Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

tìm hiểu phần mở đầu trong truyện ngắn nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.67 KB, 134 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o0o



TRẦN THU HOÀI




TÌM HIỂU PHẦN MỞ ĐẦU
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ






THÁI NGUYÊN, NĂM 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


i
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
o0o



TRẦN THU HOÀI




TÌM HIỂU PHẦN MỞ ĐẦU
TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO


CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ : 60 22 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HÀ QUANG NĂNG



THÁI NGUYÊN, NĂM 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
khảo sát, điều tra, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố
ở bất kì công trình nào khác.


Tác giả



TRẦN THU HOÀI
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã nhiệt tình chỉ bảo cho
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Hà Quang Năng, người
đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các anh chị đồng nghiệp,
các bạn học viên trong lớp đã động viên, chia sẻ và giúp đỡ tôi hoàn thành
công trình nghiên cứu đầu tay này.


TÁC GIẢ



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
MỤC LỤC
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
Mục lục iv
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 9
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 9
1.1 Đoạn văn và đoạn văn mở đầu 9

1.1.1 Khái niệm về đoạn văn 9
1.1.2 Khái niệm về đoạn mở đầu 12
1.2 Quan niệm về phần mở đầu của văn bản truyện ngắn 13
1.2.1. Quan niệm về phần mở đầu của văn bản 13
1.2.2. Quan niệm về phần mở đầu của truyện ngắn 17
1.3. Liên kết và mạch lạc 24
1.3.1. Khái niệm về liên kết 24
1.3.2 Khái niệm về mạch lạc 27
Tiểu kết 33
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẦN MỞ ĐẦU TRONG TRUYỆN
NGẮN NAM CAO 34
2.1 Kết quả khảo sát phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao. 34
2.2 Đặc điểm hình thức của phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao 41
2.2.1. Phần mở đầu có hình thức bình thường 42
2.2.2 Phần mở đầu có hình thức đặc biệt 52
2.3 Đặc điểm ngữ nghĩa của phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao 57
2.3.1 Phần mở đầu trực tiếp 57
2.3.2 Phần mở đầu gián tiếp 60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
Tiểu kết 64
CHƢƠNG 3. CHỨC NĂNG CỦA PHẦN MỞ ĐẦU VÀ QUAN HỆ CỦA
NÓ VỚI BỘ PHẬN KHÁC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO 65
3.1 Chức năng của phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao 65
3.1.1 Chức năng chỉ dẫn về thời gian, không gian nghệ thuật 65
3.1.2 Chức năng chỉ dẫn về hình tượng nhân vật 70
3.1.3 Chức năng dẫn dắt mạch lạc cho cốt truyện 76
3.1.4 Chức năng chỉ dẫn về phong cách nghệ thuật của tác giả Nam Cao. 80

3.2. Quan hệ của phần mở đầu với các bộ phận khác trong truyện ngắn
Nam Cao 85
3.2.1. Quan hệ của phần mở đầu với đầu đề tác phẩm 85
3.2.2. Quan hệ của phần mở đầu với đoạn văn tiếp 90
Tiểu kết 97
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ những năm 40 của Thế kỉ XX, đoạn văn đã được các nhà nghiên
cứu quan tâm trên nhiều góc độ. Các công trình đã nghiên cứu chủ yếu về
hình thức, nội dung mà ít chú ý đến chức năng của đoạn văn, nhất là đoạn văn
mở đầu trong văn bản.
Trong văn bản, đoạn văn mở đầu có vai trò rất quan trọng trong quá trình
triển khai chủ đề. Bên cạnh đó, tùy theo loại hình văn bản, mỗi đoạn văn mở
đầu có những đặc điểm riêng về hình thức cấu tạo, nội dung, chức năng và
quan hệ… Vì vậy nghiên cứu đoạn văn mở đầu sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc
hơn về bản chất của đơn vị này trong văn bản nói chung và từng thể loại văn
bản nói riêng, góp phần tìm hiểu quy tắc xây dựng văn bản, lý giải quan hệ
ngữ nghĩa của các bộ phận trong chỉnh thể văn bản.
1.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi nghệ thuật rất gần với đời sống
hàng ngày. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và ở nước ta đã đạt đến đỉnh cao

của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn xuất sắc
của mình. Đối với đội ngũ sáng tác, truyện ngắn mang rõ các chất của người
viết, thể hiện phong cách, dấu ấn cá nhân của người viết.
So với nhiều thể loại văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn Việt Nam là thể
loại phát triển nhanh và thu được nhiều thành tựu nhất. Đặc biệt giai đoạn
1930-1945 là giai đoạn bùng nổ truyện ngắn Việt Nam với những phong cách
viết truyện ngắn độc đáo như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyễn Tuân,
Bùi Hiển… những nhà văn góp phần tạo cho truyện ngắn Việt Nam một diện
mạo mới.
1.3. Nam Cao là một nhà văn xuất sắc về thể loại truyện ngắn trong giai
đoạn 1930-1945, ông đã hình thành nên một phong cách viết văn riêng với rất
nhiều tác phẩm, nhân vật đi vào lòng người đọc. Đã có rất nhiều công trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
nghiên cứu về Nam Cao, tuy nhiên việc nghiên cứu phần mở đầu trong các
truyện ngắn của Nam Cao chưa được quan tâm nhiều trong các công trình
nghiên cứu văn học cũng như ngôn ngữ học. Để góp phần vào các công trình
nghiên cứu về nhà văn Nam Cao, về đặc điểm truyện ngắn Nam Cao với tên
luận văn là: “Khảo sát phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao” .Trong
luận văn này chúng tôi sẽ tập trung làm nổi bật những đặc điểm cơ bản của
phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao.
1.4. Xét về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu thành công phần mở đầu
trong truyện ngắn Nam Cao sẽ góp phần giúp bạn đọc có cái nhìn toàn
diện hơn về truyện ngắn Nam Cao và sẽ có một cách cảm nhận mới mẻ
hơn về nội dung, phong cách nghệ thuật của nhà văn Nam Cao. Chúng tôi
cũng mong kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những gợi mở cho việc
khai thác vai trò, ý nghĩa của phần mở đầu trong việc dạy học văn bản
truyện ngắn trong nhà trường.

