Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tìm hiểu chủ trương đấu tranh giành chính quyền của đảng giai đoạn 1936 – 1939

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.95 KB, 18 trang )

Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử hơn 80 năm của Đảng là lịch sử của quá trình lãnh đạo nhân dân Việt
Nam đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lịch sử của Đảng
gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam, đã trải qua nhiều chặng đường đấu tranh
gian khổ, hào hùng và hết sức oanh liệt, vẻ vang.
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống quan điểm, chủ
trương, chính sách về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách
mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng được thể hiện qua cương lĩnh, nghị quyết
của Đảng.
Phong trào 1936 - 1939 được lịch sử đánh giá cao như cuộc tổng diễn tập lần
thứ 2 của Đảng và nhân dân ta, chuẩn bị cho cách mạng tháng 8 năm 1945. Đây
được xem là bước chạy đà quan trọng của Đảng chuẩn bị khởi nghĩa, trong giai
đoạn này nổi lên phong trào Dân chủ, được xem là bước chuẩn bị về mặt tư tưởng
cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Chính vì vai trò quan trọng của giai đoạn này nên chúng em đã chọn bài tiểu
luận “ tìm hiểu chủ trương đấu tranh giành chính quyền của Đảng giai đoạn
1936 – 1939”. Bài tiểu luận khái quát lại quá trình đấu tranh và tư tưởng chỉ đạo
của Đảng trong giai đoạn 1936 – 1939.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 1
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử
- Tình hình thế giới:
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929- 1933 ở các nước thuộc hệ
thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày
càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao. Chủ nghĩa phát
xít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi như phát xít Hít le ở Đức, phát xít
Phrăngcô ở Tây Ban Nha, phát xít Mútxôhni ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật
Bản. Chế độ độc tài phát xít là nền chuyên chính của những thế lực phản động nhất,


sô vanh nhất, tàn bạo và dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược, bành
trướng và nô dịch các nước khác. Tập đoàn phát xít cầm quyền ở Đức, Ý và Nhật
đã liên kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị
trường thế giới và thực hiện mưu đồ tiêu diệt Liên Xô - thành trì cách mạng thế
giới - nhằm hy vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản đang phát triển mạnh mẽ.
Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa
bình và an ninh quốc tế.
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-1935 dưới
sự chủ trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê
Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự Đại hội. Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước
mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là chủ
nghĩa đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít. Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước
mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải là đấu
tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng cộng sản và nhân dân các nước
trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi
chông phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 2
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
sống.Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, Đại hội chỉ rõ: Do tình hình thế
giới và trong nước thay đổi nên vấn đề lập mặt trận thông nhất chống đế quốc có
tầm quan trọng đặc biệt.
- Tình hình trong nước:
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 đã tác động sâu sắc không những đến
đời sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, mà còn đến cả những nhà tư
sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Chính quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ
vét, bóc lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân
chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.

Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và tầng lớp xã hội tuy có quyền lợi khác
nhau, nhưng đều căm thù thực dân, tư bản độc quyền Pháp, và đều có nguyện vọng
chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo
và hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của
quần chúng đã được khôi phục. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát
triển mới của phong trào cách mạng nước ta.
II. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
Trước những biến chuyển của tình hình trong nước và thế giới, đặc biệt dưới
ánh sáng của chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII Quốc tế
Cộng sản, trong những năm 1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương đã họp Hội nghị lần thứ hai (tháng 7-1936), lần thứ ba (tháng 3-
1937), lần thứ tư (tháng 9-1937) và lần thứ năm (tháng 3-1938) đề ra những chủ
trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới, phù hợp với tình hình
cách mạng nước ta.
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh: Ban Chấp hành Trung ương
xác định cách mạng ở Đông Dương vẫn là "cách mạng tư sản dân quyền - phản đế
và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết, để dự bị điều
kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa"l. Song, xét rằng, cuộc vận động quần
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 3
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế
quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó,
yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời
sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu
tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông
Dương cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của
chúng.
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phát xít, chống chiến tranh đế

quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa
bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, Ban Chấp hành
Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp,
dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, với
nòng cốt là liên minh công - nông. Để phù hợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách
mạng trong tình hình mới, Mặt trận nhân dân phản đế đã được đổi tên thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương.
Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn
phản động thuộc địa và tay sai của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân
chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và
Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp", mà còn phải đề ra khẩu
hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kẻ thù
chung là bọn phát xít ở Pháp và bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ chức bí
mật không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa
công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với
quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức
và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 4
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
tranh công khai hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững
nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững
mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp với không hợp pháp và phải bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động công
khai hợp pháp.
- Nhận thức mới của Đảng về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ:
Trong khi đề ra chủ trương mới để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh nhằm thực
hiện các quyền dân chủ, dân sinh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề

nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phản đế và điền
địa trong cách mạng ở Đông Dương. Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến
sách mới công bố tháng 10-1936, Đảng đã nêu một quan điểm mới: "Cuộc dân tộc
giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là
không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa,
muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ
không xác đáng". "Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở
cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết
trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của
một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng".
Đây là nhận thức mới của Ban Chấp hành Trung ương, nó phù hợp với tinh
thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những
hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tháng 3-1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối
với thời cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, Chính phủ Pháp hiện đã nghiêng
về phía hữu, ra sức bóp nghẹt tự do dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo
riết chuẩn bị chiến tranh. Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân phải thống
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 5
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
nhất hành động hơn nữa trong việc đòi các quyền tự do dân chủ, chống nguy cơ
chiến tranh đế quốc.
Tháng 7-1939 Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩm Tự chỉ trích.
Tác phẩm đã phân tích những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng, tổng kết kinh
nghiệm cuộc vận động dân chủ của Đảng, nhất là về đường lối xây dựng Mặt trận
dân chủ Đông Dương - một vấn đề chính trị trung tâm của Đảng lúc đó. Tác phẩm
Tự chỉ trích chẳng những có tác dụng lớn trong cuộc đấu tranh để khắc phục những
lệch lạc, sai lầm trong phong trào vận động dân chủ, tăng cường đoàn kết nhất trí
trong nội bộ Đảng, mà còn là một văn kiện lý luận quan trọng về xây dựng Đảng,
về công tác vận động thành lập mặt trận thống nhất rộng rãi trong đấu tranh cách

mạng ở Việt Nam.
Như vậy, trong những năm 1936-1939 chủ trương mới của Đảng đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của
cách mạng. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời kỳ này đánh
dấu bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh và tinh
thần độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào mới trong cả nước.
III. Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939
Những năm 1930 - 1936 chủ nghĩa phát xít đã phát triển thành một trào lưu
chính trị và thắng thế ở nhiều nước trên thế giới. Đảng phát xít Ý ra đời năm 1920,
đến năm 1922 giành được chính quyền ở Roma. Đảng Quốc xã Đức ra đời năm
1919, đến năm 1933 trở thành Đảng cầm quyền. Ở Nhật, sau cuộc đảo chính bất
thành của phái “Sĩ Quan Trẻ”, chính quyền quân phiệt từ năm 1936 chuyển sang
phát xít hóa…
Chủ nghĩa phát xít, như Quốc Tế Cộng Sản đã khái quát: “Chính là sự tấn công
tàn bạo nhất của tư bản chống lại quần chúng lao động”, “Chính là chủ nghĩa Xô
Vanh đến cực điểm và là chiến tranh xâm lược”, “là nền chuyên chính khủng bố
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 6
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
công khai của những phần tử phản động nhất, Xô Vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa
nhất của tư bản tài chính”. Trên cơ sở nhận thực đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc
Tế Cộng Sản họp tại Matxcơva tháng 7/1935, chủ trương thành lập Mặt Trận Nhân
Dân rộng rãi trên toàn thế giới để chống chủ nghĩa phát xít, chống nguy cơ chiến
tranh.
Trong xu thế chung của thế giới chống phát xít, tháng 1/1936, Mặt Trận Bình
Dân Pháp đã ra đời, mặt trận tập hợp nhiều tổ chức Đảng phái chống phát xít Pháp,
trong đó đông đảo nhất là Đảng Xã Hội, Đảng Cấp Tiến, Đảng Cộng Sản, Tổng
Liên đoàn Lao động, Tổng Liên đoàn Lao động Thống Nhất. Trong cuộc bầu cử
tháng 4/1936, bọn phát xít Pháp hoàn toàn thất bại, lực lượng Dân chủ hoàn toàn
thắng thế, chính phủ Mặt Trận Bình Dân được thành lập. Sau đó chính phủ này

