bản đc đẩy lùi, năm 46 đời
sống nhân dân ổn định và cải thiện. phát hành tiền Việt Nam. Mở lại trường lớp,
phong trào bình dân học vụ thực hiện sôi nổi
- Về bảo vệ chính quyền cách mạng:
+ khi pháp nổ súng đánh chiếm nam bộ đg đã tổ chức nhan dân đứng lên kháng
chiến, ngăn không cho Pháp tiến ra trung bộ
+ bằng biện pháp hòa hoàn với tưởng rồi sau đó dàn xếp với pháp để đuổi quân
đội Tưởng Giới Thạch về nước. hiệp định sơ bộ 6/3/1946 cuộc đàm phán ở đà lạt
và phông ten nơ blô , tạm ước 14/9/46 đã tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian để
chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới
* Ý nghĩa và tác dụng của đường lối kháng chiến chống Pháp
- Toàn bộ đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu
sắc. Nó chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa, nên được nhân dân ủng
hộ.
- Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành
cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù phải trải
qua nhiều hy sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
- Bảo vệ được nền độc lập dân tộc, giữ vững chính quyền cách mạng
- xây dựng được nền móng đầu tiên cho một chế độ xã hội mới chế độ Việt Nam
dân chủ cộng hòa
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:

SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 12
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
- Chuẩn bị những điều kiện trực tiếp, cần thiết cho cuộc kháng chiến toàn quốc
sau đó.
* Bài học kinh nghiệm
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng
- Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù chĩa mũi nhọn vào kẻ thù
chính coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với kẻ thù cũng là một biện pháp đấu
tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể
- Tận dụng khả năng hòa hoãn để xd ll củng cố chính quyền đồng thời đề cao
cảnh giác sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng khi kẻ địch bội ước
IV. Những bài học lịch sử về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân
1. Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa hẳn vào dân, vì lợi ích của nhân dân,
đó là nguồn gốc sức mạnh của chính quyền trong các giai đoạn cách mạng
Cuộc cách mạng tháng Tám nǎm 1945 đã đánh đổ chính quyền thực dân, phong
kiến, lập nên chính quyền nhân dân do Đảng ta lãnh đạo. Lần đầu tiên ở nước ta,
Nhà nước không phải là cơ quan thống trị nhân dân, mà là cơ quan gánh việc chung
của dân, phục vụ nhân dân, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Với bản chất
như vậy nên ngay từ những ngày đầu còn rất non trẻ và thiếu kinh nghiệm, Nhà
nước ta vẫn có đủ khả nǎng và điều kiện để phát huy cao nhất vai trò và sức mạnh
của nhân dân trong xây dựng, bảo vệ chính quyền, cũng như trong xây dựng xã hội
mới, cuộc sống mới. Dưới chế độ cũ, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do
dân chủ. Cách mạng thành công, nước ta trở thành một nước dân chủ, như Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định: bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền lực đều là
của dân, cách mạng rồi, thì quyền giao cho dân chúng số nhiều. Chính quyền nhân
dân là hình thức tổ chức quản lý xã hội, trong đó nhân dân làm chủ, cơ quan quyền
lực do dân bầu ra và do đó quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là bản chất của chính
quyền mới, không phải là khẩu hiệu có tính chất mị dân. Là chính quyền nhân dân,
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:

SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 13
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
lẽ đương nhiên chính quyền với nhân dân "phải kết thành một khối", chính quyền
phải gắn bó với dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân. Đảng ta quan niệm rằng:
"Chính quyền cách mạng phải mạnh. Sức mạnh của nó là sức mạnh của nhân dân.
Khi nhân dân yêu mến chính quyền của mình, hy sinh chiến đấu bảo vệ chính
quyền thì chính quyền ấy mới mạnh". Chính Lênin đã từng khẳng định: "Chỉ có
một chính quyền dựa một cách công nhiên và dứt khoát vào đa số nhân dân mới có
thể vững chắc được". Không chỉ gắn bó và dựa vào sức mạnh của nhân dân, mặc dù
đó là điều cực kỳ quan trọng và thiết yếu, mà chính quyền còn phải trở thành công
cụ làm chủ thật sự của nhân dân. Chính quyền phải bảo vệ quyền lợi của nhân dân
về mọi mặt chính trị, kinh tế, vǎn hoá, xã hội. Quyền làm chủ của dân, những yêu
cầu dân chủ cơ bản không phải là khái niệm trừu tượng, mà là những vấn đề cụ thể.
Những điều kiện cụ thể ấy được thể chế hoá bằng hiến pháp và hệ thống pháp luật,
quy chế, quy tắc trong đời sống xã hội, được ghi nhận và thực hiện qua các chính
sách kinh tế, xã hội. Hệ thống pháp luật và chính sách kết tinh ý chí, nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân, nó càng đúng đắn và hoàn chỉnh bao nhiêu, càng thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân bấy nhiêu. Đó cũng là thước đo trình độ của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay. Nhân dân sử dụng quyền làm chủ và
quyền lực của mình không chỉ qua bộ máy nhà nước mà còn tham gia quản lý nhà
nước. Trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước dù là quản lý hành chính
hay quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự, trị an đều cần có sự tham gia của
quần chúng. Phải bằng công tác tổ chức công phu, tỉ mỉ, linh hoạt mới có thể lôi
cuốn nhân dân vào mọi hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội và đời sống. Vì
lẽ đó, "các cơ quan chính quyền các cấp điều hành công việc theo chức nǎng quản
lý nhà nước, đồng thời làm tốt công tác vận động quần chúng, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền". Là chính quyền nhân dân nên
mỗi người dân chẳng những có trách nhiệm tham gia quản lý và xây dựng chính
quyền, thực hiện tốt nhất nghĩa vụ của công dân, mà còn kiểm tra, giám sát hoạt
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:

SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 14
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
động của các cấp chính quyền, của các cơ quan nhà nước và của từng cán bộ, viên
chức nhà nước. Nhân dân không chỉ đóng góp trí tuệ xây dựng pháp luật, chính
sách, mà còn phát hiện những gì không đúng, không hợp lý để Nhà nước sửa đổi
kịp thời, phát hiện những sai phạm của cơ quan và cán bộ nhà nước. "Phát huy vai
trò của hệ thống thanh tra nhân dân, cùng với hệ thống thanh tra Nhà nước giám
sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật và chủ trương chính sách của Nhà nước, phát
hiện và tham gia xử lý những vụ việc tiêu cực trong Đảng, trong bộ máy nhà nước
và trong xã hội". Xây dựng và củng cố chính quyền thực sự của dân, do dân và vì
dân là một quá trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa ý thức và nǎng lực làm
chủ của nhân dân với thói quen an phận của người bị trị dưới chế độ cũ cùng lề thói
hủ lậu của kẻ có chức quyền. Quá trình đó đòi hỏi phải có nhận thức và quan điểm
đúng đắn. Nhưng như thế vẫn chưa đủ và sẽ vẫn rơi vào chủ nghĩa hình thức nếu
không đồng thời đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương thức
hoạt động và cả sự lựa chọn con người sao cho thể hiện đúng bản chất của chính
quyền nhân dân. Sức mạnh và hiệu lực thực tế của chính quyền nằm ở bản chất,
tính chất nhân dân của nó, nằm ở những ưu việt vốn có của nó. "Dựa hẳn vào nhân
dân là điều kiện cơ bản để bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng". Nếu xa rời
quần chúng, không được nhân dân ủng hộ, nghĩa là xa rời bản chất cách mạng của
chính quyền nhân dân, nếu để kẻ thù lừa bịp và lôi kéo làm suy yếu phong trào
quần chúng, thì chính quyền không thể vững mạnh, thậm chí không thể tồn tại
được. Đó không chỉ là kinh nghiệm lịch sử của bản thân cách mạng nước ta, mà
những biến động ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ điều đó. Đây không
còn là vấn đề nguyên lý, lý luận mà đang và sẽ còn là vấn đề thực tiễn cấp bách.
Nhất thiết Nhà nước phải "có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân,
tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân".
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 15
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM

2. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất, sức mạnh và sự
tồn tại của chính quyền nhân dân
Khi chưa có chính quyền, Đảng của giai cấp công nhân phải tự đảm đương mọi
việc của quá trình đấu tranh cách mạng. Từ việc định ra đường lối chiến lược, sách
lược đến tuyên truyền, vận động nhân dân, giáo dục, huấn luyện, đào tạo cán bộ và
tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng để tiến tới giành lấy chính quyền.
Khi trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền, thì ngoài việc không ngừng củng cố mối
quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng còn phải thực hiện tốt sự lãnh đạo đối với
chính quyền, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng với tư cách người lãnh
đạo và chính quyền với tư cách người tổ chức quản lý. Cũng như ở nhiều nước,
thực tiễn của cách mạng Việt Nam cho thấy giai cấp công nhân và chính đảng của
nó nhất thiết phải nắm vững vai trò lãnh đạo, phát huy chức nǎng, nhiệm vụ của
chính quyền, một mặt, để trấn áp kẻ thù của giai cấp và dân tộc, mặt khác, để lãnh
đạo, tổ chức sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến thiết đất nước, chǎm lo mọi
mặt đời sống nhân dân nhằm giữ vững bản chất cách mạng của chính quyền nhân
dân. Thực tế xây dựng và bảo vệ chính quyền trong những nǎm 1945-1946, trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã và đang khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng. Nhưng thực tế cũng khẳng định: "Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước không có nghĩa là Đảng bao biện công việc của Nhà nước, làm lu mờ tác
dụng của Nhà nước. Trái lại, lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chính là nhằm
nâng cao vị trí, tác dụng, uy tín và ảnh hưởng của Nhà nước, tǎng cường sức mạnh
của Nhà nước, làm cho Nhà nước đủ sức làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, thực
hiện đường lối chung của Đảng". Đồng thời với tình trạng Đảng bao biện, làm thay
công việc của Nhà nước còn có một khuynh hướng sai lầm khác là buông lỏng sự
lãnh đạo của Đảng, khoán trắng cho cơ quan Nhà nước, để các cấp chính quyền có
nơi có lúc tự ý có những chủ trương và việc làm sai trái đối với đường lối, chính
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 16
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM

