Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong tiếng tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.18 KB, 114 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






HOÀNG ANH






TỪ NGỮ CHỈ VĂN HÓA ẨM THỰC
TRONG TIẾNG TÀY
Chuyên ngành: Ngôn ngữ
Mã số: 60.22.01






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Văn Phúc







THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong
tiếng Tày là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong các công
trình khác. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin đƣợc

đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu tham
khảo của luận văn. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Tác giả luận văn


Hoàng Anh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành kháo học và luận văn này, em chân thành cảm ơn quý
thầy, cô trong Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên, Đại học Sƣ phạm I (Hà
Nội), các giáo sƣ, tiến sĩ của Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển và Bách khoa
thƣ… đã tận tình truyền đạt kiến thức quý báu để hoàn thành luận văn này.
Em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy PGS.TS. Đoàn Văn Phúc, đã
tận tình hƣớng dẫn trong suốt quá trình viết luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, ủng
hộ và giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình học tập, nghiên cứu, điền dã … để hoàn
thành công trình này.



Thái Nguyên tháng 10 năm 2011

Tác giả




Hoàng Anh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii

MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các bảng vi
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
5. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 6
6. Cái mới và ý nghĩa của đề tài 8

7. Bố cục 8
NỘI DUNG 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 9
1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ và nghĩa 9
1.1.1. Hình vị 9
1.1.2. Từ 11
1.1.3. Ngữ 13
1.1.4. Nghĩa và nghĩa của từ, ngữ 14
1.1.5. Trƣờng nghĩa và vốn từ chỉ văn hóa ẩm thực 19
1.2. Vấn đề định danh 21
1.2.1. Khái niệm định danh 21
1.2.2. Đơn vị định danh và đơn vị miêu tả 23

1.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 23
1.3.1. Khái niệm về văn hóa 23
1.3.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa 26
1.4. Vài nét về ngƣời Tày và tiếng Tày 27
1.4.1. Về ngƣời Tày 27
1.4.2. Vài nét về tiếng Tày 30
1.4.2.1. Đặc điểm loại hình và cấu trúc 30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
1.4.2.2. Chữ viết 35

1.4.2.3. Vấn đề phƣơng ngữ trong tiếng Tày 37
1.4.2.4. Đặc điểm về ngôn ngữ học - xã hội 38
Tiểu kết chƣơng 1 40
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ
NGỮ CHỈ ẨM THỰC TRONG TIẾNG TÀY 41
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê 41
2.2. Đặc điểm cấu tạo của các từ ngữ chỉ ẩm thực trong tiếng Tày 43
2.2.1. Từ đơn 44
2.2.2. Từ phức 44
2.2.2.1. Từ láy 45
2.2.2.2. Từ ghép 45
2.2.2.3. Từ ngẫu hợp 50

2.2.3. Ngữ 51
2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ ẩm thực trong tiếng Tày 52
2.3.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ đơn 52
2.3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ phức 52
2.3.2.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ ghép đẳng lập 53
2.3.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ ghép chính phụ 53
2.3.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm từ ngẫu hợp 57
2.3.4. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm cụm từ (ngữ) 57
2.4. Đặc điểm phƣơng thức định danh các từ ngữ chỉ ẩm thực trong
tiếng Tày 58
2.4.1.Phƣơng thức định danh theo nguyên liệu chính 59
2.4.2. Phƣơng thức định danh theo phƣơng pháp/cách thức chế biến 60

2.4.3. Phƣơng thức định danh theo hình thức/hình dáng bề ngoài 61
2.4.4. Phƣơng thức định danh theo nguyên liệu chính và phƣơng pháp/cách
thức chế biến 61
2.4.5. Phƣơng thức định danh theo phƣơng pháp/cách thức chế biến, mùi
vị và nguyên liệu chính 62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

v
2.4.6. Phƣơng thức định danh theo phƣơng pháp/cách thức chế biến, gia
vị và nguyên liệu chính 63
2.4.7. Phƣơng thức định danh theo nguyên liệu chính và hƣơng vị 63

2.4.8. Các phƣơng thức định danh khác 64
Tiểu kết chƣơng 2 64
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA NGƢỜI TÀY QUA CÁC TỪ NGỮ
CHỈ ẨM THỰC 67
3.1. Từ ngữ chỉ ẩm thực thể hiện phƣơng thức sinh tồn của ngƣời Tày 67
3.1.1. Ẩm thực ngƣời Tày trong quan hệ với tự nhiên 67
3.1.2. Ẩm thực ngƣời Tày trong quan hệ với cộng đồng làng xóm 69
3.1.3. Ẩm thực Ngƣời Tày trong hoạt động văn hóa tinh thần 73
3.1.3.1. Mâm cơm cúng tổ tiên trong ngày Tết Nguyên đán 74
3.1.3.2. Một số đồ ăn truyền thống, đặc sắc của ngƣời Tày theo các thời
điểm trong năm 75
3.2. Từ ngữ chỉ ẩm thực thể hiện phƣơng thức tƣ duy và triết lí của

ngƣời Tày 82
3.2.1. Tên gọi món ăn 82
3.2.2. Các ý niệm khác của con ngƣời về món ăn 84
Tiểu kết chƣơng 3 87
KẾT LUẬN 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC 96


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Các từ ngữ chỉ ẩm thực trong tiếng Tày 41
Bảng 2: Các từ ngữ chỉ ẩm thực trong tiếng Tày xét về đặc điểm cấu tạo 43
Bảng 3: Các kiểu quan hệ cơ bản giữa các yếu tố trong từ ghép chính phụ chỉ
ẩm thực trong tiếng Tày 50
Bảng 4: Một số phƣơng thức định danh các từ ngữ chỉ ẩm thực trong tiếng Tày 59






