Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài tiểu luận triết học : Phân ích và đánh giá tư tưởng nhân quyền trong triết học phương tây thời cận đại. Từ đó có suy nghĩ gì về nhân quyền trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.15 KB, 23 trang )


Nhúm 4 Lp K20Q Chuyờn ngnh: Qun lý chớnh
sỏch
1
Trờng Đại học Kinh tế Quốc Dân
Khoa sau đại học
========o0o========
Bài tiểu luận - Nhóm 4 lớp q20
Đề bài: Phân tích và đánh giá t tởng nhân quyền trong triết học phơng tây
thời cận đại. Từ đó có suy nghĩ gì về nhân quyền trong quá trình xây dựng
kinh tế thị trờng ở nớc ta.

Nhúm 4 Lp K20Q Chuyờn ngnh: Qun lý chớnh
sỏch
2
Trờng Đại học Kinh tế Quốc Dân
Khoa sau đại học
========o0o========
Bài tiểu luận - Nhóm 4 lớp q20
Đề bài: Phân tích và đánh giá t tởng nhân quyền trong triết học phơng tây
thời cận đại. Từ đó có suy nghĩ gì về nhân quyền trong quá trình xây dựng
kinh tế thị trờng ở nớc ta.
MỤC LỤC
Lời mở đầu……………………………………………………………………… 2
Chương 1: Tổng quan về nhân quyền và triết học phương Tây thời kỳ
cận đại……………………………………………………………………………… 3
1.1. Nhân quyền………………………………………………………………….
3
1.1.1. Khái niệm nhân quyền……………………………………………….
3
1.1.2. Nội dung của nhân quyền…………………………………………


3
1.2. Triết học phương Tây thời cận đại…………………………………… 4
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời triết học phương Tây thời cận đại………… 4
1.2.2. Đặc điểm triết học phương Tây thời cận đại……………………
5
1.2.3. Một số đại diện tiêu biểu của triết học phương tây thời cận đại. 6
Chương 2: Tư tưởng nhân quyền trong triết học phương tây thời kỳ cận
đại……………………………………………………………………………………. 7
2.1. Tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây thời cận đại…… 7
2.1.1 Phranxis Bêcơn (1561-1621)……………………………………… 7
2.1.2. Tômát Hôpxơ (1588-1679)…………………………………………. 8
2.1.3. Rơnê Đêcáctơ (1596-1654)………………………………………… 9
2.1.4. Giooc Beccơli (1685-1753)……………………………………… 10
2.1.5. Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII…… 11
2.2. Đánh giá chung về tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây
thời kỳ cận đại……………………………………………………………………12
Chương 3: Thực hiện nhân quyền trong xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam………………………………………………………… 13
3.1. Thực hiện nhân quyền trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam………………………………………………………………13
3.1.1. Nhân quyền Việt Nam trong lịch sử……………………………….13
3.1.2. Nhân quyền Việt Nam trong xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường…………………………………………………………………… 17
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
3
3.2. Đánh giá về việc thực hiện nhân quyền trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường ở Việt nam…………………………………………… 19
Kết luận…………………………………………………………………………… 21
LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay, vấn đề con người nổi lên ở vị trí trung tâm trong những suy
tư của nhân loại. Sự gia tăng ngày càng nhiều những quan điểm ngày càng
lớn về vấn đề con người, không chỉ từ phía các nhà khoa học mà cả từ phía
các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý… Đương
nhiên điều này gắn liền với vai trò quyết định của nhân tố con người trong
mọi lĩnh vực của sự phát triển của mọi hình thái xã hội.
Để có phương hướng nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề
liên quan đến con người, một điều kiện không thể thiếu là chúng ta phải nắm
được những quan điểm cơ bản về con người, quyền con người (nhân quyền).
Triết học nói chung và triết học phương Tây nói riêng cung cấp phương pháp
luận nghiên cứu con người và quyền con người. Triết học phương Tây là cái
nôi ra đời của tư tưởng nhân quyền và cũng là nơi mà vấn đề nhân quyền
được được đề cao và giải quyết có hệ thống. Chính vì vậy việc phân tích và
đánh giá tư tưởng con người trong triết học nhân bản phương Tây mà cụ thể
là thời kỳ cận đại giúp chúng ta có được một cái nhìn đúng đắn về con người
và quyền con người trong đời sống sản xuất và xã hội.
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ xây dựng và phát triển nền
kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu đặt ra là chúng ta
cần từng bước xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất đáp ứng được yêu
cầu của nền kinh tế thị trường trong đó người lao động là một bộ phận không
thể thiếu. Hơn bao giờ hết nguồn nhân lực “vừa hồng vừa chuyên” là yếu tố
chủ chốt, quyết định sự thành công hay thất bại của công cuộc xây dựng này.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
4
Việc nghiên cứu con người và nhân quyền trong triết học phương tây thời kỳ
cận đại sẽ giúp các nhà quản lý có cơ sở lý luận khoa học để đưa ra được các
chính sách và các quyết định đúng đắn trong việc vừa phát triển kinh tế vừa
đảm bảo đời sống của nhân dân.
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ NHÂN QUYỀN VÀ TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY THỜI CẬN ĐẠI
1.1. Nhân quyền
1.1.1. Khái niệm nhân quyền
Nhân quyền, hay quyền con người (tiếng Anh: Human rights) là những
quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ
chính thể nào.
Nhân quyền được xem là một trong mười sáng kiến làm thay đổi thế
giới, cùng với nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết
tiến hóa, World Wide Web, xà phòng, số không, và lực hấp dẫn.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đưa ra
một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các
chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà
Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo vệ các quyền
tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân hiển nhiên có do sự tồn tại của mình.
1.1.2. Nội dung của nhân quyền
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, Thomas Jefferson đã đưa ra
một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ. Các
chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản mà
Jefferson đã nêu, mà chính các chính phủ đó được lập ra để bảo vệ các quyền
tự do đó – các quyền mà mọi cá nhân hiển nhiên có do sự tồn tại của mình.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
5
Theo quan điểm của các nhà triết học thời đại khai sáng của thế kỷ 17
và 18 thì các quyền không thể tước bỏ được là các quyền tự nhiên do Tạo
hóa ban cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xã hội dân sự được
thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc
“chuyển nhượng” các quyền này.
Các quyền không thể tước bỏ bao gồm quyền được sống, quyền tự do