sách của Đảng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền mà buông lỏng hoặc
rời bỏ vị trí lãnh đạo là một sai lầm nguy hiểm. Trong thực tế, khi phê phán khuynh
hướng bao biện thường dẫn tới buông lỏng sự lãnh đạo và ngược lại. Tuy nhiên,
trong nhiều nǎm qua Đảng bao biện công việc của Nhà nước vẫn là chủ yếu và phổ
biến. Bằng kinh nghiệm lịch sử và nhất là trước đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới,
Đảng ta ý thức rằng cần phải khắc phục có hiệu quả những sai lầm trên đây, sao
cho vừa tǎng cường được vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao được hiệu lực
quản lý của Nhà nước. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan là Đảng phải đổi mới và
hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước cũng như đối với toàn
bộ xã hội. Nếu như trước đây, sự lãnh đạo của Đảng nghĩa là Đảng quyết định
chính sách, kế hoạch và biện pháp chủ yếu của Nhà nước và các cơ quan nhà nước,
các cấp chính quyền chỉ biết thụ động thực hiện những quyết định của Đảng, thì
nay: Đảng lãnh đạo thông qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chiến lược,
những mục tiêu cơ bản của cách mạng, vạch ra những phương hướng, chính sách
lớn trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại, định hướng hoạt động của Nhà nước.
Đảng không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của Nhà nước mà
tập trung trí tuệ hoạch định những vấn đề có tầm chiến lược. Việc điều hành cụ thể
theo đường lối và định hướng của Đảng là thuộc về vai trò, chức nǎng, nhiệm vụ
của Nhà nước. Thực tế lịch sử cho thấy vai trò, chức nǎng, nhiệm vụ và hiệu lực
quản lý của Nhà nước được phát huy không hề hạ thấp hoặc ảnh hưởng đến vai trò
và vị trí lãnh đạo của Đảng, trái lại càng nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng
trong hệ thống chính trị. Một trong những nội dung lãnh đạo của Đảng đã được xác
định trước đây là Đảng kiểm tra sự hoạt động của bộ máy nhà nước.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 17
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
KẾT LUẬN
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây dựng với bảo vệ chính quyền cách mạng;

trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ. Trong
cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược, Trung ương Đảng, Bác
Hồ đã đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo - "Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, lấy sức mình là chính", kháng chiến đi đôi với kiến quốc để kháng
chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Qua đó, làm chuyển hoá thế trận, thay đổi
tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, từng bước tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn.
Qua bài tiểu luận chúng ta đã hiểu được phần nào lịch sử kháng chiến cứu
nước của dân tộc ta, một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử nước
nhà, một chính quyền nhân dân non trẻ phải đứng trước vô vàn khó khăn thử
thách, như lịch sử đã ghi lại “ ngàn cân treo sợi tóc”, chúng ta có thể mất nước bất
cứ lúc nào, tuy nhiên dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
chúng ta đã từng bước tháo gỡ khó khăn, xây dựng được chính quyền vững mạnh
dựa vào sức mạnh của toàn dân. Giai đoạn này đã để lại bài học kinh nghiệm sâu
sắc cho Đảng và nhân ta trong thời lỳ hiện nay, xây dựng và phát triển đất nước
dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô giáo bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ chúng
em hoàn thành bài tiểu luận này. Do tầm hiểu biết còn hạn hẹp trong bài tiểu luận
có điều gì thiếu sót, chúng em rất mong được sự góp ý của cô cũng như các bạn.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 18
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Ý KIẾN CỦA GVHD












DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
2. Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
3. Tạp chí cộng sản
4. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
5. Trang điện tử chinhphu.vn
6. Báo Hà Nội Mới
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:
SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 19
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng 2
II. Bảo vệ chính quyền non trẻ và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954) 4
III. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 9
1.Sự hình thành đường lối kháng chiến 9
2. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến 10
IV. Những bài học lịch sử về xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân 13
1. Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa hẳn vào dân, vì lợi ích của nhân dân, đó là
nguồn gốc sức mạnh của chính quyền trong các giai đoạn cách mạng 13
2. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất, sức mạnh và sự tồn tại của
chính quyền nhân dân 16
KẾT LUẬN 18
GVHD: Đào Thị Phú Lớp:

SVTH: Hoàng Thị Thủy Trang: 20

×