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ khi có xã hội loài ngƣời đến nay, vấn đề “ăn, mặc, ở, đi lại” luôn là
cơ sở của sự tồn tại cũng nhƣ sự phát triển và tiến bộ. Trong đó, ăn uống là
một phần quan trọng trong cuộc sống của loài ngƣời. Nó không chỉ nuôi
dƣỡng con ngƣời mà còn gắn liền với các hoạt động văn hóa, phản ánh mối
quan hệ của con ngƣời với tự nhiên và xã hội. Con ngƣời phải biết cách ăn
uống sao cho có văn hóa, và sau đó mới học những điều khác nhƣ ngƣời
Trung Hoa thƣờng có câu: “dân vĩ thực vi tiên” (ngƣời dân lấy việc ăn uống

làm đầu).
Hầu hết các dân tộc, các địa phƣơng trên mọi miền đất nƣớc Việt Nam
đều có những tập quán ẩm thực riêng. Việc tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa ẩm
thực của các dân tộc sẽ cho ta cách nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về con ngƣời,
về sự phát triển của nhân loại. Không những thế văn hóa ẩm thực còn giúp
cho ta hiểu thêm về thế giới xung quanh và hiểu thêm về chính bản thân mình
để từ đó có cách nhìn nhận đúng đắn hơn về cuộc sống, có cách ứng xử hài
hòa hơn với môi trƣờng tự nhiên và xã hội.
Mặt khác, ngôn ngữ đƣợc coi là chiếc “hàn thử biểu của xã hội”. Ngôn
ngữ và đời sống luôn có mối quan hệ tác động hai chiều. Xã hội Việt Nam
mang dấu ấn của nền văn minh lúa nƣớc với nền văn hóa đa dạng của 54 dân
tộc anh em. Chính kho từ vựng phong phú luôn đƣợc mở rộng đã kịp thời

phản ánh những tri thức phong phú, những phát hiện mới mẻ của con ngƣời
về thế giới xung quanh.
Dân tộc Tày là một cộng đồng có số dân đông nhất trong số 53 dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Gần giống nhƣ ngƣời Kinh, ngƣời Tày cũng có nền kinh
tế nông nghiệp khá phát triển. Vì thế, với ngƣời Tày, tập quán ẩm thực mang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
đậm đặc tính của cƣ dân vùng thung lũng; phản ánh đặc trƣng văn hóa tộc
ngƣời, nhất là ở khía cạnh ứng xử. Trong tiếng Tày, có hàng loạt các từ ngữ
có yếu tố liên quan đến “ăn” và “uống” với cả nghĩa đen và nghĩa bóng đã

làm phong phú thêm vốn từ vựng trong ngôn ngữ này. Có thể nói, với số
lƣợng vô cùng lớn và liên quan tới trƣờng ngữ nghĩa ẩm thực, gắn liền với
văn hóa dân tộc nên việc chúng tôi chọn đề tài Từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực
trong tiếng Tày làm đối tƣợng nghiên cứu sẽ có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
sâu sắc.
Là một ngƣời con của dân tộc Tày, khi chọn nghiên cứu vấn đề này
chúng tôi có cơ hội hiểu sắc hơn về bề dày văn hóa của dân tộc mình để thêm
yêu quý, tự hào. Đồng thời, ngƣời viết cũng mong muốn góp phần nhỏ bé vào
việc giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
trƣớc cơn lũ của hội nhập và giao lƣu văn hóa đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ.
2. Lịch sử vấn đề
Qua khảo sát của chúng tôi, tính đến nay đã có khá nhiều công trình

của các tác giả nghiên cứu về từ vựng tiếng Tày trên các phƣơng diện cấu
trúc, xã hội ngôn ngữ học khác nhau.
* Trên phương diện ngữ âm:
Qua sự tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay chƣa có một công trình nghiên
cứu chuyên sâu, hệ thống, toàn diện về ngữ âm tiếng Tày. Song ngay từ
những năm bảy mƣơi của thế kỉ XX đã có một số bài viết nghiên cứu về ngữ
âm tiếng Tày (Tày - Nùng). Chẳng hạn, trong Ngữ pháp tiếng Tày Nùng
(1971), các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo đã trình bày sơ lƣợc hệ
thống ngữ âm của tiếng Tày – Nùng. Hoặc điều này có thể đƣợc biết rõ ràng
hơn qua công trình Hệ thống ngữ âm tiếng Tày Nùng của tác giả Đoàn Thiện
Thuật (1972 trong Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Viện
Ngôn ngữ học, Hà Nội). Gần đây, trong giáo trình giảng dạy tiếng Tày cũng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
có đề cập và giới thiệu hết sức sơ lƣợc về hệ thống ngữ âm tiếng Tày (chẳng
hạn cuốn Slon Phuối Tày của Lƣơng Bèn (Chủ biên), Ma Ngọc Dung. Nxb
Đại học Thái Nguyên, 2009) hoặc một số bài viết. Ví dụ: bài viết Bản sắc
riêng trong tiếng nói của người Tày ở Nghĩa Đô, Lào Cai trên trang web của
Cục văn thƣ lƣu trữ Nhà nƣớc [45] đã chỉ ra điểm độc đáo ở một số chữ, âm
vần, thanh lửng, phụ âm lắc trong tiếng Tày Nghĩa Đô so với tiếng Tày ở các
vùng khác. Đặc biệt, năm 2010 tại Đại học Sƣ phạm Hà Nội, với luận văn cao
học Nghiên cứu ngữ âm tiếng Tày ở xã Na Hối và Tà Chải (Bắc Hà, Lào Cai)