(các quyền tự do ngôn luận và thể hiện, quyền tự do tín ngưỡng và nhận
thức, quyền tự do lập hội) quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được bảo vệ
bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ các quyền mà các công
dân có được trong một nền dân chủ. Các xã hội dân chủ đồng thời thừa nhận
các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng, và còn lập nên các
quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải duy trì. Vì các
quyền này tồn tại không phụ thuộc vào chính phủ, do đó chúng không thể bị
luật pháp bãi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ý muốn nhất thời của đa số
cử tri nào đó. Ví dụ như điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Hoa
Kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay tự to báo chí cho dân chúng.
Điều sửa đổi bổ sung đó nghiêm cấm Quốc hội thông qua các luật vi phạm
tới tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội họp ôn hòa. Nhà sử học
Leonard Levy đã phát biểu: “Các cá nhân có thể tự do khi chính phủ của họ
không tự do”.
Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền
con người cần phải thay đổi tùy theo xã hội, nhưng tất cả các nền dân chủ
đều được giao trọng trách trong việc xây dựng các cấu trúc xã hội lập hiến,
lập pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó.
1.2. Triết học phương Tây thời cận đại
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời triết học phương Tây thời cận đại
Khác với thời kì Phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các
nước Tây Âu là thời kì giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi về chính trị
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
6
trước giai cấp phong kiến. Ba cuộc cách mạng tư sản lớn đã nổ ra và thành
công: Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI ; Cách mạng tư sản Anh
(1642-1648); Cách mạng tư sản Pháp (1789-1794).
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và trở thành

phương thức sản xuất thống trị, nó đã đặt ra những yêu cầu mới cho khoa
học và kỹ thuật phát triển.
Đây là thời kỳ khoa học tự nhiên bắt đầu phân ngành mạnh, hình thành
các bộ môn độc lập như toán học, vật lý, hóa học, sinh vật học,… Đặc trưng
của khoa học thời kỳ này là khoa học tự nhiên thực nghiệm, các tri thức khoa
học hầu hết là những sản phẩm của thực nghiệm, vì vậy dẫn tới thói quen
nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng tách rời, cô lập, không
vận động, không phát triển…
1.2.2. Đặc điểm triết học phương Tây thời cận đại
Chính điều kiện kinh tế - xã hội và khoa học tự nhiên thời cận đại quy
định đặc trưng về mặt triết học thời kỳ này. Triết học thời kỳ này có một số
đặc trưng sau đây:
• Thứ nhất, đây là thời kì thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ
nghĩa duy tâm. Chủ nghìa duy vật đóng vai trò chi phối nhưng không
triệt để. Hầu hết các tư tưởng mang tính “tự nhiên thần luận” và
“phiếm thần luận” .
• Thứ hai, chủ nghĩa duy vật thời kì này mang hình thức của chủ nghĩa
duy vật siêu hình, máy móc. Phương pháp siêu hình thống trị, phổ
biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.
• Thứ ba, đây là thời kì xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về
lĩnh vực xã hội, nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy
tâm trong việc giải thích xã hội và lịch sử. Những đặc điểm ấy thể
hiện rõ nét trong quan niệm của một số triết gia, điển hình như
B.Xpinôda, Ph.Bêcơn. T.Hôpxơ, R.Đêcactơ, G.Lamettri, Đ.Điđơrô,
P.Hônbách, G.G.Rutxô.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
7
• Thứ tư, trước sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng duy vật vô thần của
thời cận đại, chủ nghĩa duy tâm và thần học buộc phải có những cải

