Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật ở người canh tác chè xã la bằng, huyện đại từ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.19 KB, 88 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC





TRẦN THẾ HOÀNG





HÀNH VI DỰ PHÒNG NHIỄM HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT
Ở NGƯỜI CANH TÁC CHÈ XÃ LA BẰNG, HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN






LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC









Thái Nguyên, 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y - DƢỢC




TRẦN THẾ HOÀNG




HÀNH VI DỰ PHÒNG NHIỄM HÓA CHẤT BẢO VỆ THỰC VẬT
Ở NGƯỜI CANH TÁC CHÈ XÃ LA BẰNG, HUYỆN ĐẠI TỪ,
TỈNH THÁI NGUYÊN



Chuyên ngành: Y học dự phòng
Mã số: 60.72.73



LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC





HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN QUANG MẠNH


Thái Nguyên, 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Lêi c¶m ¬n

Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Y tế
Công cộng, Bộ môn Y học cộng đồng - Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên,
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
TS. Nguyễn Quang Mạnh - người thầy luôn tận tình dành nhiều thời gian
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn
tốt nghiệp của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp, những người bạn
thân thiết đã luôn giúp đỡ, động viên, khích lệ, chia sẻ khó khăn trong thời
gian tôi học tập để hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn./.


Thái Nguyên, tháng 10 năm 2011
HỌC VIÊN




Trần Thế Hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Lêi cam ®oan

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn do
tôi thu thập là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu khoa học nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện Luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ
rõ nguồn gốc.


Thái Nguyên, tháng 10 năm 2011
HỌC VIÊN




Trần Thế Hoàng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BĐBV : Biết đọc biết viết
CBYT : Cán bộ y tế
GDSK : Giáo dục sức khoẻ
HBM : Health Belief Model
HCBVTV : Hoá chất bảo vệ thực vật
HVSK : Hành vi sức khoẻ
NXB : Nhà xuất bản
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TT GDSK : Truyền thông giáo dục sức khoẻ
TT : Truyền thông
YTTB : Y tế thôn bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN 3
1.1. Hành vi 3
1.2. Thuyết hành vi 5

1.3. Các khái niệm khác 9
1.4. Hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật và các yếu tố
liên quan 10
1.5. Khung lý thuyết nghiên cứu 15
1.6. Giả thuyết nghiên cứu 16
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
2.1. Đối tượng nghiên cứu 17
2.2. Địa điểm nghiên cứu 17
2.3. Thời gian nghiên cứu 17
2.4. Phương pháp nghiên cứu 17
2.5. Công cụ thu thập số liệu 21
2.6. Phương pháp thu thập thông tin 22
2.7. Phân tích và xử lý số liệu 23
2.8. Đạo đức trong nghiên cứu 26
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 27
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2. Kiến thức của người canh tác chè về dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ
thực vật 29
3.3. Thái độ của người canh tác chè về dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ
thực vật 31
3.4. Hành vi dự phòng nhiễm HCBVTV ở người canh tác chè 33
3.5. Mối liên quan của hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật 45
Chƣơng 4: BÀN LUẬN 47
4.1. Kiến thức, thái độ và hành vi dự phòng nhiễm hoá chất bảo vệ thực vật
ở người canh tác chè xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên 47
4.2. Các yếu tố liên quan đến hành vi dự phòng nhiễm hoá chất bảo vệ thực
vật ở người canh tác chè 57
KẾT LUẬN 59

KHUYẾN NGHỊ 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC BẢNG


Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 27
Bảng 3.2. Thời gian canh tác và thu hoạch chè sau phun hoá chất bảo vệ
thực vật chè của đối tượng nghiên cứu 28
Bảng 3.3. Kiến thức của người canh tác chè 29
Bảng 3.4. Thái độ của người canh tác chè về dự phòng nhiễm hoá chất
bảo vệ thực vật 31
Bảng 3.5. Hành vi phun hoá chất bảo vệ thực vật và xử lý dụng cụ sau
phun 33
Bảng 3.6. Mức độ hành vi dự phòng nhiễm hoá chất bảo vệ thực vật ở
người canh tác chè 42
Bảng 3.7. Tỷ lệ người canh tác chè được truyền thông giáo dục sức khoẻ 43
Bảng 3.8. Nguồn truyền thông giáo dục sức khoẻ cho người canh tác chè 43
Bảng 3.9. Nhu cầu truyền thông giáo dục sức khoẻ dự phòng nhiễm hoá
chất bảo vệ thực vật 44
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa hành vi dự phòng nhiễm hoá chất bảo vệ
thực vật với các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 45
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa hành vi dự phòng nhiễm hoá chất bảo vệ
thực vật với kiến thức thức, thái độ, truyền thông 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 3.1. Thực trạng xử lý bao bì, dụng cụ đựng hoá chất bảo vệ thực vật 34
Biểu đồ 3.2. Tần suất hành vi đeo kính mắt khi canh tác chè 35
Biểu đồ 3.3. Tần suất hành vi sử dụng khẩu trang khi canh tác chè 36
Biểu đồ 3.4. Tần suất hành vi sử dụng găng tay khi canh tác chè 37
Biểu đồ 3.5. Tần suất hành vi sử dụng mũ nón bảo hộ khi canh tác chè 38
Biểu đồ 3.6. Tần suất hành vi sử dụng quần áo bảo hộ khi canh tác chè 39
Biểu đồ 3.7. Tần suất hành vi tắm rửa sau khi canh tác chè 40
Biểu đồ 3.8. Tần suất hành vi ăn /uống/hút thuốc khi canh tác chè 41