của mình, tác giả Nông Thị Nhung, cũng đã miêu tả hết sức chi tiết những đặc
điểm ngữ âm của tiếng Tày ở hai xã Nà Hối và Tà Chải.[24]
* Trên phương diện từ vựng – ngữ nghĩa
Có thể nói, đây là phƣơng diện đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
hơn cả. Điều này đƣợc thể hiện qua số bài viết và công trình dƣới đây:
Bài viết Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày – Nùng (1969)
của Nguyễn Hàm Dƣơng đã chỉ ra một cách khái quát đặc điểm hệ thống từ
vựng Tày – Nùng, từ đó đƣa ra những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
hệ thống từ vựng Tày – Nùng. Trong Báo Văn nghệ Độc lập số 1441, năm
1970 có bài Đẩy mạnh việc giảng dạy và học chữ Tày- Nùng xen kẽ với chữ
quốc ngữ nói đến vai trò của tiếng Tày và sự cần thiết phải học chữ Tày tại
thời điểm đó. Các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo với các bài Vài nt v

sự phá t triể n củ a tiế ng Tà y - Nùng sau Cách mạng Tháng Tám , và Một vài ý
kiến v các từ mượn trong tiếng Tày – Nùng (1970); Nguyễn Thiện Giáp
(1970) với bài Cách làm giàu vốn từ vựng Tày – Nùng, báo Việt Nam Độc
lập. Bên cạnh đó, có thể kể đến Lạc Dƣơng (1971) với bài Tnh phong ph
của tiếng Tày - Nùng, báo Việt Nam Độc lập, hay Đoàn Thiện Thuật (1986)
với bài V kho từ vựng chung Việt – Tày. Ngoài ra, cũng phải kể tới các cuốn
Từ điển Tày Nùng – Việt, Việt – Tày Nùng của nhóm tác giả Hoàng Văn Ma,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Lục Văn Pảo, hay Từ điển thành ngữ, tục ngữ Tày Nùng của Triều Ân, Hoàng

Quyết, Nxb VHDT, 1996. Đây là công trình công phu, hệ thống, bổ ích về
vốn từ vựng tiếng Tày trong sự đối chiếu với tiếng Nùng và tiếng Việt mà
những ngƣời quan tâm đến tiếng Tày không thể bỏ qua.
Vài năm gần đây, tại Đại học sƣ phạm Thái Nguyên đã có một số luận
văn Thạc sĩ nghiên cứu tiếng Tày (Tày Nùng) theo hƣớng liên ngành ngôn
ngữ - văn hóa. Chẳng hạn, Ngôn Thị Bích (2009) với Từ ngữ chỉ la gạo và
sản phẩm làm từ la gạo trong tiếng Tày (có so sánh với tiếng Việt); Nguyễn
Thị Hằng với Từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Ngoài ra, cũng năm
2009, còn có luận văn thạc sĩ Đặc điểm cấu trc hình thức và ngữ nghĩa của
tục ngữ dân tộc Tày của Hà Huyền Nga. Có thể nói, các công trình này cũng
là sự gợi mở cho chúng tôi tiếp tục khai thác vấn đề từ vựng tiếng Tày không
chỉ dƣới góc độ ngôn ngữ học mà còn nhằm tìm ra những giá trị văn hóa tiềm

ẩn trong các lớp từ đó.[4,6]
* Trên phương diện ngữ pháp
Đó là công trình Ngữ pháp Tày – Nùng (1971) của Hoàng Văn Ma, Lục
Văn Pảo. Gần đây (2010) một số luận văn thạc sĩ tại Đại học sƣ phạm Thái
Nguyên nghiên cứu về một số khía cạnh trên bình diện ngữ pháp của tiếng
Tày nhƣ: Câu hỏi trong tiếng Tày của Vũ Huyền Nhung, Phương thức láy
trong tiếng Tày của Hà Thị Bạch…[4,25,26]
* Trên phương diện xã hội ngôn ngữ học
Mấy chục năm gần đây, những vấn đề về xã hội ngôn ngữ học đƣợc
các nhà ngôn ngữ học ở nƣớc ta tập trung nghiên cứu, đặc biệt đối với các
ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, trong đó có tiếng Tày. Chẳng hạn,
Tiếp xc ngôn ngữ Việt (Kinh) - Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, của Đặng

Thanh Phƣơng, Luận án tiến sĩ lịch sử, H., 2004; Tình hình sử dụng ngôn ngữ
ở hai xã Hưng Đạo và Hoàng Trung (Huyện Hòa An - tỉnh Cao Bằng), của Tô

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Phƣơng Chi (2006), Khóa luận tốt nghiệp, HN; Cảnh huống ngôn ngữ ở Hà
Giang của Nguyễn Thị Thanh Huyền (2010); Nguyễn Thị Thanh Huyền, Bình
Thành (2010), Một số đặc điểm của cảnh huống ngôn ngữ ở Hà Giang, Ngôn
ngữ; Cảnh huống ngôn ngữ ở Thái Nguyên, của Dƣơng Thị Thanh Hoa
(2010); Mấy nt v cảnh huống ngôn ngữ ở Thái Nguyên, của Dƣơng Thị
Thanh Hoa, Lan Hƣơng (2010), Ngôn ngữ; Cảnh huống đa ngữ ở huyện Hòa

