Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ là hàng hóa công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.2 KB, 27 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, vấn đề về hoàn thiện
và củng cố hệ thống tín dụng ngân hàng là một vấn đề hết sức quan trọng.
Mặc dù đã có những bước chuyển biến rất tích cực trong một số năm gần đây
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nhưng những ”rủi ro” tín dụng mất khả
năng thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá hối đoái…vẫn có thể xảy ra bất cứ
lúc nào gây tổn thất thậm chí dẫn đến phá sản cho tổ chức tín dụng. Để khắc
phục những rủi ro trên có rất nhiều các biện pháp khác nhau nhưng biện pháp
tốt nhất vẫn là bảo hiểm, nghĩa là chuyển rủi ro mà mình có thể gặp phải cho
tổ chức bảo hiểm.
Ở Việt Nam, Bảo hiểm tiền gửi đã được công khai với việc thành lập
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (7/7/2000). Mặc dù mới chỉ đi vào hoạt động
được hơn 7 năm, nhưng những vai trò to lớn mà nó đem lại cho nền kinh tế
nói chung, cho mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân là vô cùng to lớn. Bảo hiểm
tiền gửi bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền, duy trì sự
ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh
hoạt động ngân hàng.
Trong bài đề án môn học này em chỉ xin được đề cập vai trò của bảo
hiểm tiền gửi dưới góc độ là hàng hóa công. Do nguồn tài liệu còn hạn chế,
khả năng phân tích vấn đề chưa thực sự sắc bén nên bài viết còn nhiều thiếu
sót. Kính mong cô giáo xem xét và góp ý để bài viết của em được hoàn chỉnh
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô.

1
NỘI DUNG
I. Khái quát về hàng hóa công.
1.Khái niệm
Trong bất cứ nền sản xuất nào, hàng hoá cung cấp cho xã hội được
phân chia thành hai nhóm cơ bản là hàng hoá phục vụ nhu cầu chung của xã
hội và hàng hoá phục vụ nhu cầu của cá nhân. Sự phân biệt này tạo ra hai


phạm trù :
- Hàng hoá tư nhân là hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra để đáp ứng nhu
cầu cá nhân. Đây là hàng hoá và dịch vụ mà người này sử dụng thì
người khác không thể sử dụng được nữa. Với một người này dùng
nhiều thì người khác sẽ tiêu dùng ít đi. Ở chừng mực nhất định, tiêu
dùng của người này ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu dùng của người
khác.Ví dụ việc sở hữu và sử dụng xe ô tô, xe máy …, với một số
lượng người nhất định đã mua và sở hữu ô tô, xe máy thì những người
khác không thể mua và sử dụng chiếc xe ấy nữa.
-Hàng hoá công là hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra nhằm đáp ứng
nhu cầu của trong xã hội có thể sử dụng các hàng hoá dịch vụ này
chung với nhau, việc sử dụng của người này không ảnh hưởng đáng kể
đến việc sử dụng của người khác.Ví dụ đường sá, an ninh quốc phòng
…, mọi người đều có thể đi qua con đường, hay được đảm bảo an ninh
quốc phòng mà không ảnh hưởng đáng kể đến nhau.
2. Đặc điểm của hàng hoá công .
Một là, không có tính loại trừ trong tiêu dùng. Nó không phải được
dành riêng cho ai, không ai có quyền sở hữu cá nhân về hàng hoá ấy.Thật khó
để buộc mọi người phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hoá mà không
dành riêng cho mình, bởi vì nếu không trả tiền trực tiếp, họ vẫn có thể hưởng
thụ hàng hoá ấy .
2
Hai là, không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng:Việc sử dụng này
không ảnh hưởng đáng kể dến việc sử dụng của người khác, thêm một người
sử dụng hàng hoá công cộng không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những
ngưòi đang sử dụng.
Hàng hoá công chia làm 2 loại : Hàng hoá công thuần tuý và hàng hoá
công không thuần tuý.
Hàng hoá công thuần tuý có cả 2 thuộc tính trên.
Nhiều hàng hoá chỉ có một trong hai thuộc tính trên , ở những mức độ