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đối với cây chè vừa có tác dụng phòng
ngừa sâu bệnh vừa giúp tăng năng suất, sản lượng. Tuy nhiên, khi lạm dụng
hoặc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng cách không chỉ ảnh hưởng
lớn tới sức khỏe người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới người nông
dân canh tác chè. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phần lớn những người canh
tác chè khi sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật thường có các dấu hiệu nhiễm
hóa chất bảo vệ thực vật, theo nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Khanh, Đỗ Hàm
(2009) tỷ lệ người canh tác chè có biểu hiện hoa mắt, chóng mặt và đau đầu
chiếm tỷ lệ rất cao (78,4 %; 77,9 % và 73,1% theo thứ tự). Bên cạnh đó,
người canh tác chè còn bị mắc một số bệnh như bệnh mũi họng (86,9 %),
bệnh về mắt (84,8 %), cơ xương khớp (63,7 %), tâm thần kinh (51,1 %) và da
liễu (40,1 %) [11], [25].
Có nhiều nguyên nhân gây nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật, tuy nhiên
nguyên nhân chính gây nhiễm hóa chất bảo vệ thực là do người canh tác

không mang trang bị phòng hộ (89,5%); thuốc dính vào da khi pha chế
(75,5%); do bình phun bị rò rỉ (35,0%); phun không đúng kỹ thuật (54,7%);
phun với liều lượng cao hơn mức khuyến cáo và do sử dụng một số loại thuốc
đã bị hạn chế hoặc cấm sử dụng [16]; do ít sử dụng kính mắt (4,0%) [7]; vứt
chai lọ tùy tiện hoặc dùng lại sau khi phun (23,88%) [32]. Ngoài những
nguyên nhân trên, việc thực hiện các hành vi không tắm rửa sau khi phun,
không chú ý đến chiều gió, không chú ý đến thời tiết, thiếu kiến thức hoặc
thái độ xem thường vệ sinh lao động ở người canh tác chè đều liên quan đến
nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật [12], [14].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Xã La Bằng là một xã miền núi thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
Xã có tổng số dân là 3767 người trong đó có 40% là người dân tộc thiểu số.
Tổng diện tích của xã là 12,2 km
2
với diện tích trồng chè toàn xã là 328ha.
Phát triển cây chè là thế mạnh kinh tế của xã tuy nhiên trong quá trình canh
tác, người canh tác chè phải thường xuyên tiếp xúc với hóa chất bảo vệ thực
vật và đây là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới sức
khỏe của người canh tác chè. Đã có một số đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của
hóa chất bảo vệ thực vật đến sức khỏe người canh tác chè nhưng chưa có đề
tài nào nghiên cứu về hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật của
người canh tác chè tại xã La Bằng. Để tìm hiểu về hành vi dự phòng nhiễm
hóa chất bảo vệ thực vật ở người canh tác chè tại xã La Bằng, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu: “Hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật ở
người canh tác chè xã La Bằng, Đại Từ, Thái Nguyên” với mục tiêu:
1. Đánh giá kiến thức, thái độ và hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ
thực vật ở người canh tác chè xã La Bằng, Đại Từ, Thái Nguyên năm 2011.

