Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

lớp từ ngữ chỉ động vật và thực vật trong đồng dao người việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 118 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



LÊ THỊ THUẬN



LỚP TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
TRONG ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT





LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC









THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



LÊ THỊ THUẬN



LỚP TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
TRONG ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số : 60.22.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TẠ VĂN THÔNG




THÁI NGUYÊN - 2011

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i



LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn này, tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo,
cô giáo Trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái Nguyên đã tận tình giảng
dạy, hƣớng dẫn học viên lớp Cao học - Thạc sĩ Ngôn ngữ học K17, trong đó
có tác giả.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS Tạ Văn Thông, ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn, giảng giải những
kiến thức và phƣơng pháp nghiên cứu, để tác giả hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên
huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang, các cán bộ, giáo viên trong Trung tâm và các
bạn đồng nghiệp đã tạo điều kiện, tận tình giúp đỡ và động viên tác giả.
Và cuối cùng là lời cảm ơn chân thành tới gia đình, tới các bạn học viên
lớp Cao học Ngôn ngữ K17 đã luôn bên cạnh và chia sẻ những khó khăn với
tác giả trong thời gian qua.
Dù tác giả đã hết sức cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự chỉ dẫn, góp ý kiến của các
thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn.

Thái Nguyên, ngày 5 tháng 8 năm 2011
Tác giả




Lê Thị Thuận





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii

LỜI CAM ĐOAN


Ngoài những phần trích dẫn cụ thể, tôi xin cam đoan đây là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các cứ liệu nêu trong luận văn
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc
công bố trong bất kì công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN




Lê Thị Thuận















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iii
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 9
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ HỌC 9
1.1.1. Từ và đoản ngữ 9
1.1.2. Danh từ và danh ngữ trong tiếng Việt 11
1.1.3. Nghĩa và trƣờng nghĩa 13
1.2. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA 15
1.2.1. Ngôn ngữ là gì? 15
1.2.2. Văn hoá là gì? 16
1.2.3. Biểu tƣợng văn hoá 19
1.2.4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá 20
1.3. ĐỒNG DAO VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT 23
1.3.1. Đồng dao là gì? 23
1.3.2. Một số đặc điểm của đồng dao 29
Tiểu kết 36
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ
NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT TRONG ĐỒNG DAO
NGƢỜI VIỆT 38
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT TRONG ĐỒNG

DAO NGƢỜI VIỆT 38
2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT
TRONG ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT 41
2.2.1. Đặc điểm cấu tạo của từ chỉ động - thực vật 41
2.2.2. Đặc điểm cấu tạo của các danh ngữ chỉ động vật - thực vật: 44
2.2.3. Nhận xét kết quả khảo sát 40
2.3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA LỚP TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ
THỰC VẬT TRONG ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT 48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

iv
2.3.1. Các từ ngữ chỉ các lớp động vật và bộ phận cơ thể động vật 48
2.3.2. Các từ ngữ chỉ các lớp thực vật và bộ phận thực vật 53
2.4. SỰ BIẾN ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN NGHĨA CỦA MỘT SỐ TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT
THỰC VẬT TRONG ĐỒNG DAO NGƢỜI VIỆT 56
2.4.1. Từ nghĩa đen đến nghĩa bóng 56
2.4.2. Một số từ ngữ chỉ động vật thực vật trong đồng dao ngƣời Việt
mang nghĩa biểu trƣng 61
Tiểu kết 70
Chƣơng 3: MỘT SỐ NÉT VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI VIỆT THỂ HIỆN
QUA CÁC TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT VÀ THỰC VẬT TRONG
ĐỒNG DAO 71
3.1. VỚI NHỮNG TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG THỰC VẬT, CÁC BÀI ĐỒNG DAO PHẢN
ÁNH MỘT THẾ GIỚI ĐỘNG THỰC VẬT ĐỦ LOẠI VÀ NHIỀU MÀU SẮC Ở NÔNG
THÔN VIỆT NAM 71
3.1.1. Về thế giới động vật 72
3.1.2. Về thế giới thực vật 75
3.2. VỚI NHỮNG TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG THỰC VẬT, ĐỒNG DAO ĐÃ VẼ LÊN NHỮNG
BỨC TRANH PHONG TỤC, VUI CHƠI, HỘI HÈ TRUYỀN THỐNG Ở LÀNG QUÊ VIỆT 77

3.3. VỚI NHỮNG TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG THỰC VẬT ĐỒNG DAO THỂ HIỆN THÁI ĐỘ
TÌNH CẢM ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI, QUAN NIỆM SỐNG CỦA
NGƢỜI VIỆT 83
3.4. VỚI CÁC TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG THỰC VẬT, ĐỒNG DAO LƢU GIỮ NHỮNG THÓI
QUEN SỬ DỤNG NGÔN NGỮ, MANG ĐẶC TRƢNG LỜI ĂN TIẾNG NÓI CỦA
NGƢỜI VIỆT VÀ KẾT TINH VẺ ĐẸP TIẾNG VIỆT 87
Tiểu kết 89
KẾT LUẬN 91
THƢ MỤC THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Đồng dao là một bộ phận quan trọng trong kho tàng thơ ca dân gian,
có sức sống mãnh liệt trong dân gian nhờ sự trong sáng, hồn nhiên, mộc mạc,
dễ nhớ, dễ thuộc. Đó là những lời hát thƣờng gắn liền với hoạt động vui chơi
và trò chơi của trẻ em. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đồng dao của
ngƣời Việt, nhƣng việc nghiên cứu ngôn từ trong đồng dao chƣa nhiều, đặc
biệt chƣa có những nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về mặt từ vựng - ngữ nghĩa
trong đồng dao.
1.2. Đối tƣợng của sáng tác đồng dao là trẻ em, vì vậy các tác giả dân
gian thƣờng lấy tên gọi những sự vật hiện tƣợng gần gũi xung quanh để đƣa
vào đồng dao, nhằm giúp trẻ em nhận biết các sự vật hiện tƣợng này, tăng
cƣờng những nhận biết về môi trƣờng xã hội và thiên nhiên xung quanh, đồng
thời giáo dục về tình yêu thiên nhiên và quê hƣơng đất nƣớc, về lòng nhân ái,
nghĩa đồng bào, về tình cảm gia đình…Qua đó, đồng dao cũng rèn luyện óc

