Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ nôm nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.49 KB, 92 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM




DƢƠNG VĂN HOÀNH




HIỆN TƢỢNG ĐẶC THÙ TRONG NGHỆ THUẬT
GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN








Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHAM




DƢƠNG VĂN HOÀNH



HIỆN TƢỢNG ĐẶC THÙ TRONG NGHỆ THUẬT
GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI


Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học :TS. Phạm Thị Phƣơng Thái



Thái Nguyên, năm 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc và tình cảm chân thành, tác giả xin trân trọng
cảm ơn Khoa Ngữ Văn, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên - Đại hoc Thái Nguyên cùng các thấy, các cô đã tham gia trực tiếp
giảng dạy và đóng góp ý cho tác giả trong suốt quá trình học tập , nghiên cứu
khoa học và hoàn thành Luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng kính trong và biết ơn sâu sắc đối
với TS. Phạm Thị Phương Thái, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ tác giả nghiên cứu hoàn thành Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn những ngươi thân trong gia đình, bạn bè đã
động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành khóa học.
Mặc dù tác giả đã có nhiều sự cố gắng, nhưng luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô
và bạn bè đồng nghiệp quan tâm đến Luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2012
Tác giả



Dƣơng Văn Hoành


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2

3. Đối tượng và phạm vi nói chung 7
4. Mục đích nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Kết cấu đề tài 8
NỘI DUNG 9
Chƣơng 1: NGUYỄN TRÃI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 9
1.1. Con người và thời đại Nguyễn Trãi 9
1.1.1. Con người 9
1.1.2 Thời đại 13
1.2 Khái niệm về tính dân gian và tính hiện đại. 16
1.2.1. Tính dân gian 16
1.2.2. Tính hiện đại 17
1.3. Nguyên tắc gieo vần trong thơ Việt 22
Chƣơng 2: TÍNH DÂN GIAN TRONG NGHỆ THUẬT GIEO
VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI 26
2.1. Hiện tượng bắt vần trong câu 26
2.1.1. Khảo sát, thống kê 26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.1.2. So sánh lối gieo vần trong câu với thói quen diễn đạt trong
dân gian. 30
2.1.3. Hiệu quả của lối gieo vần trong câu trong QATT 31
2.2. Tiếng cuối câu trên bắt vần tiếng câu dưới ở vị trí tiếng thứ1-6 35
2.2.1 Khảo sát thống kê 35
2.2.3. Giá trị, hiệu quả. 43
Chƣơng 3: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT GIEO
VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI 52
3.1. Gieo vần trái thanh điệu (hài âm) trong một dòng thơ 52
3.1.1. Khảo sát, thống kê 52

3.1.2. Nét độc đáo trong câu thơ sử dụng hiện tượng hài âm. 54
3.2. Gieo vần từ câu trên xuống câu dưới theo nguyên tắc hài âm. 63
3.2.1. Thống kê, phân loại 63
3.3. Liên hệ giữa lối hài âm trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Việt
Nam hiện đại. 66
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Quốc âm thi tập là tập thơ đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ của ta, cổ nhất,
chính xác nhất còn lại cho văn học Việt Nam. Với tập thơ Nôm này,
Nguyễn Trãi được đánh giá là “vĩ nhân… có một vị trí cao trong bảo tàng
văn học Việt Nam, đó là một nhà thơ mở đầu thơ cổ điển Việt
Nam[16.587- 638]. Bởi đây là một tập thơ có giá trị lớn cả về nội dung tư
tưởng và nghệ thuật. Cho đến nay giá trị của Quốc âm thi tập vẫn cần tiếp
tục được khẳng định trên nhiều phương diện, góc độ.

Nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi có vai trò quan
trọng trong nghệ thuật Quốc âm thi tập nói riêng và nền thơ dân tộc viết
bằng tiếng Việt nói chung. Cách gieo vần, ngắt nhịp biến tấu linh hoạt tạo
cho thơ Nôm Nguyễn Trãi đa phần có nhịp điệu tự do, uyển chuyển. Quốc
âm thi tập vì thế, đã tránh được đơn điệu, gò bó - điểm hạn chế của thơ
Đường luật và trở thành bản nhạc đa thanh phù hợp với cảm xúc trầm
bổng khi chân chất, hồn nhiên khi tân kì, sâu sắc của tác giả. Ngoài lối
gieo vần thông thường của thơ Đường luật, Quốc âm thi tập sử dụng
những lối gieo vần có tính chất “phá cách”, vừa mang tính chất dân gian
vừa có nét hiện đại. Có thể xem, những kiểu gieo vần đó như minh chứng
để khẳng định tài năng sáng tạo và ý thức khát khao xây dựng cho dân tộc
một lối thơ riêng.
Khám phá hiện tượng đặc thù của nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm
Nguyễn Trãi, để qua đó thêm một lời khẳng định giá trị nghệ thuật của tập thơ
và vị thế của Nguyễn Trãi trên thi đàn dân tộc là mong muốn của đề tài này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
1.2. Lý do thực tiễn
Nguyễn Trãi với các di sản tư tưởng, văn hoá đã được sưu tầm, phân tích
đánh giá khá là đầy đủ, đã thu hút được sự quan tâm đông đảo của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước tham gia.Chúng ta có thể nhận thấy và khẳng
định rằng Nguyễn Trãi có sự ảnh hưởng và một địa vị rất lớn trong đời sống văn
hoá của dân tộc. Vì vậy các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi, trong đó có thơ
Nôm đã được giới thiệu rộng rãi, được đưa vào trong các trường phổ thông,
chuyên nghiệp học tâp ngày càng nhiều, cũng như là nguồn đề tài phong phú cho
hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học có giá trị cao.
Với những lí do kể trên, việc thực hiện đề tài “Hiện tượng đặc thù
trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi’’ là một trong những cách để