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo
vệ thực vật ở người canh tác chè.
Giả thuyết nghiên cứu
Hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật có liên quan đến
giới, dân tộc, trình độ học vấn, số năm canh tác chè, kiến thức, thái độ và
truyền thông giáo dục sức khỏe.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN

1.1. Hành vi
1.1.1. Khái niệm hành vi
Hành vi là “một phản ứng quan sát được của một người tới một tác
nhân kích thích hoặc một hành động có thể vô thức hoặc có ý thức với mục
đích, tần suất và khoảng thời gian cụ thể.” [3], [27].
1.1.2. Hành vi sức khỏe
Hành vi sức khỏe (HVSK) là “những thuộc tính cá nhân như niềm tin,
sự mong đợi, động lực thúc đẩy, giá trị, nhận thức, và kinh nghiệm; những
đặc điểm về tính cách bao gồm tình cảm, cảm xúc; các loại hành vi, hành
động, và thói quen có liên quan đến sự duy trì, phục hồi, và cải thiện sức
khỏe” [3], [27].
1.1.3. Các yếu tố của hành vi sức khỏe
Ba nhóm yếu tố chính góp phần hình thành và tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hành vi con người [26], [27], đó là:
* Yếu tố tiền đề
Yếu tố tiền đề là yếu tố bên trong của cá nhân, bao gồm: kiến thức, thái
độ, niềm tin và giá trị xã hội. Nhóm yếu tố này quyết định cách ứng xử của

mỗi chúng ta.
 Kiến thức là sự hiểu biết về sự vật, hiện tượng và bắt nguồn từ sự học
tập, trải nghiệm và là yếu tố tiền đề/dẫn dắt đến hành vi. Ví dụ: bà mẹ không
biết rõ lịch tiêm chủng (kiến thức) thì không đưa con đi tiêm chủng (hành vi).
 Thái độ là một phản ứng được đánh giá thích hay không thích hoặc
khuynh hướng hướng tới sự vật, hiện tượng, một tình huống, một người, một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
nhóm người mà biểu hiện bằng niềm tin, cảm giác hoặc một hành vi dự định.
Thái độ là yếu tố cơ bản dẫn đến hành vi. Ví dụ: nếu người canh tác chè nhận
thức rằng không đeo khẩu trang khi tiếp xúc hóa chất bảo vệ thực vật
(HCBVTV) sẽ có nguy cơ nhiễm HCBVTV (thái độ), họ sẽ thực hiện đeo
khẩu trang (hành vi).
 Niềm tin là sự tin tưởng chắc chắn rằng một sự kiện, quan điểm là
đúng, là có thật mặc dù có thể không đúng, không có thật. Niềm tin này
thường do cha mẹ, ông bà, và những người thân mà ta thương yêu, kính trọng
truyền đạt, khuyên bảo hoặc có được từ kinh nghiệm bản thân. Người ta
thường có xu hướng tiếp nhận niềm tin mà không kiểm chứng lại xem niềm
tin đó có đúng không. Ví dụ: có những nhóm người cho rằng phụ nữ có thai
không nên ăn thịt một số động vật vì nếu ăn đứa trẻ sau này sinh ra có thể có
hành vi hoặc một số đặc điểm giống như con vật mà người mẹ đã từng ăn
(niềm tin), vì vậy họ sẽ không ăn thịt động vật (hành vi).
 Giá trị là điều mà chúng ta coi là quan trọng để định hướng cho các
hành động. Khi được nhận thức một cách đầy đủ, các giá trị sẽ trở thành
những tiêu chuẩn cho sự yêu thích và lựa chọn. Ví dụ: người tập thể dục thể
thao thấy người khỏe mạnh, ăn ngon, ngủ tốt (giá trị) thì họ sẽ tiếp tục tập thể
dục thể thao thường xuyên (hành vi).
* Yếu tố củng cố/duy trì