cách nhất định. Nhu cầu ấy được phản ánh đặc biệt trong triết học duy
tâm chủ quan của nhà triết học thần học người Anh G.Beccơli.
• Thứ năm, triết học thời kỳ này đề cao vấn đề nhân quyền và giải
phóng con người. Vấn đề nhân quyền được đặt ra và giải quyết một
cách có hệ thống, mạnh mẽ và sâu sắc.
Triết học phương Tây thời kỳ cận đại là thế giới quan của giai cấp tư
sản mới, một giai cấp cách mạng đấu tranh chống quý tộc và nhà thờ Cơ đốc
giáo cho nên nó đặc trưng của chủ nghĩa duy vật tiến bộ.
Bên cạnh đó sự phản kháng của nhà thờ Cơ đốc giáo và sự dung hòa về
lợi ích của hai giai cấp địa chủ và tư sản trong những cuộc cách mạng thiếu
triệt để ở Anh, Hà Lan làm cho chủ nghĩa duy tâm và các hình thực thần luận
hay phiếm thần luận tiếp tục tồn tại.
Ngoài vấn đề bản thể luận triết học thời kỳ này đặc biệt quan tâm đến
vấn đề nhận thức luận, vấn đề phương pháp nhận thức được ưu tiên phát
triển làm xuất hiện các đường lối duy cảm và duy lý. Phương pháp siêu hình
dần dần thắng thế phương pháp tư biện duy lý thời trung cổ.
1.2.3. Một số đại diện tiêu biểu của triết học phương tây thời cận đại
Thời kỳ cận đại có thể coi là thời kỳ phát triển rực rỡ cả về số lượng và
chất lượng của các nhà triết học phương Tây. Đây là thời kỳ “trăm hoa khoe
sắc” của triết học phương Tây. Đã có rất nhiều các tư tưởng triết học của các
nhà triết học ra đời và có giá trị. Một số đại diện tiêu biểu phải kể đến là:
Phranxis Bêcơn, Tômát Hôpxơ, Rơnê Đêcáctơ, Giooc Beccơli, các nhà triết
học khai sáng pháp,
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
8
CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG NHÂN QUYỀN TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY THỜI KỲ CẬN ĐẠI
2.1. Tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây thời cận đại

Vấn đề nhân quyền trong triết học phương Tây thời kỳ cận đại được
đề cập trong quan niệm về con người của các nhà triết học thời kỳ này. Vấn
đề này được đề cập xuyên suốt trong tư tưởng của các nhà triết học Anh –
Pháp thế kỷ XVII đến các nhà khai sáng Pháp thể kỷ XVIII. Ta nghiên cứu
vấn đề nhân quyền trong tư tưởng của một số đại diện tiêu biểu thời kỳ này
như: Phranxis Bêcơn, Tômát Hôpxơ, Rơnê Đêcáctơ, Giooc Beccơli, các nhà
triết học khai sáng pháp,
2.1.1 Phranxis Bêcơn (1561-1621)
Phranxis Bêcơn (Francis Bacon) là nhà triết học vĩ đại thời cận đại.
C.Mác coi Ph.Bêcơn là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực
nghiệm. Bắt đầu từ Ph.Bêcơn, lịch sử triết học Tây Âu bước sang một giai
đoạn phát triển mới với những màu sắc riêng.
Ph.Bêcơn sinh trong một gia đình quý tộc Anh. Sau khi tốt nghiệp
Trường Đại học Kembritgiơ, ông công tác nhiều năm trong ngành ngoại giao
cho vương triều Xtiua. Mặc dù sống ở nước Anh trước thời kì cách mạng tư
sản, nhưng Ph.Bêcơn là người nhiệt liệt ủng hộ những cải cách tư sản nhằm
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
9
phát triển đất nước, ủng hộ sự phát triển của khoa học và triết học. Những
tác phẩm lớn của ông là Đại phục hồi các khoa học (1605), Công cụ mới
(1620)
Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về
con người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về
con người, Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh
hồn động vật", "linh hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính,
có cả ở thực vật và động vật. Trong con người, linh hồn cảm tính là một
dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần
kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác quan, điều khiển chức
năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại cùng cơ thể

khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là
một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh.
Vì con người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật
lại vừa có cái gì đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép
con người theo lập trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để
vượt qua những lúc con người mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con
người niềm tin nhưng nhà thờ không được phép dùng các biện pháp chống
lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt động khoa học, nghệ thuật
của con người.
Nhìn chung, quan niệm trên của Ph.Bêcơn thể hiện sự thoả hiệp giai
cấp tư sản Anh thời đó với các vấn đề tôn giáo.
2.1.2. Tômát Hôpxơ (1588-1679)
Tômát Hôpxơ (Thomas Hobbs) là nhà triết học nổi tiếng, đại biểu của
chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII, người có công cụ thể hoá và phát triển
nhiều quan niệm duy vật của Ph.Bêcơn. Ông sinh trong một gia đình linh
mục ở nông thôn nước Anh. Ngay từ nhỏ ông đã học và thông thạo tiếng
Latinh và tiếng Hy Lạp cổ. Khi còn là sinh viên Trường đại học Tổng hợp
Ôxpho, ông tích cực nghiên cứu các vấn đề vật lý và lôgic. Trong thời gian
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
10
nổ ra cách mạng tư sản Anh (1642-1648), ông cùng nhiều bạn bè lưu vong
sang Pháp và nhiều nước khác. Đây là thời kì ông viết nhiều tác phẩm triết
học.
Theo T.Hôpxơ, vấn đề trung tâm của triết học là vấn đề con người.
Các tác phẩm Về con người (1658), Về người công dân (1642) của ông đều
bàn về vấn đề này. Từ việc coi con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa
là một thực thể đạo đức và tinh thần, ông chia triết học thành triết học tự
nhiên và triết học đạo đức, hay còn gọi là triết học xã hội.
Con người, theo T.Hôpxơ là một thực thể thống nhất giữa tính tự