khác nhau được coi là hàng hoá công không thuần tuý .Ví dụ có thể loại trừ
được nhưng không muốn loại trừ , hoặc việc loại trừ có thể thực hiện dược
nhưng tốn kém. Đó là những hàng hoá và dịch vụ dược cung cấp cho xã hội
theo nhiều phương thức khác nhau, có thể do các thành phần kinh tế khác
cung cấp. Hình thức khai thác, sử dụng rất khác nhau.
II. Bảo hiểm tiền gửi.
Khái niệm bảo hiểm tiền gửi: Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) là trách
nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi có kì hạn hoặc không
kì hạn. Như vậy bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm mà theo đó khi
các tổ chức nhận tiền gửi bị mất khả năng thanh toán, tổ chức bảo hiểm tiền
gửi sẽ đứng ra thanh toán một số tiền tối đa theo quy định của pháp luật cho
người gửi tiền tại tổ chức đó.
1. Những nội dung cơ bản của BHTG.
1.1.Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi :
Là một tổ chức tín dụng huy động tiền gửi. Bảo hiểm chỉ bảo hiểm
trách nhiệm của tổ chức tín dụng đối với các khoản tiền gửi của khách hàng,
có thể là có kì hạn hoặc không kỳ hạn. Nhưng nhìn chung hiện nay các tổ
chức tín dụng trên thế giới chủ yếu bảo hiểm cho các khoản vay có kì hạn vì
số tiền này ổn định và dễ tính phí.
3
1.2.Đối tượng bảo hiểm.
Đối tượng bảo hiểm là những tài sản có giá trị được gửi tại các tổ chức
tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
1.3.Phạm vi bảo hiểm.
1.3.1.Các rủi ro được bảo hiểm
Trong hoạt động ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tiền gửi nói
riêng, không phải mọi rủi ro đều được bảo hiểm, vì như vậy sẽ dẫn đến tình
trạng trục lợi bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm. Để tránh hiện tượng
này các tổ chức bảo hiểm đều quy định những rủi ro được bảo hiểm của
mình, và rủi ro được bảo hiểm của bảo hiểm tiền gửi bao gồm:

-Sự phá sản của tổ chức tín dụng: phá sản là trường hợp tổ chức tín dụng
không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc không thể kinh doanh vì bị thiếu
vốn. Trong trường hợp này công việc kinh doanh của tổ chức tín dụng
phải được giao cho ban thanh lý tài sản các tài sản còn lại theo đúng quy
định của luật về phá sản của Nhà nước.
- Sự giải thể bắt buộc của tổ chức tín dụng : giải thể bắt buộc là do không
tuân thủ các quy tắc, luật lệ của nhà nước hoặc có thể do củ nợ đề nghị toà
án ra lệnh tuyên bố giải thể vì quỹ tín dụng từ chối thanh toán và chỉ có
cách đó mới hi vọng th hồi được tiền.
- Phải chấp hành thanh lý vì một lý do khác với việc phá sản hay mất khả
năng thanh toán của tổ chức tín dụng: Trường hợp này xảy ra khi cơ quan
có thẩm quyền xét thấy tổ chức tín dụng này mặc dù vẫn có khả năng
thanh toán nhưng hoạt động không đúng mục đích đã đề ra , không muốn
toà án can thiệp mà quyết định thanh lý quỹ không cho tiếp tục hoạt động.
Trong trường hợp này bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường cho người gửi
tiền nhưng sẽ thế quyền để được hưởng sè tiÒn thanh lý tµi s¶n hay ®ßi nî.
4
- Giải thể tự nguyện do đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản
của tổ chức tín dụng: Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của tổ chức
tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã
áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn. Tuy nhiên, không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ
chấp nhận tuyên bố giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm cũng có
trách nhiệm bồi thường đối với những khoản tiền gửi có kì hạn mà tổ chức
tín dụng không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể .
- Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một
mệnh lệnh của toà án đối với tổ chức tín dụng: Xảy ra trong trường hợp tổ
chức tín dụng cố ý không thanh toán nợ và chủ nợ đệ đơn lên toà án để có
lệnh bắt buộc tổ chức tín dụng phải tuyên bố phá sản hay thanh lý để trả
nợ. Các chủ nợ cho rằng chỉ có cách này họ mới thu hồi được các khoản

nợ của mình. Lệnh của toà án cũng được áp dụng khi:
+ Tổ chức tín dụng không có phương án hoà giải và có giải pháp tổ chức
lại hoạt động kinh doanh của quỹ theo yêu cầu của toà án.
+ Tổ chức tín dụng không tham gia hội nghị chủ nợ để trình bày các
phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
tổ chức tín dụng.
+ Trong thời hạn tổ chức lại kinh doanh, tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm
trọng những thỏa thuận tại hội nghị của chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu
tuyên bố phá sản
+ Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà tổ chức tín dụng vẫn
kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu toà án phải có tuyên
bố phá sản tổ chức tín dụng.
5
1.3.2.Các rủi ro loại trừ:
Những loại rủi ro loại trừ là những rủi ro gây ra sự phá sản, thanh lý hay
giải thể tổ chức tín dụng trong cá trong trường hợp:
- Tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định về tiền tệ tín dụng,
thanh toán đã nêu trong Luật các tổ chức tín dụng: Tuy mỗi tín dụng có
điều lệ và quy chế hoạt động riêng nhưng cũng phải tuân thủ các quy các
hiện hành khác của Nhà nước. Nếu tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng
các quy định về tiền tệ, tín dụng, thanh toán của Ngân hàng dẫn đến phá
sản thì bảo hiểm không bồi thường.
- Tổ chức tín dụng giải thể tự nguyện vì cổ đông nhận thức thấy mục tiêu
khi thanh lập tổ chức tín dụng không đạt được hoặc cổ đông thu hồi lại
vốn vay có nhu cầu cải tổ lại cơ cấu của tổ chức tín dụng.
- Tổ chức tín dụng ngừng hoạt động do những nguyên nhân như chiến
tranh đình công, bạo loạn dân sự, nội chiến. Đây là những rủi ro loại trừ
không thông thường, không liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Khi tổ chức tín dụng bị phá sản, thanh lý, giải thể do các rủi ro này bảo
hiểm cũng không chịu trách nhiệm bồi thường cho những người gửi tiền