buộc phải thi hành cương lĩnh dân chủ chống phát xít của Mặt Trận Bình Dân. Đối
với các thuộc địa, Mặt Trận Bình Dân chủ trương mở các cuộc điều tra tình hình và
thu thập dân nguyện, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do nghiệp đoàn, cải
thiện đời sống giới lao động, toàn xá chính trị phạm…
Mặt Ttrận Dân Chủ Đông Dương và sự phát triển của cao trào đấu tranh dân chủ
những năm trước chiến tranh: Từ năm 1937, theo chủ trương của Đảng Cộng Sản
Đông Dương tận dụng các khả năng công khai hợp pháp, Mặt Trận Dân Chủ Đông
Dương và các tổ chức đoàn thể quần chúng của mặt trận như Đoàn Thanh Niên
Dân Chủ, Hội Cứu Tế Bình Dân, Công Hội, Nông Hội ra đời. Ở các thành thị và
nông thôn lại rất phát triển hội quần chúng như Ái Hữu, Tương Tế, Thể Thao, Âm
Nhạc, Kịch, Du Lịch, Chèo, Hội Cấy, Hội Gặt…
Để tập hợp các lực lượng khác, Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương thông qua các
nhóm cộng sản công khai (nhóm Tin Tức, Ngày Nay ở Bắc Kỳ, Dân Chúng ở Nam
Kỳ, một bộ phận trong viện dân biểu ở Trung Kỳ) đã liên minh với các chi nhánh
Đảng Xã Hội Pháp, Đảng Lập Hiến, Viện Dân Biểu, lập tổ chức cơ sở của mặt trận.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 7
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Với việc tổ chức tập hợp nhiều thành phần xã hội, Mặt Trận Dân Chủ Đông
Dương sẽ có vai trò mới trong cuộc đấu tranh, nhất là trong đấu tranh nghị trường.
Những cuộc bầu cử Viện Dân Biểu Trung Kỳ, Viện Dân Biểu Bắc Kỳ, Hội Đồng
thành phố Hà Nội, Đại Hội đồng kinh tế - tài chính Đông Dương trong 2 năm 1937
- 1938 đã lần đầu tiên gây sự chú ý lớn trong các tầng lớp dân chúng hữu quan, bởi
sự tham gia của Mặt Trận Dân Chủ.
Chương trình hành động và danh sách ứng cử của Mặt Trận Dân Chủ Đông
Dương đã gây lòng tin và giành thắng lợi cao trong các cuộc bầu cử thời gian này.
Cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Hà Nội đã có 15 người của Mặt Trận Dân Chủ
Đông Dương trúng cửa, trong đó cựu chính trị phạm Khuất Duy Tiến là người được
nhiều phiếu nhất.
Những hoạt động đấu tranh công khai hợp pháp của quần chúng ngày một sôi