An, tỉnh Cao Bằng, của Nguyễn Hoàng Lan (2010). Hoặc bài viết Vị thế,
chức năng của các ngôn ngữ dân tộc ở vùng Đông Bắc của Hoàng Văn Ma và
Phan Lƣơng Hùng trong Bức tranh toàn cảnh v các ngôn ngữ ở Việt Nam, đề
tài cấp Bộ, Viện ngôn ngữ học (đã nghiệm thu 3/2011). [8, 19, 20, 21, 27, 30]
Nhìn lại các công trình, bài viết nhƣ đã nêu trên, chúng tôi thấy các nhà
nghiên cứu thƣờng đề cập đến một số vấn đề về ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa,
ngữ pháp, xã hội ngôn ngữ học… trong tiếng Tày Nùng. Tuy vậy, những vấn
đề về tiếng Tày vẫn còn là mảnh đất hứa mong chờ các nhà nghiên cứu tiếp
tục tìm hiểu, đặc biệt là nghiên cứu theo hƣớng liên ngành: Ngôn ngữ - văn
hóa; ngôn ngữ - văn học, ngôn ngữ - văn học – văn hóa; ngôn ngữ - xã hội…
Với những tƣ liệu hiện có và sự hiểu biết của mình, chúng tôi thấy chƣa
có công trình, bài viết nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống, toàn diện về

nhóm từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong tiếng Tày (đặc biệt là trên địa bàn
tỉnh Bắc Kạn). Do đó, chọn thực hiện đề tài Từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực
trong tiếng Tày, chúng tôi mong muốn đóng góp thêm những nghiên cứu mới
mẻ về khía cạnh ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa thú vị này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng của luận văn là nhóm từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong
tiếng Tày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do trƣờng ngữ nghĩa thuộc văn hóa ẩm thực khá rộng, cho nên luận
văn chỉ dừng lại khảo sát những danh từ gọi tên các món ăn, thức uống
trong tiếng Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm chỉ ra đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của các từ ngữ
(đặc biệt là các danh từ) gọi tên đồ ăn, thức uống trong tiếng Tày. Trên cơ sở
đó chỉ ra những nét văn hóa đặc sắc cũng nhƣ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hóa thể hiện qua lớp từ ngữ thú vị này.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có ba nhiệm vụ:

Thứ nhất, khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến: từ ngữ, trƣờng
từ vựng ngữ nghĩa và văn hóa ẩm thực cũng nhƣ đặc điểm của tiếng Tày về
các phƣơng diện cội nguồn, loại hình cấu trúc…
Thứ hai, miêu tả đặc trƣng cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của các từ
ngữ chỉ văn hóa ẩm thực mà chủ yếu là các danh từ chỉ đồ ăn thức uống trong
tiếng Tày.
Thứ ba, qua các lớp từ ngữ này, tìm hiểu và chỉ ra đặc điểm văn hóa
của cƣ dân Tày nói chung, cƣ dân Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nói riêng qua
các “đồ ăn thức uống” của họ.
5. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Tƣ liệu nghiên cứu
Tƣ liệu về vốn từ ngữ chỉ “đồ ăn, thức uống, đồ hút” của ngƣời Tày

đƣợc thống kê từ hai nguồn chủ yếu:
Thứ nhất, trên cơ sở khảo sát thực tế tiếng Tày trong đời sống hàng
ngày ở vùng Bắc Kạn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Thứ hai, trên cơ sở thống kê tham khảo từ các nguồn:
1. Từ điển Tày - Nùng – Việt của Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo…1984,
KHXH; Nxb Từ điển học và Bách khoa thƣ, tái bản lần 1 năm 2006;
2. Từ điển Văn hóa Cổ truyn của người Tày của Hoàng Triều Ân,
NXB VHDT, 1996;

3. Cuốn Tiến tới xác lập vốn từ văn hóa Việt của Nguyễn Văn Chiến,
Nxb KHXH, 2004.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đặc điểm ngữ nghĩa và văn hóa của lớp từ ngữ
này, ngƣời viết còn sử dụng một số văn bản viết bằng tiếng Tày khác nhƣ:
Slon phuối Tày, các tập văn, thơ sƣu tầm đƣợc của các tác giả ngƣời Tày.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, ngƣời viết áp dụng một số phƣơng pháp, thủ pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp miêu tả: Chúng tôi sử dụng các thủ pháp luận giải bên
trong (phân tích thành tố trực tiếp, thủ pháp đối lập, thủ pháp phân tích trƣờng
nghĩa ) để tiến hành phân loại, hệ thống hóa các đơn vị ngôn ngữ thành các
nhóm, các tiểu hệ thống. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thủ pháp bên

ngoài nhƣ tâm lý tộc ngƣời, thống kê, văn hóa tộc ngƣời để lý giải nhóm từ
này trên bình diện văn hóa.
- Phƣơng pháp điền dã ngôn ngữ học để thu thập tƣ liệu một cách hiệu
quả về các từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong tiếng Tày.
Trên cơ sở các tƣ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi tiến hành thống kê, phân
loại, miêu tả, nhận xét và rút ra đánh giá tổng hợp để từ đó miêu tả đặc điểm
cấu trúc, ngữ nghĩa và văn hoá của các từ ngữ chỉ văn hóa ẩm thực trong tiếng
Tày. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, đề tài còn áp dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác: Phƣơng pháp quy nạp, vốn là
phƣơng pháp của tƣ duy lôgíc cũng đƣợc áp dụng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
6. Cái mới và ý nghĩa của đề tài
- Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về lớp từ ngữ
(danh từ) chỉ văn hóa ẩm thực trong tiếng Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Do
vậy, luận văn sẽ cung cấp thêm những cứ liệu về đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa
của lớp từ này trong hệ thống từ vựng văn hóa các ngôn ngữ ở Việt Nam.
- Những tƣ liệu thu nhận đƣợc và sự lý giải của chúng tôi sẽ góp phần
soi sáng thêm mối quan hệ giữa các ngôn ngữ cùng thuộc nhóm Tày Thái nói
chung và sự vay mƣợn từ ngữ trong tiếng Tày với các ngôn ngữ khác riêng
trong tiến trình lịch sử.
- Cung cấp thêm tƣ liệu trong việc tìm hiểu, biện giải những nét văn