nhiên và tính xã hội. Về bản tính tự nhiên, mọi người khi sinh ra đều như
nhau, sự khác nhau nhất định giữa họ không lớn. Nhưng con người ai cũng
có khát vọng và nhu cầu riêng của mình. Đây là tiền đề để con người làm
điều ác. Mỗi người đều ích kỉ, vì lợi ích riêng của mình mà có thể chà đạp tất
cả. "Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả chó sói, gấu và
rắn". Mỗi người hành động trước tiên là "vì tính ích kỉ yêu bản thân mình
chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của người khác". Vì thế mà
đẩy loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra bao nhiêu đau khổ và chết
chóc. Công lý và khoa học về pháp quyền, bởi vậy, luôn luôn bị bác bỏ bởi
những ngòi bút và thanh kiếm. Theo T.Hôpxơ, bản tính tự nhiên của con
người đó là tính ích kỉ; trạng thái xã hội mà con người sống là "một cuộc
chiến tranh của tất cả chống lại tất cả".
Tuy nhiên, theo T.Hôpxơ, "trạng thái tự nhiên" trên đây của con người
ngày nay không còn nữa; nó tồn tại một cách trọn vẹn ở thời nguyên thuỷ xa
xưa. Tư tưởng của T.Hôpxơ được Đácuyn áp dụng vào thế giới động vật và
phát hiện ra quy luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên của các loài
sinh vật. Sau đó những người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội truyền bá, áp
dụng trở lại xã hội.
Quam niệm của T.Hôpxơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng
riêng của loài người so với loài vật, chưa thấy được bản tính xã hội, tính
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
11
nhân loại của con người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất định: Một
mặt, nó cho thấy sự tương đồng nào đó giữa loài người và loài vật, mặt khác,
nó chỉ ra rằng, chính lợi ích của các cá nhân là một trong những động lực
trực tiếp của hoạt động của con người và phát triển của xã hội.
2.1.3. Rơnê Đêcáctơ (1596-1654)
Rơnê Đêcáctơ (Rene Descartes) là nhà triết học, nhà bách khoa toàn
thư vĩ đại người Pháp. Có thể nói, cùng với Ph.Bêcơn, "Đêcáctơ đã tạo ra

một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học" Tây Âu cận đại.
Rơnê Đêcáctơ sinh trong một gia đình quý tộc miền Nam nước Pháp.
Mồ côi mẹ từ nhỏ, ông được bố cho học ở một trường phổ thông nổi tiếng ở
Liaflet. Bất mãn với chương trình học thời đó, ông tuyên bố rằng, kết quả
duy nhất trong thời gian học phổ thông là làm cho ông dốt thêm! Ông đặc
biệt say mê nghiên cứu về triết học và khoa học tự nhiên. Ông để lại nhiều
tác phẩm nổi tiếng như Các quy tắc chỉ đạo lý tính (1630), Thế giới (1633),
Các nguyên lý của triết học (1644), Suy diễn về phương pháp (1637-1638).
R.Đêcactơ là nhà triết học nhị nguyên, chủ yếu bàn về nhận thức luận
và phương pháp luận và là người sáng lập chủ nghĩa duy lý.
R.Đêcactơ khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể
xác. Theo quan điểm nhị nguyên luận, ông hoàn toàn tách biệt thể xác và
linh hồn, coi chúng có nguồn gốc từ hai thực thể tư duy và quảng tính hoàn
toàn tách biệt. Ông coi linh hồn con người là một thực thể mà bản chất của
nó là tư duy, tồn tại không cần đến và không phụ thuộc vào bất kì một sự vật
vật chất nào. Linh hồn là bất diệt, nó không bị phân huỷ khi con người chết.
Con người có được là do Thượng đế ghép linh hồn vào thể xác. Cơ thể con
người là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta sống.
2.1.4. Giooc Beccơli (1685-1753)
Giooc Beccơli (George berkeley) là nhà triết học nổi tiếng người Anh,
đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông sinh trong một gia
đình quý tộc miền Nam Ailen. Năm 15 tuổi ông đã học tại Đại học Tổng hợp
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
12
Đublin. Ông say mê nghiên cứu thần học, toán học, triết học cho đến cuối
đời. Ông có nhiều tác phẩm như Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới
(1709), Khái niệm về các nguyên lý của nhận thức con người (1710)
Cũng như các nhà duy tâm khác, G.Beccơli quan niệm con người bao
gồm linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết định. Thể xác thuộc về các vật

thể tự nhiên, tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại được là nhờ linh hồn
cảm nhận nó. Thể xác phải tuân theo cái gậy chỉ huy của linh hồn.
Đối với linh hồn con người, G.Beccơli cho rằng, "tồn tại nghĩa là cảm
nhận". Có nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác mà
trước hết là cảm nhận thể xác của con người.
2.1.5. Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là một giai đoạn phát triển
quan trọng trong tiến trình phát triển tư tưởng triết học Tây Âu và thế giới.
Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII là sự kế tục và phát triển mới về chất
các khuynh hướng tư tưởng bài trừ siêu hình học thế kỉ XVII, cũng như đánh
giá lại các giá trị tuyền thống. Nó bắt đầu từ việc phê phán không thương
tiếc các quan niệm cũ về thế giới và con người.
Là vũ khí lí luận của giai cấp tư sản Pháp trong thời kì chuẩn bị cho
cuộc đại cách mạng tư sản Pháp 1789, được hình thành bởi các nhà Khai
sáng Pháp, triết học Khai sáng Pháp có nhiệm vụ thu hút, giác ngộ, tập hợp
đông đảo mọi tầng lớp tiến bộ trong xã hội, hướng họ tới cuộc đấu tranh
cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ tư sản. Chính vì vậy
mà triết học Khai sáng Pháp có nội dung cơ bản là duy vật, tiến bộ, nó đề
cập nhiều đến tiến bộ xã hội, tự do của con người
Cùng với sự hưng thịnh của văn hoá Pháp thời kì này, trên lĩnh vực tư
tưởng có nhiều nhà khai sáng, họ vừa là các nhà triết học, vừa là những
người uyên bác về nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Tiêu biểu là
Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689-1775), Phrăngxoa Mari Vônte (1694-1778),
Giăng Giắc Rutxô (1712-1778), Đeni Điđrô (1713-1784), Giulen Ôphrơ
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
13
Lamettri (1709-1751), Hônbách (1729-1789), Henvêtiúyt (1715-1771) Ở
đây chỉ đề cập đến tư tưởng triết học của các nhà duy vật vô thần Pháp mà
người giữ vai trò lãnh đạo là Đ.Điđrô.