Đó là những yếu tố ảnh hưởng từ người thân trong gia đình (cha mẹ, ông
bà), thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp, những người đứng đầu ở địa phương, người
có chức sắc trong dòng tộc, tôn giáo. Họ là những người có uy tín, quan trọng
trong cộng đồng và mọi người có xu hướng nghe và làm theo những người có
uy tín, quan trọng đã làm. Ví dụ: học sinh thường rửa tay trước khi ăn nếu
thấy thầy cô giáo cũng làm như vậy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
* Yếu tố điều kiện thuận lợi
 Đó là các yếu tố liên quan đến nguồn lực nói chung, bao gồm điều
kiện sinh sống, việc làm, thu nhập, cũng như các chính sách và môi trường
luật pháp. Chẳng hạn như một người canh tác chè sau khi tiếp xúc với
HCBVTV bị đau đầu, nôn muốn đi khám ở trạm y tế xã nhưng vì phải đi bộ
quá xa nên đã không đến khám. Một số người muốn mua quần áo bảo hộ lao
động nhưng do chi phí cao nên họ không thể mua, vì vậy họ vẫn tiếp tục canh
tác chè mà không sử dụng bảo hộ lao động. Trong khi đó các khu vực chuyên
canh chè có nhiều khu vực thuộc các huyện miền núi, vùng sâu vùng xa, điều
kiện kinh tế xã hội còn thấp [14] cho nên sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện
hành vi dự phòng nhiễm HCBVTV.
 Yếu tố về môi trường pháp luật như các quy định, luật pháp có tác
động rất mạnh đến hành vi cá nhân. Ví dụ: hiện tượng hút thuốc trong bệnh
viện và trường học sẽ không xảy ra nếu qui định cấm hút thuốc và việc xử
phạt người hút thuốc trong khu vực này được áp dụng một cách nghiêm ngặt.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, kiến thức, thái độ, niềm tin ảnh hưởng
đến hành vi phòng chống bệnh tật của người dân (yếu tố tiền đề)[13], [45];
theo nghiên cứu của Phạm Thị Tâm cho thấy các yếu tố tăng nguy cơ hút
thuốc là gia đình có nhiều người hút thuốc lá và có thái độ ủng hộ hành vi hút
thuốc (yếu tố củng cố) [24]. Do vậy, việc nghiên cứu rõ ràng các yếu tố của

hành vi chính là cơ sở để can thiệp giúp cá nhân thay đổi hành vi theo hướng
có lợi cho sức khỏe.
1.2. Thuyết hành vi
Có nhiều thuyết cơ bản về thay đổi cho hành vi sức khỏe như: mô hình
giảm nguy cơ AIDS, mô hình các giai đoạn thay đổi, thuyết về hành động có
lý do và mô hình BASNEF, mô hình niềm tin sức khỏe [26], [27], [41]. Tuy
nhiên, thuyết mô hình niềm tin sức khỏe (Health Belief Model - HBM) là mô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
hình được sử dụng phổ biến nhất trong khoa học hành vi sức khỏe để giải
thích sự thay đổi/duy trì hành vi sức khỏe cá nhân cũng như hướng dẫn cho
các can thiệp thay đổi hành vi sức khỏe. Mô hình này đã được phát triển trong
những năm 1950 bởi nhà nghiên cứu tâm lý xã hội Mỹ Hochbaum,
Rosenstock và Kegels để giải thích lý do người dân Mỹ không tham gia vào
chương trình sàng lọc bệnh lao. Sau đó mô hình đã được tác giả Becker bổ
sung thêm và xây dựng từ năm 1974 [37], [41].
Mô hình niềm tin sức khỏe đã được áp dụng để giải thích hành vi như
hành vi xét nghiệm HIV của thanh niên trong nghiên cứu của tác giả Caroline
W. Karibu [35] khi tác giả sử dụng HBM làm khung lý thuyết của nghiên cứu
và chỉ ra rằng việc nhận thức về mối đe dọa nhiễm HIV ở giới trẻ sẽ dẫn tới
hành vi xét nghiệm HIV (1/2 số thanh niên có quan hệ tình dục không làm xét
nghiệm nhiễm HIV vì họ cho rằng họ không có nguy cơ nhiễm HIV). Các tác
giả Hazavehei SM, Taghdisi MH, Saidi M đã sử dụng HBM trong nghiên cứu
hành vi dự phòng bệnh loãng xương ở nữ học sinh trung học tại Garmsar, Iran
[39]. Tác giả đã chia nữ học sinh làm 3 nhóm, 1 nhóm tham gia chương trình
can thiệp giáo dục dự phòng bệnh loãng xương theo mô hình HBM, 1 nhóm
tham gia chương trình giáo dục theo phương pháp truyền thống và một nhóm
chứng. Tác giả tiến hành đánh giá kết quả trước can thiệp, ngay sau can thiệp

và sau khi can thiệp 1 tháng. Kết quả cho thấy rằng nhóm 1 đã tăng điểm
trung bình trong các lĩnh vực kiến thức, nhận thức sự nhạy cảm về bệnh, hậu
quả, rào cản và lợi ích của việc giảm các nguy cơ mắc bệnh, nhóm 2 chỉ tăng
điểm trong lĩnh vực kiến thức và nhận thức sự nhạy cảm về nguy cơ gây
bệnh; còn nhóm 3 thì không có sự thay đổi. Ngoài ra, mô hình niềm tin sức
khỏe cũng được sử dụng để giải thích các hành vi khác như hành vi dự phòng
nhiễm sốt xuất huyết Dengue bằng cách sử dụng HBM để xây dựng nội dung
truyền thông thay đổi hành vi để kiểm soát bệnh sốt xuất huyết Dengue [40];
hành vi hút thuốc lá, hành vi uống rượu…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Mô hình của thuyết HBM [41] như sau:



