tiếp cận tri thức, rèn luyện khả năng tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa
học. Đồng thời giúp cho người thực hiện đề tài có thêm những hiểu biết nhất
định về thơ Nôm Nguyễn Trãi - một tác phẩm lớn được giới thiệu và tuyển
chọn trong chương trình giảng dạy các cấp, các bậc học hiện nay. Chúng tôi
hi vọng công trình sẽ đóng góp tích cực vào quá trình giảng dạy và học tập
thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tính đến nay, lịch sử nghiên cứu Quốc âm thi tập đã có một bề dày.
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện
tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng chưa có
là bao. Có thể kể đến một số công trình, bài viết tiêu biểu của các tác giả như
“Âm vang tục ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” của
Bùi Văn Nguyên, “Hành văn trong thơ Nguyễn Trãi” của Xuân Diệu, “Cống
hiến của Nguyễn Trãi với tiếng Việt” của Hoàng Tuệ, “Nguyễn Trãi và thể thơ
Việt Nam trong Quốc âm thi tập” và “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam” của Phạm Luận, “Một bản lĩnh thơ dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
tộc” của Minh Hiệu, Luận văn tiến sĩ của Phạm Thị Phương Thái “ Ngôn ngữ
và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” Song, chúng tôi nhận
thấy, do mục tiêu nghiên cứu khác nhau nên việc tìm hiểu, khai thác và đánh
giá về tính dân gian và tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm
Nguyễn Trãi còn thiếu tính cụ thể và chưa mang tính hệ thống.
Bùi Văn Nguyên với bài viết của mình đã có nhận định và chứng minh
của mình để thấy được tục ngữ và ca dao được sử dụng trong Quốc âm thi tập
khá nhuần nhuyễn, tác giả viết “Có thể nói yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà
trong nhiều câu, nhiều bài thơ quốc âm của Ức Trai tiên sinh.Tiếng nói của tổ
tiên ta được truyền lại gần như nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế

hệ…chính nhờ Nguyễn Trãi ghi lại một số câu tục ngữ ca dao trong thơ quốc
âm của mình mà chúng ta có được cái mốc lịch sử chắc chắn để tìm hiểu một
số dạng tục ngữ ca dao với ý nghĩa lịch sử của nó”[62.807]. BùiVăn Nguyên
đã có thống kê, đối chiếu khá cụ thể, từ đó ông đi đến kết luận cách khai thác
vốn cổ trong tục ngữ, ca dao của Nguyễn Trãi cũng linh hoạt, sáng tạo có chỗ
như “lẩy” có chỗ như “tập” có chỗ như “phỏng”có chỗ lấy ý mà từ có bổ
sung, hay có chỗ lấy từ mà ý bổ sung[62.812].
Tác giả Bùi Văn Nguyên còn dẫn ra một loạt các ví dụ về cách sử dụng
tục ngữ khi sáng tác thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Thí dụ, ông cho rằng Nguyễn
Trãi đã lấy trọn vẹn cả từ lẫn ý câu tục ngữ “giầu người hợp, khó người tan”
để lấy đó làm câu phá đề cho bài Bảo kính cảnh giới 12 như sau:
Giàu người họp, khó người tan
Hai lấy hằng lề sự thế gian…
Hay trong một bài thơ khác, bài Bảo kính cách giới số 30 Bùi Văn
Nguyên đã cho rằng câu tục ngữ khá dài: “khôn cho người ta dái, dại cho
người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét” đã được Nguyễn Trãi
cắt thành hai câu :

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chẳng khôn chẳng dại luống ương ương,
Chẳng dại người hoà lại chẳng thương…
Ông cho rằng ở 2 câu này Nguyễn Trãi sử dụng 2 vần “ương” và “
thương” được rút ra từ câu tục ngữ. Có thể rút ra rằng, tác giả Bùi Văn
Nguyên quan tâm chủ yếu đến mối quan hệ ảnh hưởng của văn vần dân gian
và thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trường hợp ông quan tâm đến cũng chỉ mới là một
ví dụ làm rõ hơn về mối quan hệ đó mà thôi. Những nhận định này của Bùi
Văn Nguyên cần phải bàn thêm. Bởi cho đến nay những câu tục ngữ, ca dao
lấy ra để so sánh với thơ Nôm Nguyễn Trãi ra đời vào khi nào? Vì vậy mà

không biết rằng Nguyễn Trãi đưa tục ngữ, ca dao vào trong thơ mình hay là từ
thơ ông mà đưa ra cuộc sống để trở thành tục ngữ, ca dao tạo thành nguồn
vốn của dân gian.
Xuân Diệu với “Hành trang trong thơ Nguyễn Trãi”đã nghiên cứu cấu
trúc và cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Trãi trong thơ Nôm. Tác giả bài viết
đã rút ra rằng cách dùng từ đặt câu của Nguyễn Trãi chân phương, đưa vào
thơ nhiều Nôm nhiều từ ngữ sáng tạo, sinh động và tinh tế…
Ở một bài khác, bài “Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ Việt
Nam”, đã bình khá sắc sảo về trường hợp gieo vần trong bài Bảo kính cảnh
giới số 22 của Nguyễn Trãi.Ông viết như sau: “bản lĩnh của Ức trai có cái
chất cứng, rất cứng. cái cứng ấy lộ ra trong văn của câu thơ, nếu chẳng hạn
nói “khó khăn trọn nghĩa, cháo càng ngon” thì cũng là một câu giáo huấn
bản thân mình , đặt cá tính của mình vào: “Khó khăn phải đạo, cháo càng
ngon”; láy tiếng đặt các vần trắc lặp lại ở giữa câu, làm cho nó cứng cỏi,
cương quyết, hai lần khẳng định[16.601]. Lời bình của Xuân Diệu làm nổi bật
loại gieo vần ở giữa câu – gieo đúng vào vị trí ngắt nhịp. Ông còn tinh tế nhận
ra đó là vần trắc, loại vần rất hiếm gặp trong thơ Đường luật và ông cho rằng
chính lối gieo vần này đã làm lên bản lĩnh cứng cỏi của Nguyễn Trãi trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
thơ Nôm. Như vậy Xuân Diệu đã tìm hiểu về gieo vần trong Quốc âm thi tập.
Tuy nhiên, thì việc tìm hiểu cũng chỉ mới dừng lại ở một trường hợp cụ thể
khi xem xét nhiều vấn đề thuộc nội dung tư tưởng của tập thơ mà thôi.
Hoàng Tuệ cũng đã nói đến bản lĩnh và cống hiến của Nguyễn Trãi đối
với tiếng Việt, Hoàng Tuệ khẳng định Quốc âm thi tập là biểu hiện một tư
tưởng chính trị, một ý chí đấu tranh. Nhưng tập thơ còn biểu hiện những vấn
đề của tiếng Việt sáu thế kỉ trước đây, và bản lĩnh ngôn ngữ của Nguyễn Trãi
trước những vấn đề ấy. Bản lĩnh ấy rất tích cực và đó là mặt khác trong cống

hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt.[72.818]. Từ đó Hoàng Tuệ đã chỉ ra
hiện tượng đáng ghi nhận về mặt ngôn ngữ trong Quốc âm thi tập : Bộ phận
từ vựng Việt- kể cả những từ gốc Hán đã đồng hoá từ lâu đời - chiếm vị trí
nổi bật. Ngữ pháp cũng là Việt; tục ngữ rõ ràng được quý chuộng. Về chất
liệu Hán trong Quốc âm thi tập, Hoàng Tuệ cũng phân tích kĩ để thấy được vì
sao một người như Nguyễn Trãi, một người đang muốn thử nghiệm làm giàu
đẹp tiếng Việt lại dụng nhiều tiếng Hán…Song dù Nguyễn Trãi có sử dụng
nhiều từ vựng Hán nhưng Hoàng Tuệ vẫn đánh giá sự cống hiến của Nguyễn
Trãi rất cao: cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, đó là cống hiến
thật to lớn…Nguyễn Trãi , người mở đầu gian khổ và xuất sắc sự nghiệp lớn
lao về tiếng Việt Văn học…[72.826].
Hoàng Hữu Yên đã chỉ ra rằng:“khả năng biểu đạt trong thơ Nguyễn
Trãi đạt đến vẻ đẹp tinh vi, tế nhị, kho từ thuần Việt phong phú, đa dạng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò của mình trong lịch sử ngữ âm, lịch sử từ
vựng, lịch sử ngữ pháp tiếng Việt.
Phạm Luận với hai bài viết “Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong
Quốc âm thi tập và “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và
thi pháp Việt Nam”.Trong Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm
thi tập, Phạm Luận đã chỉ ra: thể thơ của Quốc âm thi tập tuy có làm theo quy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
cách thơ Đường luật. Song số bài hoàn toàn theo quy cách thơ Đường luật
thực sự không nhiều, số lớn bài thơ đều ít nhiều viết khác niêm luật thơ
Đường.[54.839-840].
Theo Phạm Luận, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều câu thơ bảy chữ, cách
ngắt nhịp phổ biến 3/4 (lẻ trước chẵn sau) nó khác với cách ngắt nhịp phổ
biến 4/3 (chẵn trước lẻ sau) trong thơ Đường luật. Nguyễn Trãi cũng sử dụng
vần lưng.Việc dùng câu sáu không cố định nhiều khi dẫn đến thất niêm, điều

đó cho thấy sự phóng túng của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng cách điệu thơ
Đường Luật. Pham Luận đã phân tích, chứng minh rất tỉ mỉ, thấu đáo để rút ra
kết luận: “Quá trình sáng tác thơ bằng tiếng Việt, Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu
sắc thi pháp luật Đường như thế nào. Nhưng điều đáng chú ý hơn là từ những
tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc này, Nguyễn Trãi đã có “một cố
gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam ở giai đoạn chữ Nôm mới bắt đầu
hình thành và phát triển” [55.856]. Phạm Luận còn phát hiện ra sự sáng tạo
của Nguyễn Trãi về cách gieo vần lưng đã thể hiện bước mở đầu trong quá
trính xây dựng thi pháp Việt Nam.
Trong “Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời( lục ngôn) xen bảy lời
trong Quốc âm thi tập”, NgôVăn Phú cho rằng thể thơ thất ngôn và lục
ngôn có từ thời Trần, Nguyễn Trãi đã “đóng góp lớn cho thể thơ này định
hình và tồn tại”.
Từ những bài chính nói về thể thơ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi
thấy các tác giả đều đánh giá đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi trong việc
định hình và khẳng định một thể thơ dân tộc. Tuy nhiên do sự biến thiên thời
gian, do các tài liệu lưu lại không còn đầy đủ, các tác giả cũng mới chỉ dừng
lại ở đó và câu giải đáp vẫn còn ở phía trước cần được tìm hiểu thấu đáo hơn.
Tuy “Hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm
Nguyễn Trãi” mới chỉ “thấp thoáng” trong các công trình nghiên cứu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
trên, nhưng nó là sự gợi dẫn quý báu giúp chúng tôi tìm hiểu một cách cụ
thể hơn, hệ thống hơn về nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
Từ đó thấy được sự đóng góp to lớn của tác giả đối với sự ra đời của thể
loại thơ Nôm Đường luật nói riêng và tiến trình phát triển của nền văn học
nước nhà nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của công trình là phương diện thể hiện
Hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần trong Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- 254 bài thơ Nôm trong Quốc âm thi tập“Nguyễn Trãi toàn tập tân
biên”, Trung tâm nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2000.
- Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát một số tác phẩm thơ ca dân gian, văn
vần dân gian và văn thơ trung đại, một số nhà thơ hiện đại để so sánh và đối
chiếu khi cần thiết .
4. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện đề tài này là nhằm hệ thống những phương diện
thể hiện tính dân gian và tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm
Nguyễn Trãi. Với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài như vậy
chúng tôi thực hiện đề tài nhằm những mục đích sau:
- Tìm và phát hiện ra những nét độc đáo trong nghệ thuật gieo vần của
thơ Nôm Nguyễn Trãi và những hiệu quả biểu đạt của lối gieo vần ấy. Qua
tìm hiểu lối gieo vần trong thơ Nôm của ông để thấy được một phần tài năng
và qua đó góp phần một lần nữa khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Trãi
trong quá trình xây dựng và phát triển của thi pháp thơ ca Việt nói riêng và
nền văn họcViệt Nam nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Hy vọng rằng với kết quả tìm hiểu một vấn đề có thể coi là mới này sẽ
đóng góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào trong quá trình nghiên cứu và học tập
cũng như giảng dạy thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt mục tiêu đặt ra của đề tài. Trong quá trình thực hiện