Đ.Điđrô sinh tại một thành phố ở Đông Bắc nước Pháp, trong một gia
đình thợ thủ công. Sau nhiều năm học ở Pari, do chịu ảnh hưởng tư tưởng
của các nhà khai sáng, ông từ bỏ ý định thành nhà hoạt động tôn giáo, như
mong muốn của người cha. Ông là người khởi xướng và chủ biên bộ Bách
khoa toàn thư của khoa học, nghệ thuật và thủ công nghiệp (1751-1780).
Đây là một trong những bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của thế giới - một
trong những di sản văn hoá vĩ đại không chỉ của nước Pháp mà cả Tây Âu
thế kỉ XVIII nói chung. Nó có vai trò rất to lớn trong việc xây dựng và
truyền bá thế giới quan khai sáng. Ông có nhiều tác phẩm như Tư tưởng triết
học (1746), Cuộc dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax (1747), là
tác giả nhiều tác phẩm văn học mang đầy tính triết lý như Nữ tu sĩ, Người
cháu của ông Ramô
Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn.
Thể xác và linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn
gốc từ chúa mà là một tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó cũng là
đặc tính của vật chất. Ông viết: "Không có cơ thể con người thì nó (tức linh
hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định rằng, không có cơ thể con người thì
không thể giải thích được cái gì cả". Ông nhấn mạnh, cơ thể con người là khí
quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá trình tâm lý của anh ta.
Ông đã nhận thấy, nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh môi
trường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng, bản thân môi trường và hoàn
cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người. Và vì vậy, cả con người
lẫn hoàn cảnh sống của nó đều mang tính lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung
của các triết học trước Mác.
2.2. Đánh giá chung về tư tưởng nhân quyền trong triết học phương Tây
thời kỳ cận đại
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
14
Sau thời kỳ Phục hưng là thời kỳ Cận đại. Thời kỳ này khoa học tự

nhiên rất phát triển, đã có rất nhiều nhà khoa học đã dám đứng lên chống lại
hệ tư tưởng thống trị tôn giáo thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình để bảo
vệ khoa học. Đây là giai đoạn phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đang
dần thay thế phương thức sản xuất Phong kiến. Các cuộc cách mạng Tư sản
nổ ra ở khắp nơi và một trong các cuộc cách mạng triệt để nhất là cuộc cách
mạng Tư sản Pháp. Các nhà triết học Khai sáng thực hiện cuộc đấu tranh này
là J. Lamêtri, D. Điđrô, C. Henvêtiuýt, H. Hônbách. Họ xây dựng nên thế
giới quan vô thần, chống lại siêu hình học.
Theo các nhà triết học Khai sáng thì con người là một bộ phận của giới
tự nhiên, là một động vật suy nghĩ nhờ giác quan. Tư tưởng của con người
chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường
và điều kiện sống. Con người là một thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt thể
xác và linh hồn. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội nên cần
thay đổi hoàn cảnh xã hội, quan hệ phong kiến…Cơ sở để cải tạo cuộc sống
hiện tại, để vươn tới con người là lý tính. Lý tính của con người là sản phẩm
do sự tác động của vật chất đến các giác quan gây nên cảm giác. Cảm giác là
nguồn gốc của lý tính, lý tính của con người bắt nguồn từ kinh nghiệm.
Phương pháp để đạt tới lý tính là quan sát và thực nghiệm. Như vậy, các nhà
Khai sáng đấu tranh vì thắng lợi của “vương quốc trí tuệ” trên cơ sở tự do
chính trị, bình quyền. Các nhà Khai sáng coi đấu tranh vì quyền lợi mà
thiên nhiên ban tặng cho mình là “con người tự nhiên”. Việc tuyên truyền
cho “con người tự nhiên” dẫn đến khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” là
khẩu hệu phổ biến thời cách mạng Tư sản Pháp. Các nhà triết học Khai sáng
cho rằng bản tính con người là không ác và con người cần được giáo dục
đúng đắn có nghĩa là được khai sáng. Con người được giáo dục đúng đắn sẽ
trở thành “kẻ ích kỷ sáng suốt”với nguyên tắc của nó là “hãy tự lo liệu cuộc
sống cho mình và người khác cũng được sống”. Theo nguyên tắc này thì một
chế độ thích hợp sẽ là chế độ đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân,
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách

15
không phụ thuộc vào tầng lớp, dân tộc… Một chế độ như vậy sẽ mở ra khả
năng làm lợi cho mỗi người, ít bị đau khổ và thoả mãn một cách tối đa,
không làm thiệt hại tới những quyền lợi cá nhân của những người khác.
Tư tưởng nhân quyền xuất hiện rất phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại. Trong khi quan hệ sản xuất. Phong kiến không còn phù hợp thì sự
ra đời của phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa đã thay thế một cách hoàn
chỉnh. Tư tưởng nhân quyền cũng đã tạo ra một tiền đề vô cùng quan trọng
để thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa Tư bản. Như chúng ta đã
biết, một trong hai điều kiện để có được nền kinh tế thị trường đó là sự “tự
do”. Để có thể phát triển nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì tư
tưởng của các nhà Tư sản lúc bấy giờ là tìm cách giải phóng con người, giải
phóng sức lao động. Con người phải được tự do về thân thể, tự do đi lại, tự
do cư trú, tự do tín ngưỡng v.v… và được tự do bán sức lao động của mình.
Thời kỳ này quyền con người rất được đề cao. Điều này hoàn toàn phù hợp
với quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất thì nó sẽ mở đường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, còn nếu không phù hợp thì nó sẽ kìm hãm thậm chí còn đẩy lùi sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính nhờ sự phù hợp đó mà kinh tế Tư bản
chủ nghĩa thời kỳ này vô cùng phát triển.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
16
CHƯƠNG 3
THỰC HIỆN NHÂN QUYỀN TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
3.1. Thực hiện nhân quyền trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam
3.1.1. Nhân quyền Việt Nam trong lịch sử

Nhân quyền nếu hiểu theo nghĩa là quyền tự nhiên, là các quyền tự có
của mỗi cá nhân, không ai có thể ban cho hay tước đoạt thì đã tồn tại từ lâu
trong lịch sử Việt Nam. Bảo vệ nhân quyền và thực hành nhân ái là những
phẩm chất đã từng tồn tại hàng nghìn năm trong cuộc sống đời thường của
người Việt.
Trong lịch sử, người Việt Nam luôn phải đấu tranh giành quyền được
sống trong độc lập tự do (một nhân tố cơ bản trong nhân quyền), và xây
dựng cuộc sống nhân ái (yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa người và
người). Trong hiện thực xã hội Việt Nam, hai phạm trù nhân quyền và nhân
ái luôn gắn bó với nhau. Trong nhân quyền có nhân ái và ngược lại trong
nhân ái có nhân quyền. Một số ý kiến còn khẵng định rằng: "tổ tiên người
Việt chúng ta đã tiến gần những tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế ngày nay".
Trong thời kỳ cổ, đã có một số sự tích nói lên quyền tự do của con
người cho dù chỉ là manh nha như sự tích về Tiên Dung và Chử Đồng Tử nói
lên quyền tự do luyến ái của nam nữ, sự tích về Mai An Tiêm nêu lên quyền
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
17
và khát vọng tồn tại của người Việt cổ. Nhiều truyện cổ tích, thần thoại hay
truyền thuyết khác đều có nội dung ca ngợi quyền được sống, quyền tự do và
mưu cầu hạnh phúc của con người.
Trong thời kỳ phong kiến, ở một số triều đại nhất định, quyền con
người cũng được tôn trong và được pháp luật bảo vệ, điều này có thể ảnh
hưởng của triết lý Phật Giáo vốn thịnh hành vào thời kỳ phong kiến. Trong
luật pháp của Nhà Lê mà đặc biệt là Bộ Luật Hồng đức thì quyền bình đẳng
đã được quy định trong tương quan nam và nữ (các bà có quyền làm nữ
quan, với ưu đãi trong thủ tục thiết triều; vợ bình quyền với chồng về quyền
dân sự và tài sản, trách nhiệm dân sự ), trong tương quan giữa các chủng
tộc (người thiểu số được xét xử theo tục lệ của họ, được tự trị về hành
chánh) hay một số chính sách kinh tế xã hội: nhà nước có nghĩa vụ giúp

ngươi nghèo khó,tật nguyền, cô nhi, quả phụ về lương thực, nơi ở, thuốc
men; binh sĩ, tội nhân đang giam cầm, dân đinh đi sưu dịch cũng được săn
sóc Đó là những quy định bảo vệ quyền của phụ nữ, bảo vệ quyền sống đối
với người vô gia cư, người già, trẻ em (nhất là trẻ em gái), quyền được bảo
vệ thân thể… sớm hơn tư tưởng nhân quyền của nhiều quốc gia phương Tây.
Nhân quyền còn được thể hiện qua một số chính sách ngoại giao, đối xử
với tù binh chiến tranh của các triều đại phong kiến Việt Nam, ở triều Trần,
sau khi chiến thắng quân Nguyên - Mông, nhà Trần cũng đã tha cho nhiều tù
binh, hàng tướng về nước, bảo toàn mạng sống cho họ (trừ trường hợp của Ô
Mã Nhi), thời nhà Lê, thông qua hội thề Đông Quan, nghĩa quân Lam Sơn đã
tha bổng và tạo điều kiện cho quân Minh trở về nước an toàn với chủ trương
lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường đạo.[9] Thời
Tây Sơn, sau khi đánh thắng quân Thanh, Quang Trung đã cho phép trao trả
tù binh, thông thương giữa hai nước, cho Hoa kiềulập đền thờ các binh sĩ đã
tử trận (Đền Sầm Nghi Đống, Gò Đống Đa )
Một khía cạnh khác là quyền tự do thân thể, trong lịch sử, nên chế độ
chiếm hữu nô lệ đã không tồn tại sâu đậm trong dân tộc Việt Nam. Những
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
18
gia nô, nô tỳ tuy tồn tại đến tận thời Lý, Trần nhưng họ vẫn có thân phận con
người, có quyền sống và có cơ hội để thành đạt như Dã Tượng, Yết Kiêu,
từng là gia nô, trở thành danh tướng. Trần Hưng Đạo đã đề cao những con
người đại diện cho tầng lớp này. Năm 1292 vua Trần Nhân Tông đã ban
hành một đạo chiếu với nội dung “Những ngưòi mua dân lương thiện làm nô
tỳ thì phải cho chuộc lại". Năm 1401, nhà Hồ ban hành phép hạn nô, các quý
tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra (những nô tì không có chúc thư 3 đời) bị
sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Cho dù còn có những hạn
chế nhưng chính sách này đã góp phần làm giảm lượng người lệ thuộc trong
xã hội.