nổi với những hình thức phong phú như mít - tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng,
bãi công… Ngày 1/5/1938 tại Hà Nội đã có cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất vớ
250.000 người trong khu vực nhà Đấu Xảo để kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao Động.
Các thành phố cũng thường xuyên nổ ra bãi công, bãi thị, bãi khóa… Nửa cuối năm
1936 có 361 cuộc đấu tranh công khai của quần chúng lao động, năm 1937 lại có
gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân và hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân,
năm 1938 có 135 cuộc bãi công của công nhân và 125 cuộc đấu tranh của nông
dân…
Như vậy, trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, những hoạt động công khai hợp
pháp của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương mà người lĩnh xướng là Đảng Cộng Sản
Đông Dương đã đem đến cho phong trào dân tộc một sinh khí mới để phát triển,
một sự chuyển biến mới trong cách thức và nội dung đấu tranh, một sự bổ sung mới
vào lực lượng tiến hành vào địa bàn diễn tiến. Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương do
Đảng Cộng Sản đề xướng và làm nòng cốt, đã có công lớn trong việc phát động cao
trào Dân Chủ ở Đông Dương.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 8
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
Mặt khác, trong cao trào Dân Chủ những năm 1936 - 1939, đời sống tư tưởng
văn hóa của dân tộc cũng có nhiều thay đổi, phản ánh sự chuyển biến của đời sống
kinh tế - xã hội thuộc địa những năm trước chiến tranh.
Về tư tưởng, cuộc đấu tranh cho những quan điểm duy vật và tư tưởng yêu nước
- cách mạng, vẫn được duy trì đẩy mạnh theo đà phát triển của những năm 1933 -
1935. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh của bọn T’rốt - kít vào chủ nghĩa Trotxky,
Nguyển Ái Quốc và Đảng Cộng Sản Đông Dương đã sớm vạch mặt những kẻ giả
danh cách mạng, bọn này thường hô hào quần chúng “đẩy mạnh cách mạng” nhưng
thực tế là để chống lại cách mạng.
Phong trào báo chí công khai rầm rộ ở cả Bắc lẫn Nam suốt mấy năm 1936 -
1939. Bắc Kỳ có Notre Voix, Le Travail, En Vant, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay,
Bạn Dân; Trung Kỳ có Nhành Lúa, Kinh Tế Tân Văn, Dân, Sông Hương Tục Bản;

Nam Kỳ có L’Avantgarde, Le People, Dân Chúng, Lao Động… Đó là những tờ
báo cách mạng, như bản cương lĩnh của “Notre - Voix” đã tuyên bố: “Là tiếng nói
của những người mong muốn hòa bình, muốn được tự do và hạnh phúc hơn, của
những người quyết tâm đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, đấu tranh chống
lại các lực lượng bảo thủ và áp bức xã hội, và chống lại những kẻ gây chiến, chủ
nghĩa phát xít trong nước và trên quốc tế”. Chính từ mục tiên dân chủ hòa bình tự
do ấy, bằng cuộc đấu tranh của những người làm báo (qua các hội nghị báo chí ở
Trung Kỳ ngày 27/3/1937, ở Bắc Kỳ ngày 24/4/1937), ngày 30/8/1938 chính phủ
Pháp buộc phải ban hành Luật Tự do báo chí (mặc dù chỉ trong địa phận Nam Kỳ
mà thôi).
Văn hóa văn nghệ là lĩnh vực có nhiều nét phát triển mới, thể hiện rõ nhất
những đổi thay trong đời sống tinh thần của đời sống xã hội. Sách chính trị lần đầu
tiên được công khai xuất bản. Cuốn “Vấn Đề Dân Cày” của Qua Ninh và Vân Đình
(1937), “Chủ nghĩa Mác” của Hải Triều (1938) và các sách giới thiệu về Liên Xô,
Trung Quốc, về Mặt Trận Bình Dân Pháp… nhanh chóng đến với mọi người yêu
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 9
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
nước và cách mạng. Thơ Tố Hữu từ năm 1938 đã chinh phục quần chúng yêu nước
và đánh dấu sự xuất hiện nền thơ ca cách mạng trong cuộc đấu tranh dân chủ công
khai. Trong lúc đó dòng văn học Hiện thực phê phán cũng bước vào thời kỳ sinh
sôi nảy nở lấn lướt cả dòng văn học lãng mạng đang đi vào phân hóa. Các tác phẩm
Tắt Đèn, Việc Làng (Ngô Tất Tố), Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng), Bước Đường Cùng
(Nguyễn Công Hoan), Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng), Lầm Than (Lang Khai)… trở
thành món ăn tinh thần mới của nhiều tầng lớp xã hội. Sân khấu và Lý luận phê
bình văn học cũng kịp thời xuất hiện để không bỏ lỡ chuyến tàu dân chủ công khai.
Các vở diễn Kim Tiền (Vi Huyền Đắc), Đời Cô Lựu (Trần Hữu Trang) tập trung
phản ánh hiện thực, xã hội. Để chống văn hóa ngu dân, phong trào truyền bá chứ
quốc ngữ được phát động rộng rãi, nhất là trong các tầng lớp nhân dân lao động.
Mở đầu là việc thành lập Hội Truyền Bá Chữ Quốc Ngữ của cụ Nguyễn Văn Tố.