chúng tôi tiến hành những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tạo cơ sở lý luận vững chắc, đảm
bảo tính khoa học, tính chính xác cho đề tài.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Cụ thể hóa từng đối tượng phân tích
chi tiết. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận tổng hợp về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê phân loại: Để làm căn cứ cụ thể giải quyết một
cách triệt để mục tiêu của công trình nghiên cứu đó là nghệ thuật gieo vần
trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.
- Phương pháp so sánh: Để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự
tiếp nối cũng như tính sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Luận văn gồm
ba phần:
Chƣơng 1: Nguyễn Trãi và một số vấn đề liên quan đến đề tài
Chƣơng 2: Tính dân gian trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm
Nguyễn Trãi.
Chƣơng 3: Tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm
Nguyễn Trãi





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1.1. Con ngƣời và thời đại Nguyễn Trãi
1.1.1. Con ngƣời
Nguyễn Trãi(1380- 1442), hiệu Ức Trai, quê ở Xã Chi Ngại, Lộ Lạng
Giang( nay thuộc Huyện Chí Linh,Tỉnh Hải Dương). Về sau dời về làng Ngọc
Ổi, Xã Sơn Nam Thượng, Huyện Thượng Phúc( nay là Xã Nhị Khê,Thường
Tín ,Hà Nội). Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình cả bên nội và bên
ngoại đều mang truyền thống văn hoá, văn học. Đây là cái nôi nuôi dưỡng
nhân cách và thiên tài Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi sinh ra trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố lớn
của dân tộc. Xuất thân trong một gia đình quan lại quý tộc, cha ông Nguyễn
Ứng Long là người có tài và đỗ Thái học sinh năm 1374 và làm quan thời
Trần nhưng không được trọng dụng. Ông ngoại là Trần Nguyên Đán một quý
tộc nhà Trần. Vì vậy ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã được giáo dục theo tư tưởng
của nho giáo và chính tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người
Nguyễn Trãi trong cả cuộc đời. Đạo Khổng nho luôn đề cao tu tưởng trung
quân, ái quốc, như bao nhà nho khác trong xã hội phong kiến, Nguyễn Trãi
luôn mong muốn “nhập thế”mang tài năng của mình giúp đời. Ở ông ta luôn
bắt gặp tư tưởng nhân nghĩa và ý thức dân tộc sâu sắc qua từng suy nghĩ và
hành động. Tuy nhiên ở Nguyễn Trãi tư tưởng “Trung quân” của ông được
hiểu một cách rất linh hoạt và tiến bộ so với hệ tư tưởng của các nhà nho cùng
thời. Nhà nho xưa luôn tâm niệm “Tôi trung không thờ hai chủ” nó được coi
như gốc dễ của bề tôi trung thành. Nhưng Nguyễn Trãi chữ “Trung” không
hẳn là trung với vua mà ông tâm niệm trung hiếu được hiểu theo nghĩa rộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
hơn, đó là trung hiếu với nước, với dân, mang lợi ích cho nhân dân. Điều đó
đã được Nguyễn Trãi thể hiện khá rõ ràng qua những hành động cụ thể. Năm
1400 khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ, ông đã không như

một số nhà nho khác tìm cách ở ẩn mà khi nhà Hồ mở khoa cử ông đã ứng thi
và đỗ Thái học sinh cùng với cha mình là Nguyễn Ứng Long ra làm quan cho
nhà Hồ. Năm 1407 nhà Hồ bị thất bại trước sự xâm lược của quân Minh, cha
con họ Hồ và một số quan lại bị bắt trong đó có Nguyễn Phi Khanh thân phụ
của ông. Tướng giặc là Trương Phụ đã buộc Nguyễn Phi Khanh phải gọi
Nguyễn Trãi ra hàng và giam ở Đông Kinh. Nguyễn Phi Khanh đã khuyên
ông bỏ trốn và tìm con đường cứu nước, cứu dân. Nghe lời khuyên của cha,
trong suốt 10 năm trời li loạn từ 1407 đến 1418 ông đã “Lênh đênh góc bể
chân trời” đi tìm chân chúa nhằm cứu nước cứu dân. Cuối cùng ông đã tìm
đến Lê Lợi và dâng Bình Ngô Sách.
Từ đó Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi tin tưởng và cùng bàn mưu lược
đánh giặc và trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Minh. Dù đây là
những ngày tháng đầy khó khăn, gian khổ nhưng Nguyễn Trãi đã được mang
hết tài năng, trí tuệ để phục vụ cho cuộc kháng chiến mong muốn đánh đuổi
giặc Minh, mang lại hòa bình, xây dựng cuộc sống cho “Bách tính trăm họ”
ấm no, hạnh phúc. Có lẽ đó là những tháng ngày thỏa chí nhất trong cuộc đời
của Nguyễn Trãi.
Năm 1428 khi mà Lê Lợi lập nên nhà Lê chưa được bao lâu đã nghe lời
sàm tấu của bọn nịnh thần bức hại một số người tài giỏi giúp mình. Trần Nguyên
Hãn, Trần Văn Xảo đã bị bức tử và bị giết. Nguyễn Trãi bị Lê Lợi nghi ngờ, bắt
giam rồi được tha. Khi Lê Lợi mất, Lê Thái Tông nên ngôi, xuống chiếu phong
cho Nguyễn Trãi chức Nhập nội hành khiển môn hạ sảnh ty, hữu gián nghị đại
phu kiêm Hàn Lâm viện thừa chỉ học sĩ, tri quan tam sự tưởng là một lần nữa
được trọng dụng để mang tài năng giúp nước, giúp dân nhưng do bản tính thẳng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
thẳn và cương trực nên ông bị triều thần ghen ghét. Sống giữa trốn quan trường
chứng kiến đầy sự bất công, nghi kị xảy ra trong triều mà bất lực không làm gì