Có thể nói, Việt Nam tuy không phải là nơi sản sinh ra thuật ngữ nhân
quyền nhưng rất giàu truyền thống nhân đạo, nhân văn và khái nhiệm nhân
quyền đi liền với tinh thần nhân đạo, tình cảm yêu thương con người, tính
nhân nghĩa, nhân ái. Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình và các giá trị
nhân văn, cởi mở với sự đa dạng và dung hợp trong tiếp nhận giá trị từ bên
ngoài. Tư tưởng nhân quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần nhân đạo.
Điều này đã tồn tại từ rất sớm trong lịch sử thành văn của dân tộc.
3.1.2. Nhân quyền Việt Nam trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường
“Ôn cố tri tân”, nhìn lại lịch sử để rồi liên hệ và ứng dụng cho thực tiễn
của chúng ta hiện nay những giá trị của lịch sử. Nước Việt Nam ta đang
trong giai đoạn chuyển mình, xây dựng chủ nghĩa Xã hội có nền kinh tế phát
triển cao và toàn diện nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc
hậu. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu cho một xã hội tốt đẹp, dân
giầu - nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Qua hơn 20 năm đổi
mới chúng ta đã giành được rất nhiều những thành tựu kinh tế đáng kể, bộ
mặt của đất nước đã thay đổi từng ngày, đời sống của nhân dân ngày một
được nâng cao.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
19
Nhìn lại thời kỳ trước đổi mới (thời kỳ bao cấp). Chúng ta thực hiện
nền kinh tế tập trung bao cấp, ngăn sông cấm chợ, thị trường bị chia cắt,
không có sự thông thương giữa các vùng miền và điều đó đã đẩy nền kinh tế
Việt nam tới sự khủng hoảng nghiêm trọng. Tất nhiên cái gì cũng có tính hai
mặt của nó. Thực hiện cơ chế kinh tế này chúng ta đã huy động một cách tối
đa các nguồn lực cho việc giành lại độc lập và thống nhất đất nước và kết
quả không thể phủ nhận được là việc chúng ta đã đánh đuổi được hai thế lực
hùng mạnh bậc nhất thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành lại độc

lập và toàn vẹn lãnh thổ. Tuy vậy, cái gì cũng có cái giá của nó, nền kinh tế
Việt nam từ những năm 1980 cho đến trước đổi mới đã phải trải qua một giai
đoạn khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, tồi tệ. Cơ sở vật chất kỹ thuật
lạc hậu, chậm đổi mới, năng suất lao động thấp, lạm phát cao tới ba con số
làm cho đời sống của nhân dân rất khó khăn. Xã hội ẩn chứa và xuất hiện
nhiều thói hư tật xấu, các loại tệ nạn xã hội và lòng tin của quần chúng nhân
dân bị hao tổn .
Đứng trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới cơ
chế kinh tế, chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Giai đoạn này bắt đầu từ Đại hội VI tức là từ cuối năm 1986. Nền
kinh tế đã bước đầu tìm được quỹ đạo phát triển của nó là: Phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần (đây chính là tư tưởng tự do kinh tế). Thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần nhằm khơi dậy những tiềm năng mà
trước đó đã ngủ quên và huy động mọi nguồn lực, phát huy tối đa các ưu thế
của các nguồn lực để phát triển nền kinh tế mà đã. Một trong những tiềm
năng to lớn đó là tiềm năng về con người. Khi đã được cởi trói bỏi cơ chế,
được tự do trong tư duy, tự do tìm kiếm công việc thì các thành viên trong xã
hội sẽ phát huy được khả năng tìm tòi, sáng tạo cùng góp sức xây dựng nền
kinh tế, được tự do làm ăn buôn bán để làm giàu cho bản thân và cho xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 đã họp vào tháng 3 năm 1989, tổng kết 2 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tìm ra những chỗ đúng, sai và đã đưa ra
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
20
một quan điểm mới trong quản lý kinh tế; thừa nhận cả nước chỉ có một thị
trường thống nhất do nhiều lực lượng kinh tế thuộc các thành phần cùng
tham gia. Cả nước chỉ có một thị trường nên chỉ có một cơ chế giá là giá
thỏa thuận, giá kinh doanh.
Như vậy nhờ có chính sách đúng đắn mà chúng ta đã từng bước vượt
qua được khó khăn, đưa nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định trong