2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về đơn vị mở đầu văn bản
Khi bàn về đơn vị mở đầu văn bản các nhà nghiên cứu thường gọi đó là
“phần mở đầu văn bản”, còn cách gọi “đoạn văn mở đầu” thì ít dùng hơn.
I.R.Galperin (1981) trong khi bàn về tính khả phân của văn bản, đã nói
rõ vai trò của phần mở đầu mà ông cho mà ông gọi là “tiền văn bản” như sau:
“Đặc trưng văn bản của những lời nói đầu, nhập đề, mào đầu là tính tự nghĩa
tương đối của chúng. Có thể gọi chúng là tiền văn bản. Tuy nhiên chúng vẫn
là bộ phận của chỉnh thể: tách khỏi bản thân tác phẩm thì không tồn tại lời nói
đầu.” [17, tr 123].
Ở Việt Nam, Diệp Quang Ban (1998), khi bàn đến việc phân đoạn văn
bản cũng đã có đề cập đến đoạn văn, trong đó có đoạn văn mở. Theo tác giả,
trong loại văn bản cỡ vừa, đoạn văn mở làm nhiệm vụ của phần mở [6, tr

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
213]. Tác giả lưu ý: “Cần phân biệt đoạn văn mở của một bài viết chặt chẽ với
việc trình bày mở đầu, thường là của bài nói miệng, về một sự vật, sự việc,
vấn đề” [6, tr215].
Nguyễn Quang Ninh (1993) trong một quyển sách hướng dẫn thực hành
xây dựng đoạn văn cũng sử dụng thuật ngữ “đoạn văn mở” và đề cập đến
chức năng của đoạn văn mở đầu, các kiểu mở đầu: “Đoạn văn mở đầu cần
phải giới thiệu được nội dung cơ bản của bài viết, tạo điều kiện tốt cho việc
viết phần phát triển (phần thân bài, phần chính). Đoạn văn mở đầu có 2 loại:
mở trực tiếp và mở gián tiếp [37, tr36].
Phan Mậu Cảnh (2005) thì bàn về tính đặc thù và tính thống nhất của
đoạn văn mở đầu trong các loại văn bản khác nhau. Tác giả viết: “Đoạn văn,
trong đó có đoạn văn mở đầu, là một phần của văn bản; văn bản thuộc phong
cách khác nhau thì cách mở đầu cũng không giống nhau. Tuy vậy, chúng vẫn

có những điểm chung, nhất là vai trò, chức năng của chúng trong cấu trúc
chung của văn bản”. [12,tr244]
2.2. Về đơn vị mở đầu truyện ngắn.
Trong các công trình nghiên cứu về truyện ngắn, giới sáng tác và nghiên
cứu mới tập trung khai thác các khía cạnh như quan niệm về thể loại, cốt
truyện, nhân vật, tình huống, sự kiện… mà ít chú ý đến chức năng của các
đơn vị tạo nên truyện như đoạn văn mở đầu, đoạn văn ở giữa và đoạn văn kết
thúc…, nhất là đoạn văn mở đầu văn bản. Tuy nhiên cũng đã có một số ý kiến
khẳng định vai trò của đơn vị mở đầu văn bản. Chẳng hạn, A.Tsêkhôp, nhà
văn Nga bậc thầy về truyện ngắn khẳng định: “Theo tôi, viết truyện ngắn cốt
nhất phải tô đậm cái mở đầu và kết luận” [dẫn theo 35, tr92]. Nói về kinh
nghiệm viết truyện ngắn, Y.U. Nagibin , nhà văn hiện đại Nga, cũng cho rằng:
“… nên nghĩ cho kĩ về mở đầu và kết luận”, “… cần phải nhớ rằng đoạn mở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
đầu và đoạn cuối tác phẩm là một cái gì tinh tế, phức tạp, yêu cầu chú ý thật
cao”. [ dẫn theo 33, tr121]
Ở Việt Nam, dưới góc độ thi pháp học, Trần Đình Sử đã tìm hiểu về
phần mở đầu trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan. Tác giả thừa nhận
kết cấu 3 phần của văn bản và từ mô hình kết cấu này chỉ ra các phương tiện
tu từ văn bản được thể hiện trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như:
Rút gọn phần mở đầu, mở rộng phần mở đầu, rút gọn phần kết thúc… [44,
tr35]. Phần mở đầu trong truyện ngắn đã được tác giả quan tâm đến nhưng chỉ
trên phương diện là biện pháp tu từ văn bản.
Tác giả Đinh Trọng Lạc, từ góc độ tu từ văn bản, đã phân tích một số
đặc điểm của “lời mở đầu”. Ông cho rằng: trong văn học dân gian truyền
miệng, phần mở đầu luôn có một nội dung đầy đủ, trọn vẹn và cô đúc…,
“Trong các tác phẩm văn xuôi ngày nay – khác với tác phẩm văn học dân gian