Sau đó là các nơi mở lớp chữ Quốc ngữ, chống thất học và giúp cho quần chúng
hiểu biết nhận thức thời cuộc.
Đến cuối năm 1938, khi cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh của chủ
nghĩa phát xít càng ráo riết, thì những thuận lợi cho các hoạt động đấu tranh dân
chủ hòa bình ngày một ít dần đi. Ở Đông Dương bọn phản động thuộc địa từ cuối
năm 1938 đầu năm 1939 bắt đầu ngăn cản và cấm đoàn những hoạt động dân chủ
công khai của quần chúng. Tháng 8/1939 sắc lệnh kiểm duyệt báo chí được thực
hiện. Tiếp theo là những hoạt động có liên quan đến Đảng Cộng Sản Đông Dương
đều bị theo dõi gắt gao. Về phần mình, Đảng Cộng Sản Đông Dương trong “Thông
báo tháng 3/1939” đã kêu gọi chống khủng bố. Từ đó Đảng kịp thời rút vào bí mật
trước khi địch ra tay khủng bố truy lùng bắt bớ. Cho đến khi Đại chiến thế giới lần
thứ hai bùng nổ (9/1939) phong trào đấu tranh dân chủ ở Việt Nam đã bị chấm dứt
hơn 3 năm phát triển.
Cao trào đấu tranh dân chủ công khai những năm1936 - 1939 là một cao trào
của quần chúng hiếm có ở xứ thuộc địa. Với cao trào này, lực lượng đấu tranh của
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 10
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
dân tộc được hình thành từ thời kỳ 1930 - 1931, gây dựng hồi phục lại những năm
1932 - 1935 nay được củng cố bổ sung thành một đạo quân hùng hậu hàng triệu
người ở cả nông thôn và thành thị với nhiều tầng lớp giai cấp khác nhau. Tận dụng
mọi khả năng điều kiện thế giới, và trình hình trong nước những năm trước chiến
tranh để đưa cả dân tộc và một cuộc vận động cách mạng, với nhiều hình thức hoạt
động phong phú, sôi nổi. Đó là thành công lớn, bài học quý báu từ thực tến đấu
tranh những năm 1936 - 1939 là hành trang của Đảng Cộng Sản Đông Dương và tất
cả những người yêu nước Việt Nam đem theo trong quá trình đấu tranh cho tự do
độc lập.
Thực hiện chủ trương của Đảng nhân dân trong cả nước đã sôi nổi đấu
tranh dưới những hình thức phong phú, tiêu biểu là các phong trào:
* Đông Dương đại hội.