được ông rất đau khổ. Cuối cùng ông không thể nhẫn nhục chịu đựng được sự
lộng hành của bọn gian thần và hoạn quan trong triều đình, Nguyễn Trãi đã xin
cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Ở Nguyễn Trãi, tư tưởng yêu nước không đơn
thuần là một khái niệm hay một đạo lí phải tuân theo. “Ái quốc, ưu dân”nó đã trở
thành lý tưởng luôn hiện hữu ám ảnh ,dày vò thôi thúc nhà thơ. Ngay cả khi
không được trọng dụng phải lui về Côn Sơn ở ẩn, xa lánh việc đời, nhưng tràn
ngập trong thơ Quốc âm là tấm lòng yêu nước, thương dân như nước cuồn cuộn
chiều đông, không ngừng chảy ra biển lớn.
Còn có một lòng âu việc nước
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung
(QATT-Thuật hứng,bài 23)
Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chẳng khuyết,nhuộm chẳng đen.
(QATT- Thuật hứng,bài 24)
Nguyễn Trãi là con người có nhiều hoài bão vì dân,vì nước nhưng
đã không có nhiều cơ hội thực hiện thành công những ước mơ hoài bão
của mình.
Tuy nhiên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Nguyễn Trãi cũng luôn có ý
thức dân tôc sâu sắc. Ông là một tri thức lớn, một nhà văn lỗi lạc đã có những
đóng góp lớn lao vào việc xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Nguyễn Trãi là
người kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng tầm văn
hóa Đại Việt lên một tầm cao mới “Nền văn hóa yêu nước, tiến bộ có tính dân
tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn, có tính chiến đấu cao,
thể hiện đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa yêu nước thế kỉ
XV ”[67.910].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Trước hết ta thấy đóng góp của Nguyễn Trãi Trong nền văn hóa Đại

Việt ở phương diện người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Nguyễn Trãi đã
gắn văn hóa vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Ông dùng ngòi bút của
mình, ngòi bút “Viết thư thảo hịch tài giỏi hay hơn hết thảy mọi thời”như
một vũ khí chiến đấu “có sức mạnh hơn nhiều đạo quân” để chống kẻ thù.
Nguyễn Trãi đã dùng tài năng văn chương của mình để tập hợp lực lượng,
cổ vũ tinh thần quân sĩ, góp công rất lớn cho sự thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống quân Minh. Ông gắn hoạt động văn hóa với hành động “Trừ
độc, trừ gian, trừ bạo ngược” và xây dựng lối sống cao đẹp có nhân cách
“Có nhân, có chí, có anh hùng”.
Cũng như đã nói ở trên, Nguyễn Trãi là người luôn đề cao tư tưởng
nhân nghĩa và làm cho tư tưởng đó ăn sâu và lan tỏa rộng khắp trong tâm
thức của xã hội, từ đó biến thành nguồn nội lực, thành sức mạnh của dân
tộc. Tư tưởng nhân nghĩa này được Nguyễn Trãi thể hiện qua lòng yêu
nước, thương dân, tình yêu thương nhân đạo sâu sắc , cao cả và được biểu
hiện rõ nét qua thơ văn của ông.Nguyễn Trãi “ca ngợi tình yêu thương
đồng bào cốt nhục, cuộc sống tươi đẹp yên vui, chống lại sự chà đạp lên
nhân phẩm con người và những hành động bất nhân, bất nghĩa. Thơ văn
của ông chiến đấu vì chính nghĩa, vì lẽ phải, vì đời sống ấm no hạnh phúc
của nhân dân, vì sự hòa bình muôn thủa, vì sự hòa hiếu giữa các dân
tộc ”[67.910]. Đóng góp của Nguyễn Trãi còn ở vị trí của ông trong sự
nghiệp văn chương của mình. Từ đó góp phần đua vị thế văn hóa, vị thế
của dân tộc được nâng tầm cao mới.
Ý thức đó, tấm lòng nhân nghĩa đó của Nguyễn Trãi luôn luôn như
dòng thác chảy không bao giờ ngừng nghỉ trong tiến trình vận động và phát
triển của nền văn hóa dân tộc. Những cống hiến lớn lao đó sẽ vẫn còn nguyên
giá trị đối với mỗi chúng ta.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13