hóa (đặc biệt là văn hóa ẩm thực) của cƣ dân Tày nói chung và cộng đồng
ngƣời Tày trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
- Góp phần vào việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc Tày cũng nhƣ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
7. Bố cục
Ngoài Phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và thƣ mục tham
khảo, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ ẩm thực
trong tiếng Tày
Chƣơng 3: Đặc điểm văn hóa của ngƣời Tày qua các từ ngữ chỉ ẩm thực








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Khái niệm hình vị, từ, ngữ và nghĩa
1.1.1. Hình vị
Hình vị hay còn đƣợc gọi là “moocphem” (morpheme), “từ tố”,
“nguyên vị”, “hình tố”….
Nguyễn Nhƣ Ý đã dẫn ra 12 quan niệm về hình vị và hình vị tiếng Việt.
Chúng tôi tán đồng theo quan điểm của GS Nguyễn Tài Cẩn: “Hình vị là một
trong những đơn vị cơ bản của ngôn ngữ thƣờng đƣợc xác định nhƣ một ký
hiệu nhỏ nhất, tức là một đơn vị nhỏ nhất gắn liền với từ, trực tiếp hay gián
tiếp gắn liền với một ý nghĩa nhỏ hơn nữa, còn gọi là tiếng, tiếng một, từ tố,
nguyên vị. Hình vị là đơn vị hình thái học không thể chia thành những đơn vị
hình thái học nhỏ hơn, nó là yếu tố cấu tạo từ. Thông thƣờng ngƣời ta phân
biệt trong hình vị thành căn tố và phụ tố. Căn tố là hình vị mang ý nghĩa từ

vựng, ý nghĩa vật chất của từ; phụ tố lại phân chia thành biến tố, tiền tố, trung
tố và hậu tố.
Trong ngữ pháp học, một kiểu có tổ chức tối đơn giản dùng làm thành
tố để trực tiếp hay gián tiếp tạo nên tất cả mọi kiểu đơn vị khác còn lại: đơn vị
đó đƣợc xem là đơn vị gốc, đơn vị tế bào của ngữ pháp. Kiểu đơn vị đó, trong
thuật ngữ ngôn ngữ học, thƣờng đƣợc gọi là hình vị, moóc phem hay từ tố”
(Dẫn theo [6, Tr 9-10])
Cần phân biệt “hình vị” với đơn vị đƣợc coi là “thành tố cấu tạo từ”.
Nếu hình vị có thể trực tiếp cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các
hình vị khác) hoặc không trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết
hợp với các hình vị khác để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị.
Thành tố này mới đƣợc dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ. Thành tố cấu tạo từ

có thể trùng hoặc không trùng khớp với hình vị. Còn “thành tố cấu tạo từ”
đƣợc hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp thành nên từ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Nhƣ vậy, chúng ta thấy hình vị là đơn vị nhỏ nhất có mang ý nghĩa,
mang giá trị ngữ pháp dùng để cấu tạo từ.
Theo quan niệm chung thì hình vị (morpheme) là đơn vị ngôn ngữ nhỏ
nhất có nghĩa và để cấu tạo từ. Đã có rất nhiều những định nghĩa khác nhau,
trong các công trình nghiên cứu về từ vựng, và hình vị đƣợc gọi bằng các tên
khác nhau: từ tố (Nguyễn Văn Tu), nguyên vị (Hồ Lê), tiếng (Nguyễn Tài

Cẩn), hình vị (Đỗ Hữu Châu, Đái Xuân Ninh) Dƣới đây là một số những
định nghĩa về hình vị nhƣ sau:
Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm đáng
lƣu ý là:
- Là đơn vị có kích thƣớc vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị,
hình thức;
- Là đơn vị có ý nghĩa nhất định, là mặt đƣợc biểu thị, nội dung;
- Là đơn vị có cấu trúc nội tại tƣơng đối ổn định, vững chắc, không thể
phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn về nghĩa;
- Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu là
dùng để cấu tạo nên từ
Tuy vậy hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng thức của

nó) không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ dàng. Hình vị là kết quả của sự
phân tích và tổng hợp của nhà nghiên cứu, nhằm mục đích “mổ xẻ” để hiểu rõ
bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó hoặc chính nó trong các mối
quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại. Cái đơn vị này thƣờng không
hiển nhiên đối với ngƣời bản ngữ.
Tuy nhiên, ở đây cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm nhiều khi
không trùng khớp: “hình vị” và “thành tố cấu tạo từ”. Hình vị có thể trực tiếp
cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các hình vị khác) hoặc không
trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết hợp với các hình vị khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị. Thành tố này mới đƣợc
dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ. Thành tố cấu tạo từ có thể trùng hoặc không
trùng khớp với hình vị. Cách nhìn nhận nhƣ vậy, giúp ta giải thích có logic
đối với những trƣờng hợp các hình vị kết hợp với nhau, nhƣng sản phẩm của
sự kết hợp này không thể đƣợc đánh giá là từ (không tái hiện đƣợc tự do trong
lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là thành tố cấu tạo từ.
“Thành tố cấu tạo từ” đƣợc hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp
thành nên từ. Nhƣ vậy, cách hiểu này còn giúp phân biệt nó với đơn vị đƣợc
gọi là “đơn vị gốc”, đơn vị ở bên ngoài từ đang nói, đơn vị đƣợc lấy làm cơ sở
để tác động và chuyển hoá thành ra thành tố cấu tạo từ.
Có nhiều cách để phân loại hình vị, nếu phân loại hình vị theo cách