ngày xưa – phần mở đầu thường không được viết tập trung, mà trải dài trong
suốt cả một đoạn cắt khá lớn”. [28, tr12,13].
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu chính là: phần mở đầu trong
truyện ngắn Nam Cao
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc điểm về hình thức, ngữ nghĩa
của phần mở đầu trong truyện ngắn Nam Cao. Trên cơ sở đó chỉ ra những
chức năng cơ bản của phần mở đầu đối với việc triển khai thế giới nghệ thuật,
tư tưởng của tác phẩm cũng như việc thể hiện giọng điệu, phong cách nghệ
thuật của nhà văn.
Xác định đối tượng nghiên cứu như trên, luận văn tập trung khảo sát trên
phạm vi 55 truyện ngắn được in trong: Tuyển tập Nam Cao,NXB Thời Đại, 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Danh sách các tác phẩm trong Tuyển tập Nam Cao, nhà xuất bản
Thời đại, 2010
1. Nghèo
2. Đui mù
3. Cái chết của con mực
4. Chí Phèo
5. Cái mặt không chơi được
6. Nhỏ nhen
7. Con mèo
8. Những truyện không muốn viết
9. Nhìn người ta sung sướng
10. Đòn chồng

11. Giăng sáng
12. Đôi móng giò
13. Trẻ con không được ăn thịt chó
14. Đón khách
15. Mua nhà
16. Quái dị
17. Từ ngày mẹ chết
18. Làm tổ
19. Thôi, đi về
20. Truyện tình
21. Mua danh
22. Một truyện xú-vơ-nia
23. Tư cách mõ
24. Điếu văn
25. Một bữa no

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
26. Ở hiền
27. Lão Hạc
28. Rửa hờn
29. Rình trộm
30. Lang rận
31. Một đám cưới
32. Nửa đêm
33. Dì Hảo
34. Đời thừa
35. Sao lại thế
36. Cười

37. Quên điều độ
38. Nước mắt
39. Bài học quét nhà
40. Xem bói
41. Mò sâm-banh
42. Nỗi truân chuyên của khách má hồng
43. Đường vô Nam
44. Đợi chờ
45. Ở rừng
46. Đôi mắt
47. Những bàn tay đẹp ấy
48. Trên những con đường Việt Bắc
49. Từ ngược về xuôi
50. Bốn cây số cách một căn cứ địch
51. Vui dân công
52. Trần Cừ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
53. Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng
54. Hội nghị nói thẳng
55. Định mức
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu một cách cụ thể đặc điểm phần mở
đầu truyện ngắn của nhà văn Nam Cao trên các mặt hình thức, ngữ nghĩa,
chức năng. Trên cơ sở đó hướng đến việc làm rõ chức năng chỉ dẫn của đoạn
văn mở đầu đối với kết cấu, ý nghĩa tác phẩm cũng như việc thể hiện phong
cách nghệ thuật của tác giả. Để thực hiện mục đích này, luận văn có những

nhiệm vụ sau:
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng tiêu trí xác định phần mở đầu của văn bản nói chung, văn
bản truyện ngắn nói riêng.
- Tìm hiểu đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa, phần mở đầu truyện ngắn của
Nam Cao để thấy được những đặc trưng cơ bản của phần mở đầu truyện ngắn
nói chung và mở đầu truyện ngắn Nam Cao nói riêng.
- Tìm hiểu chức năng chỉ dẫn của phần mở đầu trên cơ sở đặt chúng
trong mối quan hệ với các phần khác của tác phẩm:
+ Tìm hiểu block sự kiện mở đầu, các tiêu điểm nghĩa có tính chất chỉ
dẫn trong mối quan hệ với các block sự kiện khác trong truyện.
+ Tìm hiểu vai trò của phần mở đầu đối với kết cấu, ý nghĩa, thế giới
nghệ thuật của tác phẩm cũng như phong cách tác giả theo quan hệ mạch lạc
về ngữ nghĩa, chức năng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với một lượng lớn các tác phẩm và mục đích nghiên cứu như trên, luận
văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại: Chúng tôi đã tiến hành
khảo sát 55 truyện ngắn của Nam Cao. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành
thống kê rồi phân loại phần mở đầu của mỗi truyện ngắn vào những nhóm
thích hợp theo đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa mà chúng biểu hiện.
- Phương pháp phân tích văn bản: Trên cơ sở kết quả khảo sát thống kê,
phân loại và đặt trong những ngữ cảnh tu từ cụ thể, chúng tôi tiến hành phân
tích các đặc điểm về hình thức, ngữ nghĩa cũng như các chức năng chỉ dẫn
của phần mở đầu đối với văn bản tác phẩm, phong cách tác giả.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Để làm sáng tỏ các đặc điểm hình