quan sát, rèn luyện ngôn ngữ cho trẻ.
Trên thực tế, cho đến nay việc nghiên cứu các từ ngữ thuộc trƣờng
động vật và thực vật trong đồng dao (các từ ngữ thƣờng gặp và đem lại ấn
tƣợng rất sâu sắc đối với trẻ em) lại chƣa đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý đúng
mức, chƣa có công trình nào chỉ ra đƣợc đầy đủ và sâu sắc những đặc điểm,
vai trò và cách sử dụng lớp từ ngữ này trong việc tạo nên những giá trị của
đồng dao ngƣời Việt.
1.3. Một câu hỏi đặt ra là: thông qua lớp từ ngữ thuộc trƣờng động vật,
thực vật trong đồng dao của ngƣời Việt, có thể thấy đƣợc phần nào những đặc
trƣng văn hoá của ngƣời Việt đối với thế giới và các mối quan hệ xung quanh,
hay không? Đó là câu hỏi thú vị và cho đến nay cũng chƣa có lời giải đáp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Với những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Lớp từ ngữ chỉ động vật
và thực vật trong đồng dao ngƣời Việt” làm hƣớng nghiên cứu trong luận
văn này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Cho đến nay đồng dao của ngƣời Việt đã đƣợc nhiều nhà khoa học đề
cập đến khi sƣu tầm và nghiên cứu văn học dân gian, cùng với ca dao, tục
ngữ, câu đố, truyện cổ tích…. Các nhà nghiên cứu đã bàn đến nhiều vấn đề:
các tiêu chí xác định đồng dao; hình thức đồng dao; nội dung đồng dao; cách
phân loại đồng dao…
Các công trình sƣu tầm, tuyển chọn hoặc có phần sƣu tầm, tuyển chọn
đồng dao của ngƣời Việt:
- Nguyễn Thuý Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng
(1997), Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà
Nội. Sách gồm 799 trang, tập hợp và giới thiệu các sáng tác dân gian nhƣ
đồng dao, câu đố, trò chơi trẻ em, đồng dao có tên tác giả và đồng dao dƣới

con mắt các nhà nghiên cứu.
- Vũ Ngọc Phan (2002), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Văn
học Hà Nội. Cuốn sách này đã đƣợc trao giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật. Cuốn sách là tập hợp các tác phẩm tục ngữ, ca dao, dân ca Việt
Nam, trong đó có nhiều bài thuộc thể loại đồng dao. Phần giới thiệu các tác
phẩm đƣợc chia ra các bộ phận: quan hệ với thiên nhiên, quan hệ xã hội, dân
ca, tục ngữ, ca dao của đồng bào miền núi… Song trong phần giới thiệu của
sách này chƣa có sự phân biệt đồng dao với các thể loại khác.
- Bùi Hà My (2004), Bé với khúc đồng dao, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Đây
là cuốn sách nhỏ gồm 40 trang, kết hợp với tranh vẽ. Cuốn sách giới thiệu các
bài đồng dao quen thuộc, phù hợp với lứa tuổi Mầm non.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
- Trần Gia Linh (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Kho tàng đồng dao
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu 279 bài đồng dao
đƣợc sắp xếp thành 6 chủ đề lớn: Đồng dao về thiên nhiên đất nƣớc; Đồng
dao với trò chơi của tuổi thơ; Đồng dao - những bài ca tập làm ngƣời lao
động; Đồng dao - cái nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ; Đồng dao - những câu đố
lý thú; Những bài hát ru. Những bài đồng dao gắn liền trò chơi của tuổi thơ,
có phần hƣớng dẫn cách chơi để ngƣời đọc tham khảo.
- Nguyễn Nghĩa Dân (2008), Đồng dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
Những nghiên cứu về đồng dao của ngƣời Việt:
- Vũ Ngọc Khánh (1974), “Mấy điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam”,
Tạp chí Văn học, số 4.
Trong bài viết này, khái niệm đồng dao lần đầu tiên đƣợc dùng. Theo
tác giả, “đồng dao” đƣợc dùng “để chỉ các lời ca dân gian trẻ em gồm những
lời ca trong các trò chơi”. Tác giả nêu một cách sơ lƣợc về những đặc trƣng,
tác dụng, cấu tạo và bàn về dị bản trong đồng dao. Tác giả viết rằng, “chỉ