truyền thống ta có căn tố và phụ tố, nó đảm bảo đƣợc hai yếu tố là chức năng
và ngữ nghĩa.
L. Bloomfield thì lại phân loại hình vị thành hình vị tự do và hình vị
hạn chế. Với cách phân loại này ta phát hiện ra một đặc tính quan trọng của
hình vị là tính chất hoạt động trên trục tuyến tính nhƣng nó lại làm mất đi
phƣơng diện ngữ nghĩa, chức năng quyết định sự tồn tại của hình vị trong
ngôn ngữ.
Cách phân loại nữa về hình vị là ngƣời ta dựa vào các đặc tính thiên về
hình thức. Dựa vào vị trí ta có tiền tố, hậu tố, trung tố. Dựa vào đặc tính âm vị
học của các hình vị thì theo E.Nida ta có các hình vị gián cách và các hình vị
từ. Tuy nhiên dù phân loại theo cách nào thì hai tiêu chí là chức năng và ngữ
nghĩa là yếu tố quan trọng nhất để phân loại hình vị.

1.1.2. Từ
Từ là đơn vị cấu trúc – ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ dùng để gọi tên
các sự vật và thuộc tính của chúng, các hiện tƣợng, các quan hệ của thực tiễn,
là một tổng thể các dấu hiệu ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp đặc trƣng cho

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
từng ngôn ngữ. Các dấu hiệu đặc trƣng của từ là tính hoàn chỉnh, tính có thể
phân chia thành các bộ phận và khả năng tái hiện lại dễ dàng trong lời nói. Từ
có thể phân chia thành các cấu trúc: Cấu trúc ngữ âm của từ (là toàn bộ các
hiện tƣợng âm thanh tạo nên vỏ âm thanh của từ), cấu trúc hình thái của từ

(là toàn bộ các hình vị tạo nên từ) và cấu trúc ngữ nghĩa của từ (là toàn bộ các
nghĩa khác nhau của từ).
Cho đến nay, trong ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã đƣợc đƣa ra
không ít. Chẳng hạn, trong cuốn “ Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn
Nhƣ Ý đã dẫn ra 36 quan niệm về từ và từ tiếng Việt. Các định nghĩa ấy, ở
mặt này hay mặt kia đều đúng, nhƣng đều không đủ và không bao gồm hết
đƣợc tất cả các sự kiện đƣợc coi là từ trong ngôn ngữ và ngay cả trong một
ngôn ngữ cũng vậy. Ví dụ:
- Nguyễn Văn Tu: Từ là đơn vị nhỏ nhất và độc lập, có hình thức vật chất
(vỏ âm thanh là hình thức) và có nghĩa, có tnh chất biện chứng và lịch sử.
- Nguyễn Kim Thản: Từ là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ có thể tách
khỏi đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối

hoàn chỉnh v ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng, ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp.
Trong rất nhiều quan niệm về từ, chúng tôi chấp nhận quan điểm của
nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến trong cuốn
“Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết
cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên; đƣợc vận dụng
độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu” [10, Tr 170]
Qua các định nghĩa, chúng tôi nhận thấy từ có những đặc điểm cơ bản
giúp phân biệt nó với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ nhƣ sau:
- Là một khối thống nhất, hoàn chỉnh của hình thức và nội dung hay nói
cách khác, từ bao gồm hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Tính hoàn chỉnh và
thống nhất giữa hai mặt này giúp cho từ có khả năng hoạt động độc lập để tạo
câu theo những quy tắc kết hợp nhất định.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
- Mang tnh sẵn có, tồn tại độc lập: Chúng có thể tách ra khỏi câu mà
vẫn có ý nghĩa nhƣ vậy, chúng có thể đƣợc dùng để đặt câu khác.
- Có cấu trc cố định - bắt buộc: Từ không thể chia nhỏ ra nữa mà vẫn
giữ nguyên ý nghĩa cũ. Hay nói cách khác, từ là đơn vị có cấu trúc nội tại
tƣơng đối vững chắc, ổn định, có nghĩa mà không thể phân tách thành đơn vị
nhỏ hơn.
- V mặt nội dung (mặt đƣợc biểu thị), từ là đơn vị có ý nghĩa biểu thị
các sự vật, hiện tƣợng…nhất định

- Là đơn vị nhỏ nhất trực tiếp tạo câu, tạo lời nói.
Quan điểm và cách hiểu về từ nhƣ trên sẽ là cơ sở để chúng tôi tiến
hành khảo sát, thống kê và phân loại những ngữ liệu có liên quan đến văn hóa
ẩm thực trong tiếng Tày (cụ thể là các từ, ngữ chỉ đồ ăn thức uống) một cách
chính xác nhất. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để chúng tôi so sánh vốn từ này
trong tiếng Tày với tiếng Việt qua đó tìm ra những điểm tƣơng đồng và khác
biệt về mặt ngôn ngữ và văn hóa kết chứa trong lớp từ này.
1.1.3. Ngữ
Bên cạnh đơn vị “từ”, trong ngôn ngữ ngƣời ta còn đề cập đến một đơn
vị cũng cùng chức năng nhƣng cấu tạo khác đơn vị “từ” có là “ngữ” hay còn
đƣợc gọi là cụm từ, từ tổ.
Cũng theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Nhƣ