1.1.2 Thời đại
Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã trải qua một thời đại đầy bão táp với
những biến cố xã hội sôi động. Nhưng Nguyễn Trãi là nhân vật kiệt xuất, ông
đã có những tác động không nhỏ đến thời đại của mình.
Giai đoạn đầu của thời đại Nguyễn Trãi là giai đoạn đất nước không
được ổn định. Ông sinh ra trong lúc nhà Trần đang suy yếu và tất yếu bị diệt
vong theo quy luật của lịch sử các triều đaị phong kiến. Giặc Chiêm nhiều lần
xâm lược và tàn phá nước ta từ phương Nam. Khi Nguyễn Trãi trưởng thành
thì cũng là lúc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần (1400). Nhà Hồ đã thực hiện
những cải cách xã hội triệt để, Hồ Quý Ly là người thực hiện các cải cách rất
táo bạo và kiên quyết trên rất nhiều mặt như thực hiện chính sách hạn nô, hạn
điền, phát hành tiền giấy, di dân khai hoang, xây thành trì kiên cố, mở các
trường học ở phủ huyện hay đưa môn toán vào dạy, trong dụng nhân tài Tuy
nhiên đã không mấy thành công. Do chính sách của Hồ Quý Ly “Không thể
giải quyết được các mâu thuẫn của xã hội lúc bấy giờ và không có khả năng
tập hợp các lực lượng xã hội đoàn kết ở xung quanh”[51.14]. Mặc dù nhà Hồ
đã thực hiện nhiều cải cách về mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là quân sự nhưng
chưa xây dựng được nhà nước đủ mạnh, đoàn kết được các tầng lớp trong xã
hội để chống lại sự xâm lược của quân Minh, nên đã thất bại. Kết thúc triều
đại nhà Hồ cũng là kết thúc giai đoạn đầu của thời đại Nguyễn Trãi.
Giai đoạn tiếp theo của thời đại Nguyễn Trãi là thời kì quân và dân ta
dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, dành quyền độc lập tự
do cho dân tộc. Như chúng ta đã biết năm 1407 giặc Minh đã xâm lược nước
ta và chiếm được Đông Đô, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Sau đó đổi nước ta
thành quận Giao Chỉ và xác nhập vào Đại Minh. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp
nổ ra như khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng nhưng đều thất bại.
Năm 1416 Lê Lợi đã tổ chức hội thề Lũng Nhai, chuẩn bị cho khởi nghĩa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
1418 Nguyễn Trãi đã dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi – Đây là thời điểm rất
quan trọng, là dấu mốc giúp cho cuộc khởi nghĩa rành những thắng lợi sau
này. Bắt đầu từ đây quân dân ta được sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi và
Nguyễn Trãi đã dành hết trận thắng này đến trận thắng khác. Là mốc son của
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đánh dấu sự thắng lợi và kết thúc cuộc
kháng chiến chống quân Minh thắng lợi bằng bản Đại Cáo Bình Ngô hào
hùng. Nguyễn Trãi đã đúc kết toàn bộ sự nghiệp chống giặc Minh của Lê Lợi
và cả dân tộc ta. Một trang lịch sử vẻ vang của dân tộc chống giặc ngoại xâm,
kết thúc thắng lợi mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do cho tổ quốc dân tộc.
Giai đoạn thứ ba đó là từ khi Lê Thái Tông lên ngôi 1428 thâu tóm
quyền lực tính đến khi Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi (1464). Nửa
đầu giai đoạn này nhà Lê tập trung quyền lực trong tay. Bộ máy nhà nước được
củng cố chặt chẽ, công tác lập pháp được các vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân
Tông và sau đó là Lê Thánh Tông ban hành những luật lệ để cai trị. Điều đó đã
góp phần tạo nên sự hùng mạnh của nước Đại Việt thế kỉ XV vào bậc nhất
Đông Nam Á thời kì bấy giờ. Tuy nhiên phải thấy rằng, khi tập trung quyền lực
vào trong tay Lê Thái Tố đã tỏ ra chuyên quyền, tin những kẻ nịnh thần bất tài,
ganh ghét những người trung quân tài giỏi, khi lên làm vua đã gây bất bình
trong nội bộ triều đình. Những công thần đắc lực giúp Lê Lợi chống quân Minh
lần lượt bị hãm hại hoặc sau đó bị Lê Thái Tông sát hại. Phần lớn những người
bị xử tội chết và bị giết xã hội đương thời đều kêu oan. Bên cạnh đó tình hình
lục đục, phe cánh hãm hại nhau diễn ra trong triều, các mâu thuẫn xã hội trở
nên sâu sắc, quan lại tham lam vơ vét của dân, đời sống nhân dân không được
cải thiện. Trong thời kì này Nguyễn Trãi chán nản và ông đã cáo quan về ở ẩn
tại Côn Sơn, sống cảnh đạm bạc hòa đồng với thiên nhiên, muông thú. Nhưng
rồi một thảm án thảm khốc đã giáng xuống ông và những người thân trong gia
tộc vào 1442 với vụ án Lệ Chi Viên “Chu di tam tộc”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
Nửa cuối giai đoạn này là thời kì Lê Thánh Tông lên ngôi 1460 đây là
thời kì nhà Lê lấy lại uy tín với nhân dân. Dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông
đất nước đã đi vào dần ổn định, Ông đã ban hành Quốc triều hình luật và
những chính sách cai trị sáng suốt hợp lòng dân, nội bộ triều đình ổn định,
kinh tế dần được cải thiện và phát triển, đời sống nhân dân dần ấm no, hạnh
phúc. Nhà vua trẻ đã ban chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi.
Nhìn chung lại, thời đại Nguyễn Trãi là thời đại vừa anh hùng nhưng
cũng đầy bi kịch, đây cũng chính là mâu thuẫn trong thời đại của ông. Bởi vì
trong thời kì này cả dân tộc đã đồng lòng đoàn kết, đánh đuổi giặc ngoại xâm
dành chiến thắng một cách oanh liệt, vẻ vang. Nhưng nó cũng chất chứa bi
kịch bởi quyền lợi cá nhân trong triều chính, mà ở đây là vua đặt trên quyền
lợi của dân tộc, quyền lợi của nhân dân.
Tuy vậy cũng có thể thấy thời đại Nguyễn Trãi là thời đại đầy oai hùng,
vẻ vang, một trang sử vàng của dân tộc trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm
lược. Thắng lợi đó đã mở ra một kỉ nguyên mới, thời kì phát triển mới trong
sự phát triển của lịch sử nước nhà.
Cả cuộc đời Nguyễn Trãi đã mang hết tâm huyết, tài lược của mình xây
dựng nền văn hoá Đại Việt.Với một dân tộc có truyền thống văn hoá được
đúc rút qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó đến thời
Lý - Trần đã có những thành tựu rực rỡ. Nguyễn Trãi là người kế thừa những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và có công lao lớn làm cho nền văn hoá Đại
Việt lên một tầm cao mới, đó là “Nền văn hoá yêu nước tiến bộ có tính dân
tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn. Có tính chiến đấu cao,
thể hiện mộtcách đầy đủ nhất,mạnh mẽ nhất chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thế
kỉ XV”[67.910] . Cống hiến của Nguyễn Trãi về văn hoá còn là đề cao tư
tuởng nhân nghĩa và làm tư tưởng đó ăn sâu, lan toả vào trong tâm thức xã
hội, biến thành sức mạnh dân tộc. Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Trãi là lòng yêu nước, thương dân, là lòng nhân ái rộng lớn, chủ nghĩa nhân
đạo cao cả. tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện sâu sắc trong sự nghiệp thơ ca
của ông. Cống hiến của Nguyễn Trãi cho nền văn hoá Đại việt ngay chính ở
vị trí Ức Trai trong sự nghiệp văn chương. Chính địa vị vĩ đại của Nguyễn
Trãi đã nâng cao vị thế của dân tộc. Những đóng góp trên chúng ta có thể thấy
qua rõ qua sự nghiệp văn chương của ông, đặc biệt là trong tập thơ Nôm Quốc
âm thi tập. Tập thơ là cột mốc đánh dấu của quá trình xây dựng và phát triển
nền văn hóa Đại việt nói chung, trong đó có văn học nói riêng.
1.2 Khái niệm về tính dân gian và tính hiện đại.
1.2.1. Tính dân gian
1.2.1.1 Tính dân gian và biểu hiện của tính dân gian.
Tính dân gian hay chất dân gian là khái niệm hay được sử dụng nhưng
chưa được định danh thật rõ ràng và chưa có mặt trong Từ điển thuật ngữ văn
học, Từ điển văn học
Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản rằng tính dân gian là những
cách nói, cách diễn đạt hết sức vần vè của dân gian. Đặc biệt là người dân
Việt hay thích nói kiểu vần vè với nhau trong giao tiếp. Thông qua những
hình ảnh được ví von hay so sánh.Nó xuất hiện rất nhiều qua các câu tục ngữ,
ca dao với một kho tàng đồ sộ.
Ví dụ như những câu sau đây :
Không ưa thì dưa có ròi.
Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.
Hay :
Ăn vóc học hay.
Vụng chèo khéo chống.
Cách sử dụng từ ngữ một cách vần vè với nhau, hay sử dụng các từ láy
tạo nên những tiếng vang, sự uyển chuyển, nhịp nhàng trong cách nói là đặc