(Mô hình niềm tin sức khỏe Becker, 1974[41])

* Nhận thức sự nhạy cảm
Là niềm tin của cá nhân hướng đến các yếu tố nguy cơ sức khỏe. Ví dụ,
nhận thức rằng không sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục Nhận thức được yếu tố nguy cơ
là cơ sở làm nền tảng cho việc thúc đẩy hành vi có lợi cho sức khỏe của họ.
Ví dụ, người cao huyết áp nhận thức rằng ăn mặn, uống rượu/bia sẽ có nguy
Nhận thức
về sự nhạy
cảm tới
bệnh “X”
Nhận thức
về tính
trầm trọng
của bệnh
“X”

Biến số nhân khẩu học
(Tuổi, giới, dân tộc,
kinh tế xã hội,
kiến thức)
Nhận thức về mối
đe dọa tới bệnh “X”
Nhận thức lợi
ích của hành vi
dự phòng so với
những rào cản

khi thay đổi
hành vi.

Động lực cho hành động:
- Giáo dục
- Chứng kiến từ bạn bè, người
thân.
- Thông tin từ các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Khả năng thay
đổi hành vi
(Khả năng thực
hiện hành vi
phòng bệnh)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
cơ làm tăng huyết áp. Nhận thức nguy cơ giúp người làm giáo dục sức khỏe
(GDSK) xác định quần thể nguy cơ, mức độ nguy cơ.
* Nhận thức tính trầm trọng
Là niềm tin của cá nhân về tính nghiêm trọng hoặc tính khốc liệt của
một bệnh. Ví dụ, tính nghiêm trọng khi bị nhiễm HIV/AIDS là dẫn đến tử
vong, bị kỳ thị phân biệt đối xử… Nhận thức được tính nghiêm trọng sẽ là
nền tảng cho sửa đổi hành vi sức khỏe. Ví dụ, nếu như người tham gia giao
thông nhận thức được tai nạn giao thông có thể làm chấn thương sọ não vì thế
người tham gia giao thông sẽ thực hiện hành vi đội mũ bảo hiểm khi tham gia
giao thông Tính nghiêm trọng được áp dụng để đánh giá quan điểm của cá
nhân về hậu quả của tiếp xúc yếu tố nguy cơ.

* Nhận thức lợi ích
Là quan điểm của cá nhân về lợi ích thực hiện hành vi khuyến nghị để
làm giảm yếu tố nguy dẫn đến bệnh tật. Ví dụ, người dân nhận thức rằng tập
thể dục thường xuyên sẽ làm cơ thể khỏe mạnh, phòng được bệnh tật (lợi ích);
đánh răng sau khi ăn, trước khi đi ngủ sẽ phòng sâu răng (lợi ích) Nhận thức
lợi ích khi thực hiện hành vi dự phòng giúp người làm GDSK xác định những
mong đợi mà quần thể đích phải đạt được.
* Nhận thức rào cản
Nhận thức rào cản là quan điểm của cá nhân về các yếu tố gây cản trở
hành vi dự phòng. Ví dụ, người dân nhận thức rằng không có nơi tập luyện là
yếu tố cản trở cho hành vi tập thể dục thường xuyên. Bất cứ một hành vi sức
khỏe nào cũng có yếu tố “rào cản” của nó. Việc xác định yếu tố gây cản trở
hành vi có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược làm thay đổi HVSK. Chỉ khi
cá nhân nhận thức được yếu tố “lợi ích” lấn án/áp đảo yếu tố gây “cản trở” thì
hành vi đó mới có khả năng thực hiện.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
* Yếu tố bổ trợ
Bốn yếu tố nhận thức đã nêu trên là chịu sự tác động bởi các biến số
như tuổi, giới, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế (các yếu tố xã hội học). Vì
thế, tác giả Becker đã bổ sung vào mô hình các yếu tố này đã ảnh hưởng gián
tiếp đến hành vi sức khỏe thông qua nhận thức của cá nhân.
* Yếu tố nhắc nhở (Động lực cho thay đổi)
 Yếu tố nhắc nhở đề cập đến vai trò của truyền thông làm thay đổi hành
vi. Đó là những sự kiện hoặc những thứ làm thúc đẩy quá trình thay đổi
hành vi. Ví dụ, lời khuyên từ những người khác, tranh ảnh, các phương
tiện truyền thông đại chúng (yếu tố nhắc nhở)
 Trong giáo dục và nâng cao sức khỏe, xác định yếu tố nhắc nhở sẽ quyết