muốn sơ bộ bàn về đồng dao theo góc độ văn học dân gian. Thật ra, thể loại
này còn nhiều vấn đề có thể đi sâu hơn nữa. Thí dụ kinh nghiệm giáo dục qua
đồng dao, khảo sát ngôn ngữ qua lời văn đồng dao, ít nhất cũng tìm thêm
được nhiều tia sáng khoa học khác…”.
- Nguyễn Hữu Thu (1986), “Diễn xƣớng đồng dao”, Tạp chí Văn học,
số 4, tr. 79-81.
Bài viết này bàn về vấn đề diễn xƣớng trong đồng dao - một loại hình
văn học dân gian. Những “hình thức hát ru em”, những triết lí, những đặc
điểm nhịp điệu đồng dao và sự phân chia những bài đồng dao theo từng độ
tuổi. Có thể thấy bài viết mới chỉ bàn sơ lƣợc về ngôn ngữ trong đồng dao
thông qua việc bàn về nhịp điệu của đồng dao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
- Lã Thị Bắc Lý (năm 1988), Bƣớc đầu tìm hiểu đồng dao trong hệ
thống nghiên cứu thơ cho nhi đồng, Tạp chí Văn học, số 2, (tr.116-121).
Điểm nổi bật của bài viết này là tác giả đã giới thiệu đƣợc một số hình thức
kết cấu của đồng dao, cụ thể đó là những bài đồng dao thể hiện bằng thể thơ
ba chữ, bốn chữ…
- Bùi Thanh Tuấn (2008), Bƣớc đầu tìm hiểu đồng dao của ngƣời Việt
nhìn từ góc độ ngôn ngữ học (luận văn thạc sĩ). Luận văn này đã đề cập đến
đồng dao của ngƣời Việt nói chung nhìn từ phƣơng diện cấu tạo hình thức và
một số biện pháp tu từ chủ yếu đƣợc sử dụng trong đồng dao.
- Chu Xuân Diên (1977), trong mục “Các thể loại trữ tình dân gian”
(thuộc chƣơng “Các thể loại văn học dân gian”), Văn học dân gian Việt Nam,
tr.429. Tác giả viết: “Những bài hát trò chơi hay những trò chơi có bài hát,
như “Chi chi chành chành”, “Dung giăng dung giẻ”, “Nu na nu nống”,
“Rồng rắn”…có thể do người lớn sáng tạo ra, cũng có thể do các em tự nghĩ
ra. Nhưng sinh hoạt hát vui chơi, sinh hoạt vừa chơi vừa hát là một sinh hoạt

của các em. Cho nên đây là một trong những bộ phận tạo thành cái mà chúng
ta gọi là văn học dân gian thiếu nhi…”.
- Nguyễn Nghĩa Dân( 2008), Đồng dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
Cuốn sách gồm có hai phần lớn, tập trung vào hai mảng nội dung là
nghiên cứu chung về thể loại đồng dao và giới thiệu, chú thích các bài đồng
dao, chia làm 5 phần: Đồng dao: Trẻ em hát; Đồng dao: Trẻ em hát - trẻ em
chơi; Đồng dao: Hát ru, Trẻ em đố vui, Ca dao cho trẻ em - Phụ lục: Đồng
dao của một số dân tộc thiểu số.
Cuốn sách này đã có phần viết về tính chất, chức năng và tác dụng của
đồng dao. Tác phẩm còn đề cập đến nhiều vấn đề của đồng dao nhƣ đồng dao
một xã hội nông nghiệp gần gũi thân thƣơng với trẻ em; đồng dao - môi
trƣờng văn hoá, văn nghệ “chơi mà học, học mà chơi” của trẻ em. Đồng dao -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
nơi khởi nguồn của tình mẫu tử, lòng thƣơng ngƣời, môi trƣờng hình thành,
bồi dƣỡng nhân cách đạo đức cho trẻ em… Tác giả Nguyễn Nghĩa Dân đã
nhận xét khái quát nhƣ sau:
“Vì đồng dao là của trẻ em nên đồng dao có tính chất vui chơi phù hợp
với tâm sinh lý trẻ em…”. “Đồng dao có ba chức năng: nhận thức, thẩm mỹ
và giáo dục ở mức độ phù hợp với tâm sinh lý của trẻ em”.
- Triều Nguyên (2010), Tìm hiểu về đồng dao ngƣời Việt, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh trong đồng
dao nhƣ: hình thức của đồng dao; nội dung của đồng dao; phân loại đồng dao;
sự sáng tạo và vận dụng đồng dao.

Nhƣ vậy, có thể thấy có rất nhiều tác giả nghiên cứu về đồng dao, các
công trình và bài viết này đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy

nhiên, những nghiên cứu chuyên biệt về các từ ngữ chỉ động vật và thực vật
trong đồng dao hầu nhƣ chƣa gặp. Vì thế, có thể xem đề tài của luận văn này
là sự kế tục những kết quả sƣu tầm và tuyển chọn, nghiên cứu trƣớc đây, đồng
thời đi vào một hƣớng nghiên cứu hứa hẹn có thể có những kết quả mới.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện, miêu tả đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động
vật, thực vật trong đồng dao của ngƣời Việt, từ đó góp phần chỉ ra vai trò của
việc sử dụng các từ ngữ này trong đồng dao và phần nào thấy đƣợc một số
đặc điểm văn hoá của ngƣời Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định những cơ sở lí thuyết liên quan đến đề tài.
- Khảo sát sự xuất hiện của lớp từ ngữ chỉ động vật, thực vật trong đồng dao.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
- Miêu tả một số đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của lớp từ ngữ chỉ
động vật và thực vật trong đồng dao.
- Chỉ ra một số nét văn hóa của ngƣời Việt thông qua việc sử dụng lớp từ
ngữ chỉ động vật và thực vật trong đồng dao.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng khảo sát và nghiên cứu của luận văn là các bài đồng dao trong
cuốn sách Đồng dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân, do NXB Văn học ấn
hành năm 2008. Cuốn sách gồm có hai phần lớn:
Phần thứ nhất có nội dung nghiên cứu chung về thể loại đồng dao:
Đồng dao và hệ thống đồng dao ; Tính chất, chức năng và tác dụng của đồng
dao ; Nội dung của đồng dao ; Đặc điểm thi pháp của đồng dao.
Phần thứ hai là kết quả sƣu tầm, tuyển chọn, chú thích, giới thiệu các

bài bài đồng dao, chia làm 5 phần: Đồng dao: Trẻ em hát; Đồng dao: Trẻ em
hát - trẻ em chơi; Đồng dao: Hát ru, Trẻ em đố vui, Ca dao cho trẻ em ; Phụ
lục: Đồng dao của một số dân tộc thiểu số.
Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận văn là: các bài đồng dao thuộc hai
phần trong cuốn sách nói trên: Đồng dao: Trẻ em hát (308 bài) và Đồng dao:
Trẻ em hát - trẻ em chơi (86 bài).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các bài đồng dao có sử dụng
các từ ngữ chỉ động vật và thực vật trong tác phẩm kể trên, ở hai khía cạnh
chính: hình thức cấu tạo và đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp thống kê - phân loại: đƣợc sử dụng để thống kê các từ
ngữ chỉ động vật và thực vật trong đồng dao, theo những mục đích cần miêu
tả và phân tích khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
- Phƣơng pháp miêu tả: sử dụng các thủ pháp phân tích và tổng hợp,
nhằm chỉ ra những đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của lớp từ ngữ cần nghiên
cứu trong các bài đồng dao cụ thể, tìm ra những quy luật chung của chúng.
- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa: đƣợc sử dụng khi xác định các nét
nghĩa gốc và phái sinh của các từ ngữ chỉ động vật và thực vật, tìm hiểu nghĩa
biểu tƣợng của một số từ ngữ thuộc đối tƣợng nghiên cứu trong đồng dao của
ngƣời Việt.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6.1. Về lí luận
Tác giả luận văn hi vọng sẽ đóng góp phần tƣ liệu và cách nhìn nhận
trong tìm hiểu hệ thống từ vựng ngữ nghĩa của tiếng Việt, đặc biệt là sự
nghiên cứu các trƣờng nghĩa trong ngôn từ nghệ thuật và các thể loại văn vần