Ý [35,Tr176]: “ Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có
cùng với các hƣ từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn
đạt một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tƣợng
của thực tại khách quan.”
Về cấu tạo, ngữ là một kết cấu cú pháp đƣợc tạo thành bởi hai hoặc
nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc – theo quan hệ phù hợp,
chi phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
ngữ nghĩa và ngữ pháp, gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố

chính gọi là các thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo
nên ngữ danh từ), động từ (tạo nên ngữ động từ), tính từ (tạo nên ngữ tính từ).
Về chức năng và đặc điểm: Cũng giống nhƣ từ, ngữ cũng là phƣơng
tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tƣợng quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ
pháp của ngữ đƣợc tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại
trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng.
Về phân loại: Ngữ thƣờng chia thành hai kiểu: Ngữ tự do (cụm từ tự
do) và ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định)
+ Ngữ tự do/Cụm từ tự do: Bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập
của tất cả các thực từ tạo thành ngữ. Mối liên hệ cú pháp của các yếu tố trong
ngữ tự do là mối liên hệ linh loạt và có sức sản sinh.
+ Ngữ không tự do/Ngữ cố định/cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt từ

vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng
của ngữ trở nên giống nhƣ ý nghĩa của một từ riêng biệt.
Tóm lại, ngữ giống từ về bản chất (cố định, có nghĩa, có chức năng
định danh, trực tiếp tham gia tạo câu…) nhƣng khác từ về mặt cấu tạo và
phân loại.
1.1.4. Nghĩa và nghĩa của từ, ngữ
* Quan niệm về nghĩa trong ngôn ngữ học đại cương
Trong ngôn ngữ học đại cƣơng, F.De. Saussure – ông tổ của ngôn ngữ
học cấu trúc đã quan niệm về tín hiệu và gián tiếp nói về nghĩa “Tín hiệu
ngôn ngữ kết liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi, mà là một
khái niệm với một hình ảnh âm thanh. Hình ảnh này không phải là cái âm vật
chất, một vật thuần túy vật lí mà là dấu vết tâm lí của cái âm đó, là cái biểu

tƣợng mà các giác quan của ta cung cấp cho ta về cái âm đó, nó thuộc cảm
quan, và nếu đôi khi ta gọi nó là vật chất thì chỉ với ý nghĩa đó và để đối lập

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
với thành phần kia của sự liên hệ, tức là với khái niệm thƣờng trừu tƣợng hơn.
Vậy, tn hiệu ngôn ngữ là một thực thể tâm lý có hai mặt, có thể đƣợc biểu
tƣợng bằng hình vẽ:
Hai yếu tố này gắn bó khăng khít với
nhau và đã có cái này là có cái kia.
Không những thế, F.de. Saussure còn

dùng từ tn hiệu để chỉ cái tổng thể
và thay khái niệm bằng cái được biểu
hiện, thay hình ảnh âm thanh bằng
cái được biểu hiện.






Nhƣ vậy, trong ngôn ngữ học đại cƣơng, F.de.Sassure coi nghĩa là cái
khái niệm, là cái được biểu hiện. Trong quan niệm của ông, cái biểu hiện là

hình ảnh âm thanh “là cái biểu tƣợng mà giác quan của ta cung cấp cho ta về
giác quan đó”. Nhƣng so với nó (cái biểu hiện) thì cái được biểu hiện, khái niệm
thƣờng trừu tƣợng hơn. Đây là một phát hiện mang tính bƣớc tiến lớn trong nhận
thức về nghĩa của tín hiệu – từ. Nó đƣa ngôn ngữ học vào vị trí trung tâm của
khoa học ký hiệu học và cho nghĩa là cái trừu tƣợng. [33, Tr 73]
Tuy nhiên, quan niệm của Saussure còn hạn chế vì chƣa trả lời đƣợc
câu hỏi “Khái niệm là gì và nó đƣợc hình thành nhƣ thế nào?” và chƣa đề cập
đến hai nhân tố quan trọng khác là hiện thực và chủ thể ngôn ngữ. Vì thế, sau
F.de. Saussure, đã có nhiều tác giả nhƣ Ogden, Rchards, G.tern, S.Ullmann,
Lyons đã có thêm những kiến giải về nghĩa một cách khá thuyết phục. Chẳng hạn:
- So với sơ đồ nghĩa của F.de.Saussure, Ogden và Richards đã gọi cái
biểu hiện là cái biểu trưng. Hai ông bổ sung thêm nhân tố tƣ duy con ngƣời

và hiện thực (sự vật) trong quy định nghĩa.
- So với Ogden và Richards, G.Stern đã thay cái biểu trưng bằng tín
hiệu ngôn ngữ là từ hình thức và giải thích thêm cái quy chiếu hoặc tƣ duy là
Khái niệm