thức, ngữ nghĩa, cũng như các chức năng cơ bản của phần mở đầu trong
truyện ngắn Nam Cao, Chúng tôi đã phối hợp một số phương pháp nghiên
cứu thuộc các chuyên ngành lý luận văn học và thi pháp học.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu đặc điểm của phần mở đầu truyện ngắn của nhà văn
Nam Cao có thể có những đóng góp sau:
- Góp phần làm sáng rõ những đặc trưng cơ bản của phần mở đầu truyện
ngắn của nhà văn Nam Cao.
- Thấy được vai trò, ý nghĩa của phần mở đầu đối với việc triển khai nội
dung tư tưởng cũng như nghệ thuật tác phẩm.
- Nêu lên được những đóng góp của nhà văn Nam Cao trong việc cách
tân thể loại trên phương diện hình thức cũng như nội dung.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn trên gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Đặc điểm của phần mở đầu trong truyện ngắn của Nam Cao.
Chương 3: Chức năng của phần mở đầu và quan hệ của nó với các bộ
phận khác trong truyện ngắn Nam Cao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN

Ở chương này chúng tôi sẽ đề cập đến những lí luận có liên quan trực
tiếp làm cơ sở cho đề tài như: các quan niệm về đoạn văn, đoạn văn mở đầu,
phần mở đầu của văn bản đã được các nhà nghiên cứu đưa ra. Trên cơ sở đó,

chúng tôi đưa quan niệm của mình về phần mở đầu của truyện ngắn. Tiếp
theo, trong một chừng mực nhất định chúng tôi cũng đề cập các vấn đề về
mạch lạc, liên kết. Đây sẽ là nền tảng lý thuyết để chúng tôi tiến hành nghiên
cứu ở các chương tiếp theo.
1.1 Đoạn văn và đoạn văn mở đầu
1.1.1 Khái niệm về đoạn văn
Trong các công trình nghiên cứu về văn bản, các nhà nghiên cứu đã
dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để gọi tên đơn vị trung gian giữa câu và văn
bản: A.M. Pexcopxki (1994) gọi là “đoạn văn”, L.A. Bulakhopxki (1952) gọi
là “thể thống nhất trên câu”, N.S. Paspelop (1946) gọi là “chỉnh thể cú pháp
thích hợp”… Các nhà Việt ngữ học như Trần Ngọc Thêm (1984) gọi là “đoạn
văn”, Nguyễn Quang Ninh, Hoàng Dân (1994) gọi là “chỉnh thể trên câu”…
Ở đây, chúng tôi chỉ điểm lại các quan niệm coi đơn vị trung gian giữa câu và
văn bản là “đoạn văn”.
L.G. Fritman cho rằng: “đơn vị cú pháp trên câu có bộ các dấu hiệu
tương thích khu biệt nó về mặt phẩm chất với những đơn vị thuộc cấp độ thấp
hơn – các câu – đó là đoạn văn” [33, tr47]
Theo Trần Ngọc Thêm, đoạn văn “là một bộ phận của văn bản, gồm
một chuỗi phát ngôn được xây dựng theo một cấu trúc và một nội dung nhất
định (đầy đủ hoặc không đầy đủ), được tách ra theo một cách hoàn chỉnh về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
hình thức: ở dạng nói, nó có có những kiểu ngữ điệu nhất định và kết thúc
quãng ngắt hơi dài; ở dạng viết, nó bắt đầu bằng dấu mở đoạn (gồm thụt đầu
dòng + viết hoa) và kết thúc bằng dấu ngắt đoạn (gồm dấu ngắt phát ngôn +
xuống dòng)” [41]. Như vậy, theo quan niệm của Trần Ngọc Thêm, đoạn văn
là đơn vị luôn có hình thức hoàn chỉnh, rõ ràng và thể hiện những nội dung
nhất định – có thể hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh.

Diệp Quang Ban trong Giao tiếp – Diễn ngôn và cấu tạo của văn bản
cũng đề xuất cách hiểu về đoạn văn: “Đoạn văn thuộc ngôn ngữ viết và được
hiểu là một phần của văn bản tính từ chỗ viết hoa, thường lùi vào ở đầu dòng,
cho đến chõ dấu chấm xuống dòng” [8,tr403]. Ở đây, đoạn văn được hiểu
thuộc về phương diện cấu trúc – phong cách.
Nguyễn Minh Thuyết trong cuốn Tiếng việt thực hành cho rằng: “Đoạn
văn là đơn vị cơ sở để tổ chức văn bản, thường gồm một số câu gắn bó với
nhau trên cơ sở một chủ đề bộ phận, cùng nhau phát triển chủ đề đó theo định
hướng giao tiếp chung của văn bản” [54,tr68]. Ở đây đoạn văn được hiểu là
thành phần cấu thành chỉnh thể của văn bản.
Về kích thước, đoạn văn có thể dài hoặc ngắn, có thể bao gồm nhiều
câu, hoặc chỉ một câu và câu này có thể là câu một từ, hoặc cũng gặp đoạn
văn được làm thành từ một “câu” không trọn vẹn. Loại đoạn văn chỉ bao gồm
một câu thường xuất hiện trong văn bản nghệ thuật bởi chúng mang đậm màu
sắc tu từ. Chẳng hạn, đoạn trích sau đây gồm ba đoạn:
“Anh càng hết sức để hát, để đàn và để…không ai nghe.
Bởi vì…
Đường càng vắng ngắt. Thỉnh thoảng, những chiếc xe cao su kín mít
như bưng, lép nhép chạy uể oải…”
[Nguyễn Công Hoan]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Về đại thể, đoạn văn thường được định vị trong một khổ viết – tức nằm
giữa hai dấu chấm xuống dòng và có ba bộ phận câu thành chính:
- Câu chủ đề có nhiệm vụ giới thiệu đối tượng, chủ đề sẽ được đề cập,
thảo luận trong đoạn văn. Trong nhiều trường hợp, câu chủ đề chính là câu
thể hiện luận điểm của đoạn văn.
- Các câu triển khai có nhiệm vụ thuyết minh, luận giải cho chủ đề.