định hình thức cũng như phương pháp truyền thông giáo dục sức khỏe. Ví
dụ, mô hình giáo viên cắm bản của tác giả Hạc Văn Vinh [32] đã sử dụng
yếu tố thúc đẩy/nhắc nhở hành vi giáo dục sức khỏe vệ sinh môi trường và
chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các bà mẹ 15-49 có con < 5 tuổi.
1.3. Khái niệm về hóa chất bảo vệ thực vật và phƣơng tiện bảo vệ cá nhân
1.3.1. Hóa chất bảo vệ thực vật
Là danh từ chung để chỉ một chất hoặc một hợp chất bất kỳ có tác dụng
dự phòng, tiêu diệt hoặc kiểm soát các sinh vật gây hại kể cả các vector gây
bệnh cho người và động vật, các loại côn trùng khác hay động vật có hại trong
quá trình sản xuất, chế biến, dự trữ, xuất khẩu, tiếp thị lương thực, sản phẩm
trong nông nghiệp, sản phẩm của gỗ, thức ăn gia súc hoặc phòng chống các
loại côn trùng, ký sinh trùng [1].
1.3.2. Phương tiện bảo vệ cá nhân
Là những dụng cụ, phương tiện, trang thiết bị thiết yếu mà mỗi một
người lao động cần sử dụng trong khi làm việc và công tác để cơ thể không bị
tác động xấu của các yếu tố có hại phát sinh trong môi trường [1], [4].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
1.4. Hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật và các yếu tố liên quan
1.4.1. Thế giới
Theo nghiên cứu của tác giả Dilshad Ahmed Khan (2010) tại Parkistan,
số người có kiến thức tốt về sử dụng các phương tiện bảo vệ cá nhân phòng
nhiễm HCBVTV chiếm tỷ lệ thấp (14,6%), đa số kiến thức của người được hỏi
(55,4 %) không đạt yêu cầu [36]. Nghiên cứu tại Ethiopia và Campuchia cho
thấy, HCBVTV được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong nông nghiệp, thậm chí
có nhiều hóa chất độc hại đã bị cấm. Tuy nhiên, kiến thức của người dân về
HCBVTV còn thấp, đa phần người dân (67,4%) không hiểu các thông tin ghi
trên bao bì đựng hóa chất bảo vệ thực vật [50] và thậm chí có rất nhiều người

dân chưa qua đào tạo và đa số người dân mù chữ do đó họ không biết về những
tác hại cảnh báo cho người sử dụng ghi trên bao bì đựng HCBVTV [47].
Người canh tác nhận thức rõ tác hại của HCBVTV và đồng ý phải sử
dụng đầy đủ các biện pháp dự phòng nhiễm HCBVTV [38], phần lớn người
nông dân đồng ý nên sử dụng các phương tiện bảo vệ cá nhân khi canh tác
(99,2%) [50].
Việc thực hành các giải pháp dự phòng nhiễm HCBVTV của người lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp chưa cao, chỉ có 25% người sử dụng
HCBVTV mặc quần áo bảo hộ lao động và số người đeo găng tay trong quá
trình sử dụng HCBVTV cũng chiếm tỷ lệ không cao (43%) [34]. Theo nghiên
cứu của Hong Zhang và Yonglong Lu (2007) tại các tỉnh phía Bắc Trung
Quốc cho thấy hầu hết người dùng HCBVTV không sử dụng đầy đủ các biện
pháp phòng ngừa [49]. Tỷ lệ người nông dân sử dụng giày dép, mặt nạ và
găng tay khi tiếp xúc với HCBVTV thấp (31%, 14% và 9%) [36]. Số người
không bao giờ sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân nào tại thời điểm phun
HCBVTV cũng khá cao (22,1%), số không sử dụng mũ và không đeo kính
bảo hộ lao động chiếm tỷ lệ trên 50% (50,0% và 64,6%) [42] như vậy chứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
tỏ còn tỷ lệ rất lớn người dân chưa thực hiện các biện pháp cá nhân nhằm dự
phòng nhiễm HCBVTV.
Bên cạnh tỷ lệ sử dụng phương tiện bảo hộ lao động còn thấp thì tỷ lệ
người dân vẫn ăn uống trong khi làm việc với HCBVTV chiếm tỷ lệ cao
(79,4%). Có 64,0% người dân cất giữ HCBVTV không đảm bảo an toàn và tỷ
lệ cất giữ HCBVTV gần thức ăn chiếm tới 29,4%, chỉ có 66,9% người dân
thỉnh thoảng tắm rửa sau khi phun và có 2,9% người dân có thói quen không
thay quần áo sau khi phun HCBVTV [49].
Các nghiên cứu đã chỉ ra nhận thức của người dân về: ăn, uống, hút