- Là phong trào thành lập các uỷ ban hành động, tập hợp quần chúng thu thập
dân nguyên trao cho các phái đoàn sang điều tra tình hình thuộc địa Đông dương,
Đảng kêu gọi thành lập các Uỷ ban hành động ở khắp nơi để tập hợp lực lượng
quần chúng nhân dân, chuẩn bị cho đông dương đại hội.
- Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng khắp nơi Bắc - Trung - Nam các uỷ ban hành
động được thành lập. Đến T9/1936 ở nam kỳ đã có khoảng 600 uỷ ban hành động.
Quần chúng khắp nơi đã sôi nổi tổ chức các cuộc (mít tinh), hội họp, diễn thuyết,
thu thập dân nguyên đưa yêu sách…. Hoảng sợ trước phong trào 13/9/1936 chính
quyền thực dân đã ra lệnh giải tán các uỷ ban hành động. Phong trào Đ/D đại hội
sớm bị đàn áp nhưng hàng triệu quần chúng đã được giác ngộ về quyền lợi giai cấp
của mình. Được tập hợp tổ chức và rền luyện ý thức đoàn kết, tinh thần đấu tranh
được nâng cao.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 11
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
* Mặt trận dân chủ Đông Dương và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ:
- Năm 1937 nhân dịp đón phái viên của Chính phủ Pháp và toàn quyền mới xứ
ĐD phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ ngày càng phát triển mạnh mẽ, thu
hút đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là C/nhân và N/dân.
- Từ T1 - T11/1937 cả nước đã có 135 cuộc đấu tranh của công nhân, 125 cuộc
đấu tranh của nông dân, đặc biệt là 01/5/1938 có trên 25.000 người mít tinh ở
Quảng trường đấu xảo Hà nội với những khẩu hiệu lớn "Đi tới mặt trận dân chủ
ĐD…" " ủng hộ mặt trận bình dân Pháp" "Chống nạn thất nghiệp" "Thi hành triệt
để luật xã hội"…Thực dân Pháp vô cùng căm tức những cuộc mít tinh lớn có chỉ
đạo chặt chẽ nhưng chúng đành bất lực.
- Đấu tranh nghị trường: Đây là hình thức đấu tranh mới mẻ, được Đảng thực
hiện cuối 1938, mặt trận dân chủ ĐD đã giành được nhiều số phiếu trong cuộc bầu
cử hội đồng thành phố. 1939 đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc bầu cử hội
đồng dân biểu bắc kỳ. Đảng chỉ đạo các cuộc đấu tranh trên nghị trường. Lợi dụng
diễn đàm này để mở rộng lực lượng của mặt trận và vạch trần chính sách phản

động của kẻ thù, bênh vực quyền lợi của nhân dân.
* Ngoài các cuộc đấu tranh trên công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, nhiều
sách báo tiến bộ được phát hành rộng rãi, công khai như "Tin tức" "dân chúng"
"Báo dân" "Lao động" "Tranh đấu" Đã góp phần giáo dục, giác ngộ quần chúng,
vạch trần tội ác của đế quốc và phong kiến tay sai. Công khai bênh vực quyền lợi
của quần chúng, khích lệ tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân.
IV. Kết quả, ý nghĩa, bài học lịch sử của cao trào dân chủ 1936 – 1939
1. Kết quả
- Cao trào vận động dân chủ ĐD 36 - 39 là 1 phong trào CM diễn ra trên quy mô
rộng lớn toàn quốc thu hút đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân tham gia, sử dụng
những hình thức và phương pháp dấu tranh linh hoạt, phong phú, sinh động.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 12
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
- Qua phong trào hàng triệu quần chúng nhân dân các tầng lớp được giáo dục
CN Mác Lênin, giáo dục đường lối C/sách của Đảng, làm cho uy tín và ảnh hưởng
của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quần chúng CM. Quần chúng hiểu thêm về những
người cộng sản. Qua cao trào đã hình thành 1 đội quân C/trị của quần chúng đông
đảo, gồm hàng triệu người ở cả nông thôn và thành thị, không chỉ có công nhân,
nông dân mà còn nhiều tầng lớp khác như thanh niên, học sinh, tri thức tiểu tư sản,
tư sản dân tộc, thậm trí cả một bộ phận tầng lớp trên và người Pháp tiến bộ.
2. Ý nghĩa lịch sử
Cao trào đấu tranh giành chính dân chủ 1936 - 1939 đã nổ ra cả nước và trên
toàn Đông Dương. Đó là cuộc tập dượt thứ hai, là bước chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền ở nước ta (cho cách mạng tháng Tám 1945). Sự
lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh này chứng tỏ Đảng trưởng thành hơn trong
việc chỉ đạo sách lược cách mạng.
Đây là lần đầu tiên phong trào đấu tranh đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia
với nhiều hình thức đấu tranh, nhiều hình thức tổ chức, nhiều hình thức hoạt động
phong phú, rất hiếm có một nước thuộc địa. Qua đó, Đảng ta xây dựng được đội