- Câu kết báo hiệu đoạn văn kết thúc, lưu ý người đọc những điểm
chi tiết cốt yếu của đoạn văn đồng thời có thể chuẩn bị cho đoạn văn tiếp
theo.Ví dụ:
“Một ngày của cha tôi bắt đầu vào lúc bốn giờ. Cha tôi dậy sớm để nấu
cơm, nấu nước, rồi sắp vào cái khay con, một đôi đũa một cái bát…xong hết
mới gọi tôi dậy ăn. Cha đã để sẵn nước sôi trong nhà tắm, dắt sẵn xe đạp ra
ngoài sân…Làm xong hết những việc ấy, cha đi học bài.”
[Phan Thị Vàng Anh – Cha tôi]
Tuy nhiên trong thực tế, không phải đoạn văn nào cũng có đầy đủ ba bộ
phận cấu thành như vậy. Bởi, như trên đã nói, có những đoạn văn chỉ bao
gồm một câu, có đoạn văn không có câu kết, đôi khi các bộ phận cấu thành
của một đoạn văn lại được phân bố ở hơn một khổ viết.Ví dụ:
“Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.
Gió.
Mưa.
Não nùng.”
[Nguyễn Công Hoan – Anh Xẩm]
Ở ví dụ trên, một chuỗi câu đơn thoại cùng nêu một chủ đề được ngắt
dòng nhiều lần, mỗi lần chỉ có một câu và nhiều câu đó mới tạo thành một
đoạn văn hoàn chỉnh.
Theo O.I. Moskalskaja, “việc phân chia văn bản hoàn chỉnh thành
các đoạn văn phản ánh vận động logic từ một tiểu chủ đề này sang một tiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
chủ đề khác. Nó có tính chất tuyến tính, nếu như các tiểu chủ đề ngang
nhau về mặt ý nghĩa” [33, tr121]. Như vậy, việc nhận diện đoạn văn và xác
định ranh giới giữa các đoạn văn chủ yếu nên dựa vào khả năng biểu đạt
chủ đề của đoạn. Bởi việc đánh dấu ranh giới bằng cách lùi vào một chữ

khi bắt đầu một đoạn văn viết ở đây phải tương ứng với việc đánh dấu
chuyển chủ đề của đoạn văn.
Sau khi xét đoạn văn trên cả phương diện cấu trúc lẫn chức năng, tác
giả Lê Thị Thu Bình đã đề xuất cách hiểu về đoạn văn như sau: “Đoạn văn là
đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng biểu đạt một chủ đề”. [11, tr29] Đây là
một cách hiểu có thể được chấp nhận và có tính sư phạm cao. Trong luận văn
này, chúng tôi sẽ sử dụng quan niệm trên của Lê Thị Thu Bình để phân chia
văn bản tác phẩm - mà cụ thể là phần mở đầu - thành những đoạn văn trong
trường hợp cần thiết.
1.1.2 Khái niệm về đoạn mở đầu
Một số nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về các đơn vị cấu thành văn bản đã
đưa ra quan niệm về đoạn văn mở đầu. Chẳng hạn, dựa vào tiêu chí chức
năng, Nguyễn Quang Ninh phân chia đoạn văn thành các loại như sau: đoạn
văn mở đầu, đoạn văn kết, đoạn văn nối, và đoạn văn phát triển. Đồng thời,
ông cũng đã chỉ ra chức năng, nhiệm vụ của đoạn văn tương ứng với các kiểu
mở đầu: mở trực tiếp và mở gián tiếp. Thống nhất ý kiến của các nhà nghiên
cứu về đoạn văn mở đầu có thể thấy:
Về mặt hình thức, đoạn văn mở đầu là bộ phận đầu tiên xuất hiện trong
văn bản thể hiện một chủ đề tương đối trọn vẹn được tách biệt với các đoạn
văn còn lại của văn bản.
Về mặt nội dung, đoạn văn mở đầu thường dùng để nêu chủ đề, giới
thiệu khung cảnh chung của văn bản. Ví dụ: đoạn mở đầu sau có chức năng
khái quát chủ đề:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
“Tiệm may Sài gòn không ở Sài Gòn không ở Cali. Tôi đứng chờ chắn
tàu ở đầu đường Khâm Thiên, ghi đông xe của tôi ngoắc vào mẹt của chị
hàng thuốc trên vỉa hè, chị hàng thuốc chửi tôi là đồ con gì, lúc đấy tôi thấy