có kỳ hạn.
1.4. Số tiền được bảo hiểm và phí bảo hiểm.
1.4.1. Số tiền bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm là số dư tiền gửi có kì hạn trong báo cáo số dư tiền
gửi của mỗi quý của mỗi tổ chức tín dụng.
1.4.2.Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là số tiền tổ chức tín dụng phải trả cho người bảo
hiểm để bảo hiểm số dư tiền gửi có kì hạn của tổ chức tại thời điểm cuối
6
của mỗi quý. Phí bảo hiểm mà tổ chức tín dụng trả cho người bảo hiểm
theo từng quý được tính theo công thức:
P = x 90
Trong đó :
- P: Phí bảo hiểm theo quý
- m: Số dư tiền gửi có kì hạn
- R: Tỷ lệ phí bảo hiểm
- 90: Số ngày của một quý
- 365: Số ngày trong năm
Hiện nay trên thế giới áp dụng 2 nguyên tắc tính phí tiền gửi đó là:
Thứ nhất: Phí bảo hiểm tiến gửi đước áp dụng như nhau đối với các tổ
chức tín dụng, tức là tất cả các tổ chức tín dụng đều tính phí theo tỷ lệ như
nhau trên số dư tiền gửi được bảo hiểm mà không tính đến điều kiện, khả
năng tài chính, kết quả hoạt động và chung quy lại là mức độ rủi ro của các
tổ chức tín dụng khi tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phương pháp này có
nhiều ưu điểm trong triển khai nhưng cũng có những hạn chế nhất định.
Ưu điểm: Nhu cầu phải đánh giá chính xác tình hình hoạt động của tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi là không nhiết thiết. Ưu điểm này đã tạo điều
kiện thuận lợi rất lớn cho các tổ chức bảo hiểm, đặc biệt trong giai đoạn
đầu mới triển khai thực hiện bảo hiểm tiền gửi. Vì thế đa số các hệ thống
bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều khởi đầu bằng việc áp dụng đóng góp

tài chính theo tỷ lệ phí bảo hiểm đồng hạng.
Hạn chế: Tạo nên khả năng xảy ra các biểu hiện ỷ lại xét về góc độ
quản lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Đồng thời không có tác động khuyến khích các ngân hàng thi đua hoạt
động tốt, an toàn cao để đước áp dụng tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi thấp.
7
Thực tế hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên thế giới cho thấy, đối với hệ
thống bảo hiểm tiền gửi áp dụng tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng,
động lực thúc đẩy ngân hàng chấp nhận rủi ro cao hơn trong hoạt động
càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Thứ hai: Phí bảo hiểm tiền gửi được điều chỉnh theo mức độ rủi ro của
từng tổ chức tín dụng. Theo hình thức này, cơ chế để xác định tỉ lệ phí bảo
hiểm tiền gửi là kết quả phân loại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tổ
chức nào hoạt động với độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỉ lệ phí bảo hiểm tiền
gửi cao và ngược lại tổ chức nào hoạt động với mức độ rủi ro thấp sẽ được
áp dụng mức phí bảo hiểm tiền gửi thấp và có thể tiến tới mức là đước
miễn phí. Phương pháp này có những ưu điểm và hạn chế như:
Ưu điểm: Đưa ra được cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động bảo hiểm
tiền gửi.
Điều đó có tác động kích thích các ngân hàng thi đua trong hoạt động để
được đóng phí thấp và qua đó cũng tăng uy tín của ngân hàng mình. Hơn
nữa, hình thức này còn có tác dụng hạn chế rủi ro đạo đức phát sinh bởi vì
khi ngân hàng hoạt động bất cẩn, huy động vốn với lãi suất cao, đầu tư vốn
với độ rủi ro cao hơn…thì sẽ chịu tỉ lệ bảo hiểm tiền gửi sẽ là cao hơn.
Hạn chế: Xác định tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi một cách chính xác cho
từng tổ chức tha gia bảo hiểm tiền gửi là loại nghiệp vụ không đơn giản.
Muốn xác định tỉ lệ phí bảo hiểm tiền gửi phù hợp với từng khách hàng
đòi hỏi phải đánh giá chính xác hoạt động của từng khách hàng tham gia
bảo hiểm tiền gửi. Đây là công việc không đơn giản vì khó có thể đánh