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
điểm của người dân Việt. Với cách hiểu như vậy, theo suy nghĩ hạn hẹp
chúng tôi mạnh dạn đưa ra cách hiểu của mình về tính dân gian như sau:
Tính dân gian là khái niệm dùng chỉ thuộc tính, phẩm chất của một nền
văn học dân gian hay một bộ phận cấu thành của nó ( Ca dao, tục ngữ, hò,
vè, truyện cổ dân gian ).
Tính dân gian trong văn học thể hiện ở hai mặt nội dung và hình thức
trong tác phẩm. Về mặt nội dung chính là yếu tố về đề tài, sự lý giải chủ đề
hay cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận, đánh giá của tác giả mang đậm chất
dân gian. Về mặt yếu tố hình thức là thể loại, ngôn ngữ, hình thượng nghệ
thuật, nhân vật, kết cấu…có màu sắc của văn học và văn hoá dân gian.
Tính dân gian dùng để chỉ thuộc tính, phẩm chất, nội dung của tác
phẩm văn học dân gian. Gắn hoàn cảnh, phản ánh đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân lao động trong một thời quá khứ xa xưa, ghi dấu ấn thế giới
quan, nhân sinh quan của người xưa.
Tính dân gian dùng để chỉ một số đặc điểm nổi bật trong hình thức
nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian: mộc mạc, giàu hình ảnh, hay sử
dụng kết cấu trùng điệp, kết cấu đối ngẫu, ngôn ngữ và hình ảnh gắn bó với
những gì thân thuộc trong cuộc sống sinh hoạt và lao động của cộng đồng dân
tộc ấy
1.2.2. Tính hiện đại
1.2.2.1Tính hiện đại và biểu hiện của tính hiện đại trong thơ.
“ Hiện đại “ trong tiếng Anh là “ Modern” cũng có nghĩa là tân tiến,
tân kì, hợp thị hiếu. Theo từ điển Hán -Việt ( Phan Văn Các) thì hiện đại có
nghĩa là thời nay(tiếng Việt hiện đại, ) có nghĩa là áp dụng những phát minh
mới nhất về khoa học. Nhìn chung “ hiện đại” được hiểu là những gì tân tiến,
tân kì thời nay.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Hiện đại khác với truyền thống, nếu như truyền thống là “các nhân tố
xã hội đặc biệt truyền tư đời này sang đời khác”(từ điển Hán - Việt Phan Văn
Các) thì hiện đại là những “nhân tố mới” của xã hội “thời nay” và đến “thời
nay” mới có.
Như vậy, liệu “hiện đại” có đồng nghĩa với “cái mới” hay không ? cần
phân biệt rõ hai phạm trù này.
“Cái mới” là cái chưa từng có trước đó.Tức là cái gì đó đến nay mới
xuất hiện thì là cái mới. Nội dung của phạm trù cái mới rất rộng. Nó bao gồm
cả cái mới tốt đẹp và cái mới không tốt đẹp.
Còn “hiện đại” như chúng ta đã cắt nghĩa, nghĩa là những gì tân kì, tân
tiến của thời nay. Đã là tân tiến thì nó không bao gồm cái xấu , cái phản thẩm
mĩ, không thể đồng nhất cái mới và cái hiện đại được. Phạm trù hiện đại hẹp
hơn phạm trù cái mới, hiện đại là những cái mới hợp thị hiếu, cái mới có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của thời đại.
Văn học Việt Nam trải qua các quá trình dài phát triển đến cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX với những thay đổi của thời đại, văn học bước đầu đã có
những bước chuyển mình. Hấp thụ những tinh hoa văn hóa của nhân loại( văn
hóa phương Đông từ thế kỉ XX về trước và Văn hóa phương Tây từ thế kỉ
XX), đặc biệt với những vốn chắt chiu từ cuộc sống mới đầy ắp, văn học Việt
Nam lúc này đã xuất hiện những yếu tố mới. Nhưng không phải cái mới ngay
khi xuất hiện đã tạo ra sắc diện ngay cho nền văn học. Để có một nền văn học
hiện đại như ngày nay, văn học đã trải qua quá trình “hiện đại hóa”
Hiện đại trong văn học là một quá trình đưa nền văn học nước ta tiến
kịp với nền văn học các nước tiên tiến. Văn học hiện đại Việt Nam hình thành
trên cơ sở của sự phát triển của các đô thị lớn, sự hình thành giai cấp công
nhân cùng một lớp công chúng tiểu tư sản thành thị đã tiếp thu ít nhiều văn