Hình ảnh
âm thanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
nghĩa, đồng thời thay quan hệ chính xác bằng quan hệ biểu hiện và thay quan

hệ chính xác bằng quan hệ biểu hiện và thay quan hệ dành cho bằng quan hệ
lĩnh hội chủ quan cái đƣợc quy chiếu, thay quan hệ thay thế đại diện thành
quan hệ biểu thị hoặc gọi tên cái đƣợc quy chiếu.
- So với G.Tern, S.Ullmannn đã chỉ rõ: “Nghĩa là nội dung mối quan hệ
qua lại và tác động lẫn nhau giữa tên gọi và nội dung liên hội”. Nhƣ vậy, đến
S.Ullmann, nghĩa không chỉ là thực thể tâm lý, tinh thần nữa mà có vai trò của
quan hệ, không chỉ bản thân mà cả chức năng.
- So với S.Ullmann, Lyons không coi cái quy chiếu là nghĩa nữa. Ông
phân biệt quy chiếu và biểu thị. Nghĩa là nội dung khái niệm, là nội dung liên
hội và nghĩa biểu thị. Nhƣ vậy, với nhân tố tƣ duy con ngƣời và hệ thống tín
hiệu ngôn ngữ, Lyons cho rằng có hai loại nghĩa là: Nghĩa biểu thị và nghĩa
hệ thống. [33, Tr 83]

* Quan niệm về nghĩa của từ
Theo GS. TS Lê Quang Thiêm: “Nói đến hình thức, biểu thức, từ, ngữ,
câu, lời, văn bản, diễn ngôn…là nói đến những hiện tƣợng, đơn vị, thực thể
của ngôn ngữ trong ngôn ngữ học. Nghĩa của những đơn vị thực thể đó là
nghĩa của ngôn ngữ, thuộc ngôn ngữ. Thuật ngữ gọi thứ nghĩa này là ngữ
nghĩa. Nhƣng có sự khác nhau giữ nghĩa trong ngôn ngữ, nghĩa của ngôn ngữ
với nghĩa của các tồn tại khác” [33, Tr 5].
Qua phần biện giải trên, chúng ta đểu biết từ là một đơn vị quan trọng
của ngôn ngữ. Nó có hai mặt: mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội
dung ý nghĩa. Hai mặt này gắn bó với nhau nhƣ hai mặt của một tờ giấy, nếu
không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong
từ, nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn

ngữ nói chung và từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con ngƣời.
Trong ý thức, trong tƣ duy của con ngƣời chỉ có những hoạt động nhận thức,
hoạt động tƣ duy mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: Trong ý thức, trong bộ óc
tr tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải
là nghĩa của từ. Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày,
giải thích trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là của từ trong từ điển, thực
chất là những lời trình bày tƣơng đối đồng hình với sự hiểu biết của ta về

nghĩa của từ mà thôi.
Nhƣ vậy, từ nhiều quan niệm khác nhau, chúng tôi đƣa ra một cách
hiểu mang tính tổng quát về ý nghĩa của từ nhƣ sau: Nghĩa của từ là nội dung
mà từ biểu hiện, nó được hình thành do sự kết hợp và tác động của nhiu
nhân tố. Trong số đó có những nhân tố nằm ngoài ngôn ngữ và những nhân
tố nằm trong ngôn ngữ. Nhân tố ngoài ngôn ngữ như: sự vật, hiện tượng
trong thực tế khách quan, tư duy và người sử dụng. Nhân tố trong ngôn ngữ
như: chức năng tn hiệu học, hệ thống (cấu trc) của ngôn ngữ.
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tƣợng. Bởi thế nghĩa của từ
cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Tùy theo các chức
năng mà từ chuyên đảm nhiệm, trong ý nghĩa của từ có những thành phần ý
nghĩa sau đây:

- Ý nghĩa từ vựng gồm:
+ Ý nghĩa biểu vật (denotative meaning) ứng với chức năng biểu vật:
Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tƣợng, thuộc tính, hành động, ) mà
nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tƣợng, thuộc tính, hành động, đó, ngƣời ta
gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu vật có thể hiện thực hoặc phi
hiện thực, hữu hình hay vô hình, có bản chất vật chất hoặc phi vật chất. Ví dụ:
đất, trời, mưa, nắng, nóng, lạnh, ma, quỷ, thánh, thàn, thiên đường, địa
ngục,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18

+ Ý nghĩa biểu niệm (significative meaning) ứng với chức năng biểu
niệm: là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo
một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có những quan hệ nhất
định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của từ. Chính vì ý nghĩa
biểu niệm của từ là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ, cho nên còn có thể
gọi nó là cấu trúc biểu niệm. [7, Tr 118]
+ Ý nghĩa biểu thái/Ý nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning) ứng với
chức năng biểu thái: còn đƣợc gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ
(connotative meaning), là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc
của ngƣời nói. Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân
tố đánh giá, nhân tố cảm xúc, nhân tố thái độ …mà từ gợi ra cho ngƣời nói và
ngƣời nghe. Ở đây, chúng ta chỉ bàn tới ý nghĩa biểu thái trong hệ thống ngôn

ngữ, nghĩa là những ý nghĩa biểu thái khi nó đứng riêng rẽ, tách khỏi văn bản.
- Ý nghĩa ngữ pháp/nghĩa cấu trúc (structural meaning): ứng với chức
năng ngữ pháp (quan hệ, kết hợp, khái quát hóa). Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý
nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và đƣợc thể hiện bằng những
phƣơng tiện ngữ pháp nhất định. Có thể nói, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa vật
thể, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa siêu vật thể hay phi vật thể, đƣợc thể
hiện ra bằng những hình thức nhất định.
Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị
(paradigmatical axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ trên trục
đối vị cho ta xác định đƣợc giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác, còn
quan hệ trên trục ngữ đoạn cho ta xác định đƣợc ngữ trị (valence) – khả năng
kết hợp – của từ.

Ở trên chúng tôi đã trình bày từng thành phần ý nghĩa trong từ. Tuy
nhiên, vì từ là một thể thống nhất, cho nên mỗi thành phần ý nghĩa chẳng qua
chỉ là những phƣơng diện khác nhau của cái thể thống nhất đó. Sự hiểu biết

×