giá chính xác mức độ rủi ro của từng tổ chức tín dụng, hơn nữa chi phí cho
việc thu thập thông tin và duy trì cơ chế xử lý thông tin để đánh giá mức
độ rủi ro đối với các tổ chức tín dụng là không nhỏ.
8
Mô hình thứ 2 là xu hướng theo đuổi của bảo hiểm tiền gửi. Song hiện
nay, hầu hết các nước vẫn đang áp dụng mô hình thứ nhất.
1.5.Giải quyết bồi thường.
Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, tổ chức tín dụng phải thông báo cho
người bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ sau:
- Giấy yêu cầu bồi thường;
- Giấy chứng nhận tham gia bảo hiểm
- Báo cáo thực trạng đến ngày xảy ra rủi ro;
- Lệnh của toà án, tuyên bố phá sản, quyết định giải thể hay thanh lý;
- Bản kê danh sách những người gửi tiền có hạn chưa được thanh toán
đến ngày xảy ra rủi ro;
- Bản kê khai chi tiết dư nợ cho vay tính đến ngày xảy ra rủi ro.
Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan đến việc trả tiền bồi thường cho
tổ chức tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuốc phạm vi bảo hiểm thì
bảo hiểm sẽ trả tiền cho người gửi tiền.
Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản tiền của khách đều được bảo hiểm
chi trả khi xảy ra rủi ro mà các công ty bảo hiểm thường giới hạn một mức
chi trả nhất định đó chính là số tiền bảo hiểm. Mức chi trả tiền bảo hiểm là
khoản tiền mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ thanh toán cho người bị chấm
dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Có hai
hình thức chi trả tiền bảo hiểm áp dụng ở các hệ thống bảo hiểm tiền gửi
trên thế giới:
- Chi trả toàn bộ số tiền gửi (cùng lãi) thuộc đối tượng được bảo
hiểm (chi trả không giới hạn)
- Chi trả theo hạn mức trả tối đa (chi trả có giới hạn). Nếu số dư tiền
gửi thuộc đối tượng bảo hiểm (bao gồm cả lãi cộng dồn) thấp hơn hoặc

9
bằng hạn mức tối đa thì người gửi tiền sẽ được hoàn trả toàn bộ tiền gửi
của họ. Ngược lại nếu số dư tiền gửi (gồm cả lãi cộng dồn) lớn hơn hạn
mức chi trả BHTG thì người gửi tiền được nhận khoản tiền bảo hiểm từ tổ
chức BHTG tối đa bằng hạn mức chi trả.
Tuy nhiên, hình thức chi trả có giới hạn được sử dụng phổ biến ở
các hệ thống BHTG trên thế giới có nhiều ưu việt so với chi trả không giới
hạn. Đặc biệt là ưu việt về khả năng thanh toán giảm thiểu rủi ro đạo đức,
phát triển kỷ cương thị trường BHTGVN ngay từ khi đi vào hoạt động
cũng đã áp dụng hình thức chi trả này.
2. BHTG dưới góc độ là hàng hóa công.
2.1.BHTG là hàng hóa hoá công.
Xuất phát từ mục đích của chính sách BHTG mà dịch vụ THBG được
coi là hàng hoá công.Tính chất công cộng của dịch vụ BHTG là chỗ BHTG
đáp ứng được nhu cầu chung của xã hội, tức là bảo vệ được quyền và lợi ích
hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín
dụng và bảo dảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Ai
cũng có quyền bình đẳng được tiếp cận đến loại hàng hoá và dịch vụ này,
việc người này sử dụng không ảnh hưởng nhiều đến người khác sử dụng
chúng.
Mục tiêu cơ bản của chính sách BHTG là nhằm góp phần đảm bảo sự
ổn định của hệ thống tài chính và bảo vệ các quyền lợi của người gửi tiền. Khi
có một ngân hàng bị phá sản, không có khả năng thanh toán, người gửi tiền
tại các tổ chức nhận tiền gửi tiền lo lắng, do thiếu thông tin, xảy ra hiện tượng
rút tiền ồ ạt ở các ngân hàng khác như một phản ứng dây chuyền, và là
nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ ngân hàng hàng loạt. Hiện tượng này gây ra
khủng hoảng ngân hàng và kéo theo ảnh hưởng lớn tới hệ thống tài chính và
sự bình ổn của xã hội. Để tránh xảy ra tình trạng rút tiền ồ ạt, một “phản ứng
quá đỗi” của khách hàng, BHTG đã ra đời.
10

×