cái biển to tướng trên đầu chị ta: “Tiệm may Sài Gòn, dạy cắt may các kiểu
nam nữ hợp thời trang”, mở ngoặc bên dưới là có com-lê, vét-tông, áo dài.”
[Phạm Thị Hoài – Tiệm may Sài Gòn]
Theo cách nhìn nhận trên thì mỗi văn bản nói chung, văn bản truyện
ngắn nói riêng đều có đoạn mở đầu. Tùy thuộc vào dụng ý nghệ thuật của nhà
văn mà đoạn mở đầu có thể có hình thức bình thường hay đặc biệt. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, không phải bao giờ đoạn mở đầu cũng là phần mở đầu của văn
bản truyện ngắn. Vấn đề này chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ ở những mục sau.
1.2 Quan niệm về phần mở đầu của văn bản truyện ngắn
1.2.1. Quan niệm về phần mở đầu của văn bản
“Các loại văn bản có thể có kết cấu khác nhau (…) nhưng nếu không kể
một vài loại văn bản đặc thù thì về đại thể một văn bản thường có ba phần
chính: phần mở đầu, phần khai triển, phần kết thúc” [54, tr7]. Văn bản có ba
phần là một loại văn bản có tính chất cổ điển, chúng có khuôn hình mềm dẻo
và được dùng rộng rãi trong nhà trường.
Quan niệm về bố cục ba phần của văn bản bắt nguồn từ một khái niệm
“một hành động thống nhất” làm thành một tổng thể của Aristote: Tạo ra một
tổng thể có một phần mở đầu, một phần giữa, và một phần kết thúc.
Việc phân chia văn bản thành bố cục ba phần (cấu tạo hình thức) sẽ
phản ánh cấu trúc nội dung (mặt ý nghĩa) của văn bản. “Sự phân chia thành ba
phần này có những căn cứ xác định:
- Căn cứ vào cấu trúc nội dung (ý nghĩa chung) của toàn văn bản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
- Căn cứ vào vai trò về mặt ý nghĩa của từng phần với những phần còn
lại, tức là căn cứ vào chức năng nghĩa của mỗi phần trong cấu trúc nội dung
của toàn văn bản” [7, tr60].
Theo Diệp Quang Ban, ngoài ba phần kể trên, văn bản cũng thường có

một đầu đề đứng đầu văn bản. Như vậy, một văn bản theo kiểu khuôn hình
không cố định thường gặp, nhìn chung, gồm có bốn yếu tố: đầu đề, phần mở
đầu, phần thân, phần kết.
Ta có thể thấy, theo quan niệm thông thường nhất, mỗi văn bản bao giờ
cũng có phần mở đầu. Phần mở đầu và phần kết thúc là những “vị trí mạnh”
trong văn bản. Aristote khi xem xét mối tương quan giữa phần mở đầu và
phần kết thúc của văn bản cho rằng: “Một phần mở đầu là cái mà không cần
thiết phải tiếp theo sau một cái khác, và sau nó thấy có hoặc đi đến tạo ra một
cái khác một cách tự nhiên. Một phần kết thúc, trái lại, là cái tự nhiên đi sau
một cái khác do sự cần thiết hoặc trong phần lớn trường hợp là như vậy, vầ
sau nó không có gì nữa” [dẫn theo7, tr59]. Nhận định này của Aristote đã
cung cấp cho ta dấu hiệu hình thức để ta nhận biết vị trí xuất hiện của phần
mở đầu trong văn bản.
Về mặt cấu tạo, phần mở đầu có thể chỉ bao gồm một câu. Chẳng hạn,
một văn bản nhỏ như lời nhắn ghi trên giấy giắt lại cửa nhà một người bạn chỉ
gồm vài ba câu nối tiếp nhau vẫn có thể là một văn bản gồm ba phần, phần
mở có thể chỉ là một câu đứng đầu, phần kết có thể là một câu đứng cuối. Ví
dụ: “Mình đến gặp bạn có chút việc. Tuần tới bọn mình tổ chức về quê X
chơi. Chúng mình muốn rủ bạn cùng đi, không biết ý bạn thế nào. Hy vọng
bạn sẽ cho bọn mình biết sớm” [7, tr60]. Với một văn bản đủ lớn (chẳng hạn,
bài viết của học sinh), phần mở đầu và phần kết của văn bản thường là một
đoạn văn. Với những văn bản lớn hơn như một bài nghiên cứu, một cuốn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
sách, phần mở đầu có thể là một chương với sự phân chia thành các mục có
tiêu đề cụ thể.
Diệp Quang Ban, khi xem xét mặt chức năng của phần mở đầu của văn
bản, đã cho rằng: “Phần mở đầu của văn bản có chức năng làm rõ đầu đề của