trong văn học dân gian Việt Nam.
6.2. Về thực tiễn
- Giúp cho việc sƣu tầm và phổ biến dân ca nói chung và đồng dao của
ngƣời Việt nói riêng.
- Giúp cho việc tìm hiểu sâu sắc hơn về vai trò của sự sử dụng ngôn từ
cũng nhƣ những giá trị văn hoá trong đồng dao ngƣời Việt.
- Giúp cho các bậc cha mẹ, các cơ sở giáo dục Mầm non, Tiểu học có
thêm cơ sở, khi hƣớng dẫn hoạt động vui chơi của trẻ em với sự tham gia của
đồng dao.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Chƣơng 2: Đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của lớp từ ngữ chỉ động vật
và thực vật trong đồng dao
Chƣơng 3: Một số nét văn hóa của ngƣời Việt thể hiện qua các từ ngữ
chỉ động vật và thực vật trong đồng dao
Ở phần Phụ lục có bảng liệt kê các từ ngữ chỉ động vật và thực vật cùng
với tần số xuất hiện của chúng trong các bài đồng dao thuộc đối tƣợng
khảo sát.
.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ HỌC
1.1.1. Từ và đoản ngữ
Từ đƣợc xem là đơn vị cơ bản của tiếng Việt, là một đơn vị mà đã, đang
và có thể sẽ vẫn là đối tƣợng lâu dài, trọng tâm của ngôn ngữ học. Cho đến
nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề định nghĩa từ, có
thể đã có tới trên 300 định nghĩa về từ. Với mỗi mục đích nghiên cứu khác
nhau, ngƣời nghiên cứu lại nhấn mạnh tới một phƣơng diện của từ.
Tới nay, hầu nhƣ tất cả các nghiên cứu đều thống nhất với định nghĩa:
“Từ là đơn vị nhó nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững hoàn chỉnh,
có chức năng gọi tên; được vận dụng độc lập hay tái hiện tự do trong lời nói
để tạo câu” [13, tr.142].
Từ góc độ nghiên cứu ngữ pháp, có tác giả phát biểu ý kiến: “Từ là đơn
vị ngôn ngữ nhỏ nhất, có ý nghĩa và độc lập trong lời nói, nghĩa là nó được
vận dụng một cách tự do theo quy luật kết hợp của ngữ pháp” [42, tr. 331].
Tác giả Đỗ Hữu Châu lại biện luận và đƣa ra định nghĩa “Để khỏi phải
tham gia vào cuộc tranh luận về vấn đề từ là gì, chúng ta tạm thời chấp nhận
định nghĩa sau đây về từ của tiếng Việt: từ của tiếng Việt là một hoặc một số
âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm
trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất
định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu”[49, tr.333].
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên lại đƣa ra khái niệm: “Từ là
đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực hiện chức năng giao
tiếp và chức năng tư duy… Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình thức và mặt ý
nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số thành phần:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
thành phần ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi là
cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp” [42, tr. 334 - 335].
Với mục đích nghiên cứu từ ngữ chỉ động vật, thực vật trong đồng dao -
những lời hát của trẻ em và cho trẻ em, chúng tôi sử dụng định nghĩa về từ
của cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt:
“Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn
chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời
nói để tạo câu.
Từ có thể có một âm tiết hoặc hai, ba âm tiết trở lên” [13, tr.141].
Ví dụ: đó là 7 từ trong câu: Đồng dao/ là/ một /bộ phận/ của /văn học/
dân gian.
Đơn vị cấu tạo nên từ của tiếng Việt là “tiếng” (còn gọi là các “từ tố,
thành tố, yếu tố…”). Từ tiếng Việt đƣợc cấu tạo hoặc là bằng cách dùng một
tiếng, hoặc là tổ hợp các tiếng lại theo lối nào đó. Có ba phƣơng thức cấu tạo từ:
- Dùng một tiếng làm một từ để có các từ đơn: nhà, cửa, hát, học, bay,
đi, đứng…
- Ghép các tiếng có quan hệ về nghĩa với nhau để có các từ ghép: học
tập, dân tộc, sương muối, đường sá, chim chóc, mặt mũi, gan dạ, chim chích
bông…
- Ghép các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm (còn gọi là “láy”) để có các
từ láy: chuồn chuồn, mong manh, lung linh, liên miên, bấp bênh, lấp lánh…
Đoản ngữ (còn gọi là cụm từ chính phụ, ngữ) đƣợc quan niệm là loại
cụm từ chính phụ, trong đó các thành tố không bình đẳng với nhau về mặt
ngữ pháp.Trong một đoản ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và
ngữ pháp, gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi các
thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên danh ngữ),
động từ (tạo nên động ngữ), tính từ (tạo nên tính ngữ). Đơn vị ngữ pháp lớn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
hơn từ là tổ hợp từ (còn gọi là “cụm từ”). Xét theo mối quan hệ giữa các bộ
phận cấu thành tổ hợp từ ngƣời ta phân biệt tổ hợp từ có quan hệ chủ vị, tổ
hợp từ có quan hệ bình đẳng và tổ hợp từ có quan hệ chính phụ. Loại tổ hợp
từ thứ ba này ngƣời ta gọi là đoản ngữ hay ngữ. Tổ chức đoản ngữ thƣờng có
ba phần: phần trung tâm, phần phụ trƣớc và phần phụ sau.
Theo quan điểm của Nguyễn Kim Thản, Lê Xuân Thại và Nguyễn Minh
Thuyết khi xét cụm từ về mặt quan hệ cú pháp thì “cụm từ có ba loại: cụm từ
đẳng lập (các thành tố có quan hệ bình đẳng với nhau), cụm từ chính phụ
(các thành tố có quan hệ chính phụ với nhau), cụm từ chủ vị (các thành tố có
quan hệ tường thuật với nhau)” [22, tr.159]. Đơn vị ngữ pháp lớn hơn từ là tổ
hợp từ (còn gọi là “cụm từ”). Xét theo mối quan hệ giữa các bộ phận cấu
thành tổ hợp từ ngƣời ta phân biệt tổ hợp từ có quan hệ chủ vị, tổ hợp từ có
quan hệ bình đẳng và tổ hợp từ có quan hệ chính phụ. Loại tổ hợp từ thứ ba
này ngƣời ta gọi là đoản ngữ hay ngữ. Tổ chức đoản ngữ thƣờng có ba phần:
phần trung tâm, phần phụ trƣớc và phần phụ sau.
Theo từ loại của thành tố chính, ngƣời ta chia đoản ngữ tiếng Việt thành
các loại sau: danh ngữ, động ngữ, tính ngữ, số ngữ và đại ngữ.
1.1.2. Danh từ và danh ngữ trong tiếng Việt
Nghiên cứu về từ loại là nghiên cứu các lớp từ của ngôn ngữ xét theo các
đặc trƣng ngôn ngữ của chúng. Để phân định các lớp từ (các từ loại) trong
tiếng Việt, ngƣời ta thƣờng căn cứ vào các tiêu chuẩn: ý nghĩa khái quát, khả
năng kết hợp và chức vụ cú pháp của từ trong câu.
Các ý nghĩa khái quát chính của từ của các lớp từ tiếng Việt: ý nghĩa chỉ
vật, ý nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái, ý nghĩa tính chất, ý nghĩa số lƣợng,
ý nghĩa quan hệ, ý nghĩa tình thái. Căn cứ vào đặc trƣng ngữ pháp và nội
dung ý nghĩa khái quát, vốn từ tiếng Việt có thể xếp vào 10 từ loại: danh từ,
động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết từ, trợ từ, tình thái từ và thán từ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Các từ ngữ chỉ động vật, thực vật thƣờng mang ý nghĩa khái quát chính
là chỉ vật, là cách gọi tên (định danh) các sự vật thuộc các phạm trù động và
thực vật.
Với đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là “Lớp từ ngữ chỉ động vật và thực
vật”, nên chúng tôi xin chỉ giới hạn phần cơ sở lí thuyết ở danh từ và danh
ngữ (cụm danh từ)- các đơn vị có vai trò định danh và có nghĩa thuộc các
trƣờng nói trên.
Danh từ là gì?
Từ loại là một phạm trù từ vựng - ngữ pháp. Danh từ, động từ, tính từ, số
từ,… là những từ loại đƣợc phân định dựa trên những tiêu chí, đặc điểm về
mặt ý nghĩa, về hình thức ngữ pháp, chức năng ngữ pháp.
Danh từ, theo cách hiểu thông thƣờng và phổ biến nhất, là những từ biểu
thị sự vật (bao gồm cả ngƣời, động vật, sự vật, hiện tƣợng, khái niệm…).
Danh từ đƣợc chia thành hai lớp nhỏ là danh từ chung và danh từ riêng.
Danh từ chung bao gồm:
- Danh từ vật thể: chỉ ngƣời, động vật, thực vật, đồ vật,…
- Danh từ chất thể: chỉ vật xét ở chất thể của chúng
- Danh từ tƣợng thể: chỉ các vật thể tƣởng tƣợng, các khái niệm chỉ vật