quân chính trị hùng hậu cho cách mạng.
+ Nhờ lợi dụng đấu tranh công khai, hợp pháp mà quần chúng có điều kiện tập
dượt thêm hình thức đấu tranh chính trị, hoà bình, có điều kiện giác ngộ chủ nghĩa
Mac - Lênin, hiểu rõ đường lối chính sách của Đảng. Các sách báo của Đảngvà mặt
trận dân chủ đã có tác dụng lớn trong việc động viên giáo dục, tổ chức quần chúng
đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và những hành
động phá hoại của bè lũ phản động, làm cho chúng càng bị cô lập.
+ Từ trong thực tế phong trào và từ trong nhà tù đế quốc, Đảng ta tập hợp, đào
tạo được đội ngũ cán bộ đông đảo, trưởng thành; Đảng và cách mạng đã giành
được "Những con người, những bộ óc" của mình. Đội ngũ cán bộ này là nòng cốt
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 13
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám
1945.
+ Qua lãnh đạo đấu tranh, Đảng ta nâng cao được uy tín và ảnh hưởng trong
quần chúng, tích luỹ được nhiều bài học kinh nghiệm về xác định kẻ thù trước mắt,
khối đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất, về lãnh đạo đấu tranh
chính trị, hoà bình, đấu tranh công khai, hợp pháp và kết hợp các hình thức đấu
tranh đó với đấu tranh quân sự bạo lực, đấu tranh bí mật bất hợp pháp.
+ Không có thời kỳ đấu trạnh công khai giành dân chủ 1936 - 1939, trong đó lực
lượng cách mạng được chuẩn bị và nuôi dưỡng. Đảng được tập dượt và lãnh đạo,
quần chúng được tập dượt đấu tranh, sẽ không có thắng lợi của cách mạng tháng
Tám 1945. Đồng chí Lê Duẩn viết: "Thành công của Cách mạng Tháng Tám không
chỉ là kết quả trực tóêp của cao trào phản đế 1939 - 1945 mà còn là kết quả của hai
cuộc tổng diễn tập lần trước (cao trào cách mạng 1930 - 1931 và cao trào dân chủ
1936 - 1939) cộng lại".
+ Cao trào dân chủ 1936-1939 nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và nhân dân
ta, sau thời kỳ thoái trào, sau đợt khủng bố tào bạo của kẻ thù đã nhanh chóng khôi
phục được lực lượng và phát triển phong trào lên một quy mô mới.