văn bản và định hướng cho sự phát triển nội dung nêu ở phần thân” [7, tr62].
Nguyễn Minh Thuyết cũng nhất trí cho rằng: “Phần mở đầu thường gồm một
số nhận định khái quát về những vấn đề sẽ được trình bày, nêu lên chủ đề
chung và các chủ đề bộ phận. Đồng thời (…) có thể nêu vắn tắt phương
hướng hay những nguyên tắc được chọn làm cơ sở để giải quyết vấn đề” [54,
tr7]. Ví dụ:
Tên thật hắn rất hiền lành. Rự, Lê Văn Rự. Hắn làm trương tuần nên
người ta gọi hắn là trương Rự. Nhưng từ ngày hắn xoay sang làm nghề ăn
cướp thì hắn thành ông Thiên lôi. Cái tên ghê gớm ấy nguyên do là nó thế
này: Những khi bọn an hem tụ tập để bàn định tìm một nhà nào để đánh, Rự
không bao giờ bàn một tiếng, hắn chỉ chúi đầu vào uống rượu và ăn cơm;
cơm rượu rồi, hắn lừ mắt ra, cầm cái tăm xiên vào từng kẽ răng rồi thỉnh
thoảng lại rút hẳn ra mà mút; cứ như thế cho đến lúc người ta quyết định rồi,
giao cho hắn việc gì là hắn vất tăm xuông đất, rũ quần đứng lên và theo lệnh
của anh em. Người ta bảo cái ông thiên tướng và tầm sét cũng hành động
theo kiểu ấy, ông chẳng có quyền tự mình đánh chết ai; ông chỉ biết theo
mệnh trời, chỉ đâu đánh ấy. Chỉ đâu đánh ấy chính là cái thái độ thằng
trương Rự. Bọn ăn cướp gọi đùa hắn là Thiên lôi. Từ đó thành tên; cái tên lan
đi, cả làng Vũ Đại không ai không biết. Nhưng không biết cái lai lịch trên kia;
họ cắt nghĩa mỗi người một khác. Người thì bảo hắn hung tợn và nóng tính;
người khác thì lại bảo bởi cái tiếng hắn choang choang. Thật ra thì hắn ít
nói: lúc hắn nói, người ta nghe như quát; khi hắn quát; người ta tưởng là sấm
sét; thôi thì cứ sôi lên sung sục như cơn nóng giận của Thiên lôi vậy.
[Nam Cao – Nửa đêm]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Ở truyện ngắn trên, tác giả đã mở đầu theo lối khái quát chủ đề, tư
tưởng của truyện ngắn ngay trong đoạn đầu tiên của văn bản. Từ sự khái quát

về chủ đề gắn với đầu đề truyện, người kể chuyện đã khéo léo dẫn dắt người
đọc vào câu chuyện chính. Cách mở đầu này có tác dụng định hướng cách đọc
và tư duy cho độc giả.
Như vậy, thông qua những ý kiến có tính khái quát của các nhà nghiên
cứu, có thể ghi nhận ba yếu tố thuộc về nội dung của phần mở đầu như sau:
- Nêu đề tài - chủ đề được đề cập.
- Nêu khung cảnh chung của đề tài – chủ đề.
- Nêu hướng triển khai đề tài – chủ đề của văn bản.
Tuy nhiên, về chi tiết, nội dung phần mở đầu văn bản lệ thuộc vào
kiểu thể loại văn bản và cho dù có sự khác nhau thế nào thì phần mở đầu
vẫn phải viết sao cho ngắn gọn, hấp dẫn, thu hút được sự chú ý và hứng
thú ở người đọc.
Cho đến nay, dùng để chỉ đơn vị mở đầu của văn bản, các nhà nghiên
cứu vẫn sử dụng song song hai thuật ngữ: “phần mở đầu” hoặc “đoạn mở
đầu”. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thuật ngữ “đoạn mở đầu” thiên về mặt cấu
trúc hình thức hơn là mặt chức năng, ngữ nghĩa của đơn vị mở đầu khi xem
xét chung trong mối tương quan với cấu trúc chung của một văn bản. Trong
thực tế không phải bao giờ “đoạn mở đầu” cũng tương ứng (1-1) với phần mở
đầu của văn bản. Theo chúng tôi, chính thuật ngữ “phần mở đầu” đã phản ánh
chính xác bản chất của đơn vị mở đầu về cả hình thức lẫn chức năng, ngữ
nghĩa cũng như tạo ra một sự thống nhất cao khi xem xét mối tương quan
giữa đơn vị mở đầu với các đơn vị khác trong vai trò cấu thành sự hoàn chỉnh
của văn bản.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Căn cứ vào ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng ta có thể đưa
ra cách hiểu chung nhất về phần mở đầu của văn bản như sau:
Về mặt hình thức: phần mở đầu của văn bản là phần xuất hiện đầu tiên

trong văn bản , nó có thể gồm một câu văn, một đoạn văn hay nhiều đoạn,
nhiều phần, hoặc là một chương của cuốn sách, điều đó phụ thuộc vào đặc
trưng của từng loại phong cách văn bản.
Về mặt nội dung - chức năng: phần mở đầu thường nêu lên đề tài -
chủ đề, khung cảnh chung của đề tài - chủ đề hay phương hương triển khai
cho đề tài - chủ đề của văn bản. Thực hiện nhiệm vụ cụ thể nào, có những
biến đổi thích ứng ra sao là tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể của từng loại
phong cách văn bản.
1.2.2. Quan niệm về phần mở đầu của truyện ngắn
1.2.2.1. Theo Yu. Lotman “văn bản không hướng đến kết thúc mà
hướng đến mở đầu. Vấn đề căn bản không phải là “kết thúc bằng cách nào”
mà là “mọi chuyện bắt đầu từ đâu” [57, tr194].
Trong công trình nghiên cứu nổi tiếng Kết cấu tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ, Yu. Lotman đã đưa ra nhiều kiến giải thú vị về vấn đề kết cấu - cấu
trúc của tác phẩm nghệ thuật. Ông cho rằng “khung khổ của tác phẩm văn học
được tạo thành từ hai yếu tố: mở đầu và kết thúc” [57, tr193]. Trong đó “nhân
tố mở đầu có chức năng mô hình hóa xác định - nó không chỉ là bằng chứng
của sự tồn tại mà còn thay thế các phạm trù nguyên nhân sau đó giải thích
một hiện tượng (…), chỉ ra nguồn gốc của nó trong đánh giá một sự kiện nào
đó” [57, tr194]. Bởi “dẫu sao, chức năng mã hóa trong văn bản kể chuyện
hiện đại vẫn thuộc về nhân tố mở đầu còn chức năng huyền thoại hóa của cốt
truyện thuộc về nhân tố kết thúc” [57, tr200].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nhân tố mở đầu của tác phẩm ở mức độ nào đó có liên quan đến sự mô
hình hóa nguyên nhân. Một tác phẩm có thể không cần đến một kết thúc hoàn
chỉnh (truyện dài kỳ, truyện ký biên niên …) nhưng nhất thiết phải có mở đầu.
“Có thể gọi là những văn bản nếu chúng có nhân tố mở đầu” [57, tr195] chính

