Tải bản đầy đủ (.pdf) (199 trang)

Ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt ( so sánh với thành ngữ tiếng Anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.19 KB, 199 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ BẢO

NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI THÀNH NGỮ TIẾNG ANH)

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. HOÀNG DŨNG

TP. HCM - p2003


MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Mỗi ngôn ngữ, thông qua ngôn từ có những cấu trúc tạo nghóa khác nhau. Những cấu
trúc này thể hiện tư duy văn hoá dân tộc, tâm lý, trí thông minh và sự tài hoa của người bản
ngữ. Thành ngữ là một trong những cấu trúc tạo nghóa ấy. Thành ngữ không chỉ có tác dụng
làm cho lời văn hay, hình tượng đẹp mà còn có tác dụng diễn tả ý tưởng một các h sâu sắc, tế
nhị, hàm súc. Đặc biệt là thành ngữ có thành tố chỉ động vật.
0.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Do vị trí quan trọng trong kho từ vựng của một ngôn ngữ, thành ngữ đã thu hút được sự
quan tâm của giới nghiên cứu. Thành ngữ không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ
học mà còn là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác.
Việc sử dụng thành tố chỉ động vật trong các kết cấu thành ngữ thể hiện nét độc đáo
của nhân dân lao động, phản ánh tâm lý - văn hoá một dân tộc, góp phần tạo nên tính dị biệt
trong cách diễn đạt bằng ngôn từ, trong cách nhìn, cách nghó của mỗi dân tộc đối với hiện


thực khách quan. Cùng chỉ một khái niệm, một hiện tượng, một trạng thái tình cảm nhưng
mỗi dân tộc sử dụng những yếu tố động vật khác nhau để diễn đạt. Những yếu tố chỉ động
vật này thể hiện nét ngữ nghóa - văn hoá của từng dân tộc và thường được gọi là thành tố
văn hoá. Thí dụ, để chỉ chuyện ăn nhiều, người Việt Nam dùng hình ảnh con cọp, con trâu,
con rồng (ăn như hùm đổ đó, ăn như trâu, ăn như rồng cuốn…), người Anh lại dùng hình ảnh
con ngựa (eat like a horse). Còn khi chỉ chuyện ăn ít, người Anh dùng hình ảnh con chim (eat
like a bird), người Việt lại dùng hình ảnh con mèo (ăn như mèo). Người Việt Nam dùng hình
ảnh con trâu để chỉ tinh thần làm việc không biết mệt mỏi (hùng hục như trâu lăn), còn
người Anh lại mượn hình ảnh con ngựa (work like a horse) v.v..
Ở Việt Nam, thành ngữ tiếng Việt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và đã có
rất nhiều công trình có giá trị về thành ngữ. Chẳng hạn Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ
(Nguyễn Văn Mệnh, 1972) [59]; Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt (Hoàng
Văn Hành, 1976)[19]; Thành ngữ trong tiếng Việt (Hoàng Văn Hành, 1987) [17]; Biến thể


của thành ngữ, tục ngữ (Vũ Quang Hào, 1993) [111]; Phương pháp trường và việc nghiên cứu
thành ngữ Anh – Việt (Phan Văn Quế, 1994) [87]; Đặc trưng văn hóa dân tộc nhìn từ thành
ngữ, tục ngữ (Nguyễn Xuân Hòa, 1994) [63]; Đặc điểm hình thái và ngữ nghóa của thành ngữ
so sánh tiếng Việt (so sánh với thành ngữ so sánh tiếng Anh) (Lâm Bá Só, 2002) [27]; So sánh
cấu trúc – chức năng của thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt (Hoàng Diệu Minh, 2002) [13].
Riêng về mảng thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng Việt, Trịnh Cẩm Lan
(1995) khi nghiên cứu Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghóa và những giá trị biểu trưng của thành
ngữ tiếng Việt trên cứ liệu thành ngữ có thành tố cấu tạo là tên gọi động vật [102] có đề cập
đến thành ngữ động vật tiếng Việt nhưng chưa đi vào miêu tả cụ thể các nghóa khác nhau
của mỗi từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ. Nguyễn Thuý Khanh trong Đặc điểm trường từ
vựng - ngữ nghóa tên gọi động vật (trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) (luận án
phó tiến só, 1996), đã nghiên cứu khá sâu ngữ nghóa tên gọi các động vật trong tiếng Việt và
có đề cập một phần “ý nghóa biểu trưng của các thành ngữ so sánh có tên gọi động vật”
[57].
Ngoài ra, có một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:

 Một vài nhận xét về thành ngữ so sánh có tên gọi động vật tiếng Việt (Nguyễn Thúy
Khanh, Ngôn ngữ, số 3, 1994).
 Các con vật và một số đặc trưng của chúng được cảm nhận từ góc độ dân gian và khai
thác để đưa vào kho tàng thành ngữ tiếng Việt (Phan Văn Quế, Ngôn ngữ, số 4, 1995).
 Chú chuột trong kho thành ngữ, tục ngữ, ca dao tiếng Việt (Phương Trang, Ngôn ngữ và
đời sống, số 1, 1996).
 Trường nghóa của một thực từ ( Dương Kỳ Đức, Ngữ học trẻ, 1996).
 Mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ qua hình ảnh trâu bò trong thành ngữ Việt – Nga –
Anh (Huỳnh Công Minh Hùng, Hội thảo ngôn ngữ và