trừu tƣợng…
- Danh từ tập thể, chỉ tập hợp các vật thƣờng là đồng chất đƣợc hình
dung thành một khối rời nhƣ: đàn, bầy, lũ, bọn…
Danh từ là kết quả của quá trình dịnh danh của ngƣời nói. Quá trình định
danh này thể hiện rất rõ nét đặc trƣng văn hóa của các dân tộc khác nhau. Mỗi
sự vật hiện tƣợng khi đƣợc một cộng đồng gọi tên sẽ ít nhiều phản ánh trong
tên gọi của mình những quan niệm, cách nhìn, thói quen,… của dân tộc chủ
thể của ngôn ngữ. Đó là một trong những biểu hiện cụ thể của mối quan hệ
giữa văn hóa và ngôn ngữ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Danh ngữ là gì?
Đoản ngữ (hay còn gọi là cụm từ) có danh từ làm trung tâm đƣợc gọi là
danh ngữ (hay ngữ danh từ). Danh ngữ bao gồm hai phần chính: bộ phận
trung tâm (danh từ) và các thành tố phụ.
Danh ngữ có thể tồn tại ở các mô hình cấu tạo sau (Ghi chú: D là danh
từ; T là từ chỉ tính chất, trạng thái…): D1 - D2 - D3; D1 – D2; D1 - D2 – T;
D – T…
1.1.3. Nghĩa và trƣờng nghĩa
Nghĩa là gì?
Từ bao gồm hai phƣơng diện: vỏ âm thanh và nội dung cần biểu hiện,
nghĩa. Trong hai mặt của đơn vị ngôn ngữ này (biểu hiện và đƣợc biểu hiện,
hình thức và nội dung), nghĩa thuộc mặt thứ hai.
Các nhà ngôn ngữ học đã đƣa ra nhiều cách hiểu về nghĩa của từ.
“Nghĩa” là một khái niệm rất trừu tƣợng. Đó là khái niệm gắn với tất cả các
đợn vị ngôn ngữ bởi sự tồn tại của ngôn ngữ là nghĩa; không có nghĩa, sự tồn
tại của hình thức âm thanh là không có mục đích.
Nhiều nhà nghiên cứu có cùng quan điểm về “nghĩa” nhƣ sau: Hiện thực
phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ thƣờng trực với một
hình thức âm thanh nhất định. Sự phản ánh này đƣợc hiện thực hóa bằng ngôn
ngữ. Mối liên hệ này đƣợc hiểu là nghĩa.
Theo Nguyễn Thiện Giáp: “Nghĩa của từ (cũng như các đơn vị ngôn ngữ
khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó. Hiểu nghĩa của
một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức nó biểu thị cái
gì” [20, tr. 261].
Cần phần biệt nghĩa của từ ngữ với sự hiểu biết về nghĩa đó. Hiểu biết về
nghĩa của đơn vị ngôn ngữ nào đó nằm trong nhận thức của con ngƣời, còn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
nghĩa của đợn vị ngôn ngữ tồn tại thực sự khách quan trong lời nói, còn trong
nhận thức chỉ có sự phản ánh của những nghĩa đó mà thôi.
Sau khái niệm “nghĩa của từ”, thƣờng có những sự phân biệt: nghĩa đen,
nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn, nghĩa biểu cảm, nghĩa biểu hiện, nghĩa cấu trúc,
nghĩa chính, nghĩa phụ, nghĩa chuyển tiếp, nghĩa gốc, nghĩa gợi cảm, nghĩa
hàm chỉ, nghĩa hiển ngôn…
Trƣờng nghĩa là gì?
Các nhà ngôn ngữ học cũng đã bàn nhiều về trƣờng nghĩa. Dù đã có
nhiều ý kiến khác nhau nhƣng có thể thấy ở các tác giả có ý chung: Trƣờng
nghĩa là khái niệm dùng để chỉ phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn
nhau về ý nghĩa, trong đó, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một đơn vị
thành ngữ. Các đơn vị từ vựng trong một trƣờng nghĩa phải có chung một
thành tố nghĩa.
Tác giả Nguyễn Thiệp Giáp đƣa ra khái niệm về trƣờng nghĩa nhƣ sau:
“Kiểu trường nghĩa phổ biến nhất là cái được gọi là “nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa”. Tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa
có thể rất khác nhau. Chẳng hạn, có thể dựa vào sự tồn tại của các từ khái
quát, biểu thị các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tượng nhất và trung hòa.
Các từ này được dùng hiển thị phạm trù chung, trên cơ sở đó, tập hợp tất cả
các thành phần còn lại của trường. Thí dụ: dùng từ hoa để tập hợp các tên
hoa khác nhau, dùng từ cây để tập hợp các tên cây khác nhau, từ đồ đạc để
tập hợp các từ bàn ghế, tử, giường,…. Từ mang có thể tập hợp quanh nó các
từ như: đem, cõng, khiêng, vác, kiệu, đeo, đèo, địu, lai, thồ,… Nói chung, theo
cách này, khi tập hợp các từ vào một trường, người nghiên cứu không chỉ dựa
vào sự hiểu biết của mình mà còn có thể dựa vào trực giác tập thể của những
ngươi biên soạn từ điển” [19, tr.112].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Các nhà nghiên cứu đã xác định đƣợc nhiều trƣờng nghĩa thuộc vốn từ
vựng của một ngôn ngữ, trong đó có các trƣờng nghĩa nhƣ: động vật, thực vật,
thời tiết, màu sắc, quan hệ thân tộc, đồ dùng học tập, đồ dùng gia đình…
Nhiệm vụ của việc phân tích tìm hiểu các trƣờng nghĩa là xác định tính
hệ thống của những quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố ở trong trƣờng.
Trong các trƣờng nghĩa quen thuộc, hệ thống các từ ngữ chỉ động vật,
thực vật là một trƣờng nghĩa lớn, bao gồm toàn bộ các từ ngữ đƣợc dùng để
gọi tên các loại động vật thực vật và các bộ phận của động thực vật. Trƣờng
nghĩa từ ngữ chỉ động vật thực vật bao gồm các loại từ đơn, từ ghép và cụm
từ. Chúng là hệ thống các từ ngữ đồng nhất với nhau về mặt ngữ nghĩa: đều
dùng để gọi tên động vật hoặc thực vật.
Tác giả Đỗ Hữu Châu căn cứ vào quan điểm của F.de Saussure trong
“Giáo trình ngôn ngữ học đại cƣơng”, đã xác định hai loại trƣờng nghĩa:
trƣờng nghĩa ngang (trƣờng nghĩa tuyến tính), trƣờng nghĩa dọc (trƣờng nghĩa
trực tuyến). Trong đó, trƣờng nghĩa dọc có hai loại trƣờng nghĩa: trƣờng
nghĩa biểu vật và trƣờng nghĩa biểu niệm. Dựa theo quan điểm trên, thì lớp từ
ngữ chỉ động vật thực vật thuộc loại trƣờng nghĩa biểu vật.
Trong trƣờng nghĩa động vật hay trƣờng nghĩa thực vật lại có thể có các
trƣờng nhỏ hơn nhƣ: trƣờng nghĩa chỉ cây, trƣờng nghĩa chỉ “hoa”, trƣờng
nghĩa chỉ “quả”…
1.2. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA
1.2.1. Ngôn ngữ là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, ngôn ngữ là:
1. Hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà
những người trong cùng một cộng đồng cùng làm phương tiện để giao tiếp
với nhau.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
2. Hệ thống kí hiệu dùng làm phương tiện để diễn đạt, thông báo. Ngôn
ngữ điện ảnh.
3. Cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính chất
riêng. Ngôn ngữ Nguyễn Du [42, tr. 1079].
Trong nhiều cuốn sách ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu đều có quan
điểm chung, đƣợc khát quát ở mốt số nội dung sau:
- Ngôn ngữ là một hiện tƣợng xã hội đặc biệt.
- Ngôn ngữ là một loại hệ thống các tín hiệu. Các tín hiệu ngôn ngữ đều
có hai mặt: mặt biểu hiện là âm thanh; mặt đƣợc biểu hiện gồm: các sự vật mà
từ làm tên gọi cho chúng và nội dung ý nghĩa, khái niệm về các sự vật đƣợc
gọi tên.
- Chức năng cơ bản của ngôn ngữ: ngôn ngữ là công cụ của giao tiếp,
công cụ của tƣ duy, là nhân tố cấu thành văn hóa và truyền tải văn hóa.
1.2.2. Văn hoá là gì?
“Văn hóa” là một khái niệm đã trở thành thông dụng trong nói năng
hàng ngày cũng nhƣ trong nghiên cứu khoa học. Nhƣng định nghĩa văn hóa là
gì vẫn đang là vấn đề đƣợc quan tâm. Đã có rất nhiều khái niệm về “văn hóa”
đƣợc công bố. Từ năm 1952, hai nhà nhân học Mỹ, Alfred Kroeber và Clyde
Kluckhohn, trong một nỗ lực tìm hiểu, đã công bố một công trình về những ý
đồ định nghĩa khái niệm “văn hóa” và những khái niệm gần gũi với nó trong
khoa học xã hội: họ tìm thấy không dƣới 164 định nghĩa. Sự khác nhau của
chúng không chỉ là ở bản chất của định nghĩa đƣa ra (bởi nội dung, chức
năng, các thuộc tính), mà cả ở những cách sử dụng tƣơng đối rộng rãi của từ
này. Theo A. Kroeber và C. Kluckhon, ít ra có hai cách sử dụng: Một là, thừa
kế triết học thời Khai Sáng, gọi di sản học thức tính luỹ từ Thời Cổ mà các
dân tộc phƣơng Tây tin chắc là đã dựng lên nền văn minh của họ trên đó, là