là vì thế. Hơn nữa, đặc tính mở của các văn bản truyện kể hiện đại đòi hỏi
phải có sự gia công bồi đắp các sự kiện. Chính vì thế nhân tố mở đầu với tư
cách là sự khởi đầu của tác phẩm càng trở nên quan trọng.
1.2.2.2. Ở nước ta, từ năm 1975 trở lại đây, truyện ngắn là thể loại
nhận được sự quan tâm hàng đầu của các nhà văn, nhà nghiên cứu cũng
như độc giả. Dù rằng “xưa nay, có nhiều lý luận về tiểu thuyết mà ít lý luận
về truyện ngắn (…) truyện ngắn không có “hệ lý luận cơ bản” riêng của nó
nhưng những vấn đề cơ bản của truyện ngắn cũng là những vấn đề chung
của tiểu thuyết”.
Truyện ngắn thường có tính đơn nhất về sự lựa chọn tinh tế, ít nhân vật,
có tính thời khắc, có đặc thù về giọng điệu, có tính năng động, tính hàm súc,
độ dồn nén cao. Truyện ngắn thường khám phá cuộc sống vào thời điểm có ý
nghĩa nhất, một khoảnh khắc, một tình huống, một khoảng thời gian cụ thể.
“Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc trong cuộc đời con người mà dựng lên”
[dẫn theo 35, tr17]. Cho nên việc xây dựng được các sự kiện có sức ám ảnh,
chứa đựng những ý nghĩa biểu trưng cao có tính chất quyết định đối với sự
sống còn của mỗi truyện ngắn.
Những năm gần đây sự thâm nhập của tư duy tiểu thuyết cùng với sự
gia công của các nhà văn đã khiến cho truyện ngắn không chỉ dừng lại ở sự
miêu tả “cái thoáng chốc” mà còn mang tính tổng hợp cao, khả năng dồn nén
lớn, lượng thông tin phong phú, cái nhìn hiện thực đa diện, biểu đạt được
những vấn đề rộng lớn trong đời sống hiện thực lẫn tâm linh của con người.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Nhưng dù cho sức dồn nén của truyện ngắn có lớn đến đâu thì đó vẫn là kết
quả sự dồn nén của sự kiện vào một cốt truyện thích hợp.
Mặt khác, nhà văn không thể xây dựng tác phẩm bằng các sự kiện riêng
lẻ mà liên kết chúng lại tạo thành thể thống nhất cùng hướng về chủ đề chung.

Đồng thời mỗi sự kiện - block sự kiện trong tác phẩm lại có một vai trò, một
vị trí rất riêng.
B.N. Polevoi nhận định: “Cực kỳ quan trọng là làm sao bắt đầu cho tốt.
Người viết ký có kinh nghiệm thì khi còn đang thu thập tư liệu đã suy nghĩ về
phần mở đầu, lựa chọn sự kiện cần thiết cho nó” [dẫn theo 56,tr51] và không
chỉ riêng thể loại ký, việc lựa chọn sự kiện cho phần mở đầu cũng rất quan
trọng với thể loại truyện ngắn. Xin dẫn ra ý kiến của M.I. Kalinin: “Phải bắt
đầu lời nói ngay từ thực chất vấn đề hoặc từ một cái gì đó lý thú để thu hút sự
chú ý” [dẫn theo 56, tr51].
Để đạt được mục đích tâm lý trên, phần mở đầu thường sử dụng một sự
kiện đặc sắc, một hình tượng, một thông báo thú vị, khêu gợi trí tò mò, một
cách đặt vấn đề ngược đời mà tác giả dự định sẽ giải đáp trong quá trình trình
bày. Đây thực chất là một sự giao đãi với bạn đọc, hướng về những lợi ích của
họ. Hiển nhiên cần phải thấy rằng: cái quan trọng không phải cố làm ra một
cái mở đầu thật đặc sắc là đã có sự thành công. Sự thành công chính là ở chỗ
có sự hài hòa, nhất quán giữa nó với các thành phần còn lại của toàn bộ tác
phẩm, trong việc cho phép triển khai các luận điểm, làm rõ các tư tưởng chủ
đề của tác phẩm mà theo Chu Lai thì việc “vào đầu nhanh, dẫn giải mạnh, kết
thúc khéo - ba yếu tố đó kết hợp với ý tứ dồi dào, ý tưởng sâu xa sẽ tạo nên
cái hay của truyện” [30, tr108]. Tchekhov cũng cho rằng: “Viết truyện ngắn,
cốt nhất phải tô đậm cái mở đầu và cái kết luận”[dẫn theo 35, tr75].
X.Voronin cũng có ý kiến tương tư: “Câu đầu là một thứ âm chuẩn, giúp

×