thuốc lá không rửa tay; mặc quần áo lao động quá 1 ngày đều có liên quan
đến hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật [48]; nhận thức về rào
cản thực hiện hành vi dự phòng nhiễm HCBVTV và việc được đào tạo về dự
phòng nhiễm HCBVTV trong 5 năm liên quan có ý nghĩa thống kê với việc
thực hiện các hành vi dự phòng nhiễm HCBVTV của người dân [45].
1.4.2. Việt Nam
1.4.2.1. Kiến thức dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật tại Việt Nam
Phần lớn người canh tác chè biết HCBVTV có tác dụng diệt trừ sâu
bệnh chiếm 99,2% và gây nhiễm độc cho người chiếm tỷ lệ 93,4% tuy nhiên
số người biết đầy đủ tác dụng của HCBVTV chỉ chiếm 37,9% và số người
hiểu được đầy đủ cả các tác hại của HCBVTV chiếm 50,1% [13]. Điều này
chứng tỏ hiểu biết đầy đủ của người dân về HCBVTV còn sơ sài.
Theo nghiên cứu của các tác giả: Bùi Thanh Tâm, Vũ Quốc Hải, không
có người nào biết đầy đủ các màu sắc chỉ mức độ độc hại của nhãn lọ thuốc
hóa chất bảo vệ thực vật [6], [23]. Hơn nữa, người dân còn có quan điểm pha
thuốc trừ sâu với nồng độ cao sẽ có tác dụng diệt sâu bệnh tốt hơn, việc này
không những làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe
người dân mà còn làm sâu bệnh kháng thuốc và mất tác dụng của HCBVTV.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Người dân thường pha thuốc trừ sâu với nồng độ gấp 1,5 – 3 lần so với liều
lượng quy định [28].
Số người biết HCBVTV gây nhiễm độc cho người chiếm tỷ lệ cao
nhưng trên thực tế rất nhiều người dân không sử dụng các phương tiện phòng
hộ khi phun thuốc trừ sâu. Số người biết sử dụng khẩu trang để dự phòng
nhiễm HCBVTV chiếm tới trên 90% [5]. Tuy nhiên số người biết phải đeo
kính mắt chiếm tỷ lệ thấp với 32,2% và số người kể được đầy đủ tên các
phương tiện phòng hộ lao động như mũ nón, quần áo bảo hộ, găng tay, khẩu

trang, kính mắt,ủng chỉ chiếm tỷ lệ 22,3% [12].
Trong thực tế, chè thường được trồng thành luống và ở trên đồi nên
khi phun HCBVTV, người canh tác chè thường phun theo địa hình, hướng
trước mặt và đi theo luống chứ họ không để ý đến hướng gió, có trên 24%
người dân không quan tâm đến địa hình và hướng phun [30] mà chỉ muốn
phun sao cho thuận tiện và nhanh nhất. Theo tác giả Nguyễn Tuấn Khanh:
Số người dân trồng chè có hiểu biết đầy đủ cách chọn thời tiết mát để phun,
biết phun giật lùi, biết phun xuôi chiều gió đạt tỷ lệ thấp 29,6 % [13]. Việc
người dân không biết chọn thời tiết, hướng phun, hướng gió mà thường
phun một cách tùy tiện là yếu tố nguy cơ gây nhiễm HCBVTV rất cao.
1.4.2.2. Thái độ dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật
Trong các nghiên cứu đã thực hiện, phần lớn người canh tác chè có
thái độ tích cực đối với nhiễm HCBVTV. Họ luôn lo lắng cho sức khỏe của
chính mình và gia đình. Đa phần người dân đồng ý với việc nên cất
HCBVTV trong tủ riêng (62,19%). Tỷ lệ người dân có thái độ đồng ý với
việc luôn đeo khẩu trang, luôn mặc áo bảo hộ khi phun HCBVTV, thái độ
về việc đảm bảo thời gian cách ly giữa các lần phun, và thái độ không mua
nếu như nhãn mác HCBVTV không rõ ràng (hư hỏng) chiếm từ 93,53%
đến 97,01% [34].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Phần lớn người canh tác chè có tâm lý lo lắng khi sử dụng HCBVTV sẽ
ảnh hưởng đến sức khoẻ của bản thân (97,4%), và số người cho rằng cần thiết
phải sử dụng các loại phương tiện bảo vệ cá nhân, đồng ý với việc không thu
hoạch chè sớm sau phun nhằm dự phòng nhiễm HCBVTV cũng chiếm tỷ lệ
rất cao (98,7 %; 96,9%) [13].
1.4.2.3. Hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật
Người dân khi pha thuốc trừ sâu thường pha với nồng độ đậm đặc hơn