“văn hóa”. Cách sử dụng kia, chuyên về nhân học hơn, thì gọi văn hóa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
“toàn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị,
những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con
người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được”, theo định nghĩa đƣợc
coi là chuẩn do Edward B. Tylor đƣa ra năm 1871. Cho đến nay đã có khoảng
trên 400 định nghĩa về văn hóa.
Cựu Tổng Giám đốc UNESSCO Federico Mayor đƣa ra định nghĩa:
"Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình".
Năm 2002, UNESSCO đã đƣa ra định nghĩa về văn hóa nhƣ sau: “Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm
hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong
xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương
thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” (Tuyên bố chung
của Unessco về "tính đa dạng của văn hóa”).
Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ “văn hóa" nhƣ sau:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống
tinh thần (nói tổng quát).
3. Tri thức, kiến thức khoa học (nói tổng quát).
4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh.
5. (chm) Nền văn hoá của một thời kì lịch sử cổ xưa, được xác định trên

cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau
[42, tr. 1079].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Trong cuốn Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hoá Việt, tác giả Nguyễn
Văn Chiến không đƣa ra khái niệm ngắn gọn mà trả lời câu hỏi “Văn hoá là
gì?” bằng một số ý cơ bản sau:
- Văn hoá là một hiện tƣợng, một phạm trù thuộc về con ngƣời, do con
ngƣời làm nên. Vì vậy văn hoá là tiêu chuẩn, tiêu chí hiển nhiên khu biệt con
ngƣời - động vật với con vật.
- Văn hoá là một sản phẩm đặc thù của xã hội loài ngƣời.
- Một hiện tƣợng văn hoá luôn tồn tại với những lí do riêng của nó.
- Thành tựu của nền văn hoá là con ngƣời. Văn hoá không phải là các vật
đơn thuần ta sờ thấy đƣợc một cách cụ thể. Hiện tƣợng văn hoá hiện diện
trƣớc mặt ta, trong ta nhƣ một thế giới đƣợc vật thể hoá, một thế giới đƣợc
khúc xạ rõ ràng.
Các nền văn hoá của các dân tộc trên thế giới vừa có tính riêng biệt vừa
có sự giao thoa với nhau.
Tác giả Trần Ngọc Thêm đƣa ra định nghĩa “Văn hóa là hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội” [43, tr.10].
Đồng thời tác giả cũng đã nêu và phân tích ba đặc trƣng của văn hóa là:
tính hệ thống, tính giá trị và tính nhân sinh.
Nhƣ vậy, có thể hiểu “văn hóa” là bao gồm tất cả những sản phẩm do
con ngƣời tạo ra trong đời sống, và nhƣ vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía
cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội nhƣ ngôn ngữ, tƣ tƣởng, giá trị và các
khía cạnh vật chất nhƣ nhà cửa, quần áo, các phƣơng tiện,