+ Cao trào dân chủ 1936-1939, không phải là một cuộc vận động cải cách dân
chủ thông thường. Nội dung thực chất của của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, vì nó chống cả hai kẻ thù là đế quốc và phong kiến(nhưng tập trung
chống kẻ thù trực tiếp nhất là bọn phát xít và bọn phản động thuộc địa). Đó là nghệ
thuật đánh lui từng bứơc, đánh đổ từng bộ phận kẻ thù, giành thắng lợi từng bước
thích hợp cho cách mạng.
+ Cao trào dân chủ 1936-1939 đã đưa lại cho nhân dân ta những thắng lợi nhất
định, buộc giai cấp thống trị phải thực hiện ít nhiều tự do, dân chủ và cải thiện đời
sống cho nhân dân. Làm cho nhân dân càng tin tưởng và đoàn kết dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 14
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
+ Phong trào CM 1936-1939 một lần nữa, đã làm cho cán bộ và nhân dân ta
được tôi luyện vững vàng, có thêm nhiều kinh nghiệm, bài học quý, nhất là kinh
nghiệm kết hợp các nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài, nhiệm vụ dân tộc và
nhiệm vụ quốc tế; các bài học về sử dụng hình thức , các phương pháp để lôi cuốn
đông đảo quần chúng tham gia hoạt động đấu tranh; các bài học về liên minh tầng
lớp, các giai cấp, các tổ chức chính trị.
+ Thuận lợi lớn nhất qua phong trào dân chủ 36 -39 là: Quần chúng được tổ
chức và giác ngộ, cán bộ của đảng được tôi luyện và tích luỹ những kinh nghiệm.
Trong công tác xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
+ Qua thực tế phong trào đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm về đấu tranh công
khai, hợp pháp đạo đức C/trị, hoà bình về kết hợp mục tiêu C/lược lâu dài với nhiều
mục tiêu trước mắt.
+ Phong trào D/chủ 36-39 là một bộ phận của P/trào CM vô sản thế giới , đánh
giá về phong trào dân chủ 36-39 Lê Duẩn nói: "Không có thời kỳ vận động đấu
tranh dân chủ 36-39 thì sẽ không có CM tháng 8" => cao trào dân chủ 36-39 thực
sự là 1 cao trào CM vĩ đại, đây là 1 cuộc tổng diễn tập lần thứ 2 của Đảng và N/dân
ta. Chuẩn bị cho thắng lợi CM tháng 8 năm 1945.

3. Bài học kinh nghiệm
- Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương tích lũy được nhiều
bài học kinh nghiệm về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, kinh nghiệm tổ
chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp, kinh nghiệm đấu tranh
tư tưởng trong nội bộ Đảng và với các đảng phái chính trị phản động. Đồng thời,
Đảng thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc,
Có thể nói, phong trào dân tộc dân chủ 1936 -1939 như một cuộc diễn tập, chuẩn bị
cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 15
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
KẾT LUẬN
Phong trào 36-39 là cao trào đấu tranh vừa công khai vừa bí mật, vừa đấu tranh
trên lĩnh vực chính trị vừa đấu tranh trên lĩnh vực vũ trang, văn hóa Đây là nguồn
kinh nghiệm, là bài học để cách mạng tháng 8 đi đến thành công. Những bài học
được rút ra là đấu tranh chính trị phải kết hợp đấu tranh vũ trang, đấu tranh phải
biết lôi kéo toàn dân tham gia
Phong trào dân chủ 1936 – 1939 đã để lại bài học lịch sử sâu sắc cho Đảng cộng
sản Việt Nam trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong thời
kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Xây dưng và phát triển đất nước phải dựa trên
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Qua bài tiểu luận chúng ta đã hiểu thêm về những vấn đề dân tộc và sức mạnh
của toàn dân trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền cũng như trong giai
đoạn xây dựng và phát triển đất nước.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp đỡ chúng em hoàn thành bài tiểu
luận này. Trong quá trình làm tiểu luận không tránh khỏi những sai sót chúng em
rất mong được sự góp ý của cô và các bạn trong lớp.
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 16
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM

Ý KIẾN CỦA GVHD











DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
2. Cách mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
3. Tạp chí cộng sản
4. Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 17
Trường ĐH Công Nghiêp TP HCM
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Hoàn cảnh lịch sử 2
II. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng 3
III. Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 6
IV. Kết quả, ý nghĩa, bài học lịch sử của cao trào dân chủ 1936 – 1939 12
1. Kết quả 12
2. Ý nghĩa lịch sử 13
3. Bài học kinh nghiệm 15

KẾT LUẬN 16
GVHD: Đào Thị Phú Lớp: CDTN13TH
SVTH : Hoàng Thu Thảo Trang: 18

×