hướng dẫn và thường pha phối hợp nhiều loại thuốc trừ sâu với mong muốn
sẽ diệt trừ sâu bệnh tốt hơn. Theo nghiên cứu của Bùi Thanh Tâm tại huyện
Chí Linh (Hải Dương) có 29,6 % trường hợp pha HCBVTV đặc hơn chỉ dẫn,
47 % trường hợp pha trộn tuỳ tiện nhiều thứ HCBVTV khác nhau để diệt sâu
mạnh hơn [23]; tỷ lệ người dân thực hành đúng về việc không tự ý pha trộn
các loại HCBVTV với nhau rất thấp (7,69%) [32]; còn trong nghiên cứu của
Nguyễn Tuấn Khanh thì tỷ lệ người thực hành sử dụng hóa chất BVTV đúng
còn rất thấp chỉ chiếm 17,4 % và người dân thường trộn 2 - 3 loại thuốc vào
một bình trong lần phun, tỷ lệ trộn nhiều loại thuốc là 82,3 % [12]
Mặc dù có thái độ tích cực đối với nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật
nhưng trên thực tế các nghiên cứu cho thấy số lượng người canh tác chè sử
dụng các phương tiện bảo hộ trong quá trình phun thuốc trừ sâu còn thấp. Tỷ
lệ sử dụng đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân gồm mũ, găng tay, quần áo
bảo hộ, khẩu trang, kính mắt còn thấp (chiếm 6,5 %), nhưng tỷ lệ người phun
có sử dụng khẩu trang cao (92,2 %) [12]. Theo các tác giả Nguyễn Thị Hà,
Vũ Quốc Hải, Hoàng Hải tỷ lệ đeo khẩu trang trên 90 %, tỷ lệ sử dụng kính
mắt là 11,9 % [5], [6], [7]. Kết quả nghiên cứu về sử dụng đúng phương tiện
bảo hộ lao động ở người dân của Bùi Thanh Tâm là 57,0 % [23], Nguyễn Thị
Hà là 27,65 % [5].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Tỷ lệ người canh tác chè có thực hành đúng về thời điểm phun
HCBVTV và việc không tăng số lần phun quá mức qui định thấp (14,43% và
14,93%), và thực hành đúng về xử lý bao bì đựng HCBVTV không cao
(23,88%) [32]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Khanh thì số lượng người
canh tác chè vứt bao bì đựng HCBVTV lung tung hoặc dùng lại tương đối lớn
(21,8%) [12]. Điều này là một trong những nguyên nhân gây nhiễm
HCBVTV ra môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe người dân.

1.4.2.3. Các yếu tố liên quan đến hành vi dự phòng nhiễm hóa chất bảo vệ
thực vật
Theo tác giả K’ Vởi, Đỗ Văn Dũng [32] khi nghiên cứu về kiến thức,
thái độ và thực hành về HCBVTV cho thấy có sự liên quan giữa trình độ học
vấn của người dân; kiến thức và thái độ đúng về HCBVTV với thực hành
đúng về hóa chất bảo vệ thực vật của người nông dân trồng rau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
1.5. Khung lý thuyết nghiên cứu

Biến phụ thuộc
Biến độc lập
Đặc điểm đối tƣợng nghiên cứu
- Tuổi
- Giới
- Dân tộc
- Trình độ học vấn,
- Năm canh tác chè



Hành vi dự phòng
nhiễm HCBVTV
- Đeo kính mắt
- Sử dụng khẩu
trang
- Sử dụng găng tay
- Sử dụng mũ nón

- Mặc quần áo bảo
hộ lao động
- Tắm sau khi phun
- Không ăn uống,
hút thuốc trong khi
phun
Kiến thức ngƣời canh tác chè
- Ảnh hưởng của HCBVTV
- Đường lây nhiễm HCBVTV
- Biện pháp dự phòng nhiễm
HCBVTV




Thái độ của ngƣời canh tác chè
- Yếu tố nguy cơ nhiễm HCBVTV
- Hậu quả nhiễm HCBVTV
- Lợi ích thực hiện hành vi dự phong
- Yếu tố rào cản khi thực hiện hành vi
dự phòng




TT-GDSK
- Phương tiện truyền thông
- Nội dung TT
- Năng lực cán bộ TT
- Chính sách hỗ trợ




×