hóa phương Tây. Tất nhiên đi vào quỹ đạo hiện đại thì nó là một chất lượng
mới, thi pháp mới với văn học trung đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Văn học nghệ thuật một mặt kế thừa tiếp tục sử dụng những thành quả
của thời đại trước ở thời đại sau, mặt khác còn là sự sáng tạo, tạo ra những giá
trị mới phù hợp với từng thời kì phát triển. Sự kế thừa và sáng tạo là quy luật
muôn thủa của văn hóa nghệ thuật.
Phủ định trong kế thừa chính là khâu làm cho phát triển. Mục đích
của phủ định biện chứng là tạo ra cái mới chưa từng có, mang một trình
độ điêu luyện mới, mở ra một khả năng mới, đề xuất một tư tưởng mới.
Cái đích của sáng tạo là làm nên những giá trị không lặp lại, phát triển
những khả năng chiếm lĩnh đời sống của văn nghệ. Mặt sáng tạo trong
văn học nhằm tạo ra những giá trị phù hợp với thời đại mới tạo ra tính
hiện đại của văn học nghệ thuật.
Tính hiện đại là nhân tố quan trọng, bao quát cả nội dung và hình thức
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. thực chất nội dung tính hiện đại là những
nhân tố giá trị mới xuất hiện trong cuộc đấu tranh cách mạng to lớn mà nhân
dân ta tiến hành.
Đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam biến chuyển và vận động theo một
hướng mới, một quy trình mới. Đó là nền văn học hiện đại cả về nội dung
và hình thức.
Xét về nội dung, hiện đại trong văn học thể hiện ở sự tiếp thu mở rộng
những đề tài phản ánh, chủ đề, cảm hứng văn học hiện đại hướng vào phản
ánh thế giới đa chiều của con người, văn học trở về gần với cuộc sống thoát
khỏi văn học chức năng trung đại.
Về nghệ thuật, để diễn tả những nội dung mới trong văn học yêu cầu
có hình thức nghệ thuật mới phù hợp. Văn học hiện đại kế thừa và đổi mới

các thể loại, ngôn ngữ, các phương tiện tạo hình, biểu hiện tạo thuận lợi cho
việc sáng tác. Người nghệ sĩ đã vận dụng các hình thức nghệ thuật nhằm tác
động vào những tình cảm tiềm tàng của người thưởng thức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Những biểu hiện tính hiện đại trong thơ ca : nó biểu hiện ở 2 mặt nội
dung và hình thức, cụ thể:
Biểu hiện về mặt nghệ thuật đó là việc cách tân thơ ca nói riêng cũng
như văn học nói chung là yêu cầu và bước đi cần thiết ở Đông Nam Á khi mà
các nước trong khu vực muốn thoát khỏi sự ràng buộc của các thể chế xưa cũ,
hướng về văn minh phương Tây.
Không khí mới của thời đổi mới đã mang đến cho thơ ca luồng sinh khí
mới và cũng mang những hình thức biểu hiện mới. Có thể thấy, ở mỗi thời đại
, mỗi giai đoạn lịch sử thường sử dụng những thể loại thích hợp mà mà ở đấy
chúng ta thấy được sự vận động trong tư duy, sáng tạo của nhà thơ. Sự vận
động này thể hiện ở nhiều cấp độ: từ quan niệm về mối quan hệ giữa nhà thơ
và cuộc sống , thái độ của nhà thơ với cuộc đời đến tư thế cảm thụ và cách
bộc lộ cảm xúc thông qua hệ thống nghệ thuật (đối tượng thẩm mỹ, thể thơ,
ngôn ngữ, cách gieo vần, )
Chúng ta thấy rằng; thơ ca là nghệ thuật của ngôn từ, không phải ngẫu
nhiên mà các nhà nghiên cứu đã dành cho ngôn ngữ một vị trí xứng đáng
trong các định nghĩa về thơ: “Bài thơ, sự lưỡng lự kéo dài giữa âm và nghĩa”(
Voleli); “Thơ là cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp
nhận phải nhớ, phải cảm xúc và suy nghĩ cho chính hình thức tổ chức ngôn
ngữ này”( Phan Ngọc).
Tham gia vào quỹ đạo của thế giới hiện đại, hình thức thơ có nhiều
cách tân hiện đại về ngôn ngữ và thể loại Từ trong ý thức, tình cảm các nhà
thơ Việt Nam đã phá vỡ khuôn khổ câu thơ cũ để được tự do hơn trong việc

thể hiện cảm xúc. Câu thơ thoát khỏi hệ thống ước lệ, quy phạm trong thơ xưa
để “chạy tung về chân trời mới”. Thơ mới là một bước ngoạn mục trong việc
cách tân hình thức thơ ca, đánh dấu một cột mốc đáng ghi nhớ trong lịch sử
phát triển thơ ca, đáng ghi nhớ nhất là sự đóng góp của thơ tự do. Sau cách
mạng tháng tám đã mở ra con đường mới cho thơ ca, nhiều thể thơ được sáng

×