Tóm lại, “văn hóa” là sản phẩm của loài ngƣời, đƣợc tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con ngƣời và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
gia vào việc tạo nên con ngƣời, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Nó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
đƣợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa,
đƣợc tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tƣơng tác xã hội của
con ngƣời. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của xã hội đƣợc biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con ngƣời
cũng nhƣ trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con ngƣời tạo ra.
1.2.3. Biểu tƣợng văn hoá
Nguyên nghĩa của “biểu” là bày ra, trình bày: “tượng” là hình ảnh, hình
dạng. Biểu tƣợng là một hình ảnh cụ thể nào đó đƣợc phô bày ra nhằm thể
hiện một nội dung trừu tƣợng; “biểu tượng” là “cái được dùng để tượng trưng
cho điều gì đó”.
Theo Từ điển tiếng Việt, từ biểu tượng có hai nghĩa:
1- Là hình ảnh tượng trưng, chẳng hạn, chim bồ câu là biểu tượng của
hòa bình.
2- Hình thức của nhận thức, cao hơn cả cảm giác, cho ta hình ảnh của
sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào góc giác quan
ta đã chấm dứt [42, tr. 64].
Biểu tƣợng vốn có bản chất khó xác định và biến ảo một cách sống động
trong mọi nền văn hóa. Lịch sử của biểu tƣợng xác nhận rằng mọi vật đều có
thể mang giá trị biểu tƣợng, dù là vật tự nhiên hay trừu tƣợng. C.Lévy-Straus
cho rằng: “Mọi nền văn hóa đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống
biểu tượng, trong đó xếp ở hàng đầu là ngôn ngữ, quy tắc hôn nhân, các quan
hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo”.
Sách Từ điển biểu tƣợng văn hóa thế giới đƣa ra quan niệm: “Khởi

nguyên, biểu tượng (symbole) là một vật được cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay
kim loại. Hai người, mỗi người giữ một phần, chủ và khách, người cho vay và
người đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp chia tay lâu dài… Sau này,
ráp hai mảnh lại với nhau họ sẽ nhận ra mối dây thân tình xưa, món nợ cũ,

×