những năm qua. Vậy chính sách đúng đắn đó là cái gì? Đó chính là tư tưởng
nhân quyền triết học phương Tây đã đề cập đến từ thời Cận đại.
3.2. Đánh giá về việc thực hiện nhân quyền trong xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường ở Việt nam
Sau năm 1975 và đến trước 1990, vấn đề nhân quyền của Việt nam
tương đối nhức nhối, đặc biệt là đối với một số tầng lớp dân ở miền Nam
Việt nam, dẫn tới hàng triệu người bỏ nước tị nạn. Năm 1986, Việt Nam bắt
đầu quá trình Đổi mới, hội nhập với thế giới. Việt Nam ký kết các hiệp ước
về quyền con người khi tham gia vào các tổ chức quốc tế và theo đó lần lượt
thay đổi các chính sách nhân quyền của mình.
"Hiến pháp Việt Nam bảo đảm mọi công dân có quyền bình đẳng về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động,
học tập, chăm sóc sức khỏe không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo."
Tuy nhiên một số tổ chức nước ngoài lại cho rằng có khoảng cách xa giữa
những điều ghi trong hiến pháp và thực tế. Tuy nhiên, việc thực hiện các
quyền này bị cắt giảm, thậm chí vô hiệu hóa, bởi hệ thống quy định pháp
luật để đảm bảo "các chính sách và lợi ích của Quốc gia”.
Trong báo cáo năm 2009, Tổ chức UNPO nói rằng nhìn chung, mặc dù
vẫn còn nhiều bất cập trong thực hiện nhưng chính quyền Việt Nam nên
được khen ngợi vì đã đưa một số quyền cơ bản như tự do tôn giáo vào trong
hiến pháp quốc gia và đã phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền con người.
Đề cập tới tự do kinh tế, báo cáo viết ""Nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao và ổn định, bình quân 7,5%/năm. Các thành phần kinh tế
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
21
được khuyến khích phát triển, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế,
đặc biệt trong vấn đề tạo việc làm và cải thiện đời sống của người dân."
Báo cáo cho rằng Việt Nam đã đạt được sự phát triển nhanh chóng, đa
dạng về các loại hình thông tin đại chúng, đời sống tín ngưỡng sinh động và

phong phú trong xã hội Việt Nam, cũng như việc đảm bảo quyền của phụ nữ,
trẻ em và người tàn tật.
Tháng 8 năm 2010, Chính phủ Việt Nam lần đầu tiên cho phép một
đoàn chuyên gia độc lập của Liên Hợp Quốc được vào nghiên cứu về quyền
con người, sau nhiều năm từ chối. Việt Nam từng tuyên bố: “Không cho
phép bất cứ cá nhân và tổ chức đến để điều tra tự do tôn giáo hay quyền con
người” (theo Báo cáo Liên hợp quốc). Chuyên gia độc lập của Liên hợp quốc
sau cuộc điều tra nói Việt nam còn phải làm nhiều để cải thiện đời sống nhân
dân.
Chính phủ không cho phép tư nhân tham gia hoạt động một số lĩnh vực
(nhập khẩu xăng dầu, truyền tải điện). Chính phủ kiểm soát giá xăng dầu,
điện.
Không giống như đa số các quốc gia trên thế giới, người dân không có
quyền sở hữu đất đai. Hiện tại, ngay bản thân một số báo chí trong nước
cũng kêu gọi thay đổi hiến pháp công nhận quyền sở hữu đất đai.
Tình trạng tham nhũng, cửa quyền còn rất nặng nề, ảnh hưởng tới sự
tiếp cận công bằng đối với các cơ hội kinh doanh. Kinh doanh ở Viêt Nam
quan trọng cần quan hệ. Bất công bằng trong xã hội ngày càng lớn.
Trong báo cáo của mình giải trình tại Hội thảo của Hội đồng liên hợp
quốc về nhân quyền, Việt Nam đã liệt kê những thành quả đã đạt được cũng
như các mặt chưa đạt được trong vấn đề nhân quyền của Việt Nam.
Tuy nhiên báo cáo cũng thừa nhận ở Việt Nam vẫn còn những bất cập,
khó khăn tồn tại cần giải quyết, trong đó hệ thống pháp luật còn thiếu đồng
bộ, có chỗ còn chồng chéo mâu thuẫn, chưa theo kịp thực tiễn, dẫn đến khó
khăn, thậm chí hiểu sai làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính hợp hiến, tính
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
22
khả thi và minh bạch trong qua trình đảm bảo quyền con người. Hội đồng
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã thông qua báo cáo này của Việt Nam. Báo

cáo cũng được các nước đánh giá cao.
KẾT LUẬN
Triết học phương Tây thời cận đại đề cao quyền con người, nó chỉ ra
những điểm phù hợp khi xuất hiện nhân quyền. Con người được tự do về cả
thể xác và tinh thần, tự do tư duy, tự do học hỏi và tự do lao động. Tư tưởng
nhân quyền thúc đẩy con người phát triển là nên tảng vững chắc cho qua
trình xây dựng kinh tế xã hội. Trong xã hội hiện nay con người là nhân tố
trung tâm, nhân tố quyết định tương lai của nền kinh tế và xã hội.
Nhóm 4 Lớp K20Q Chuyên ngành: Quản lý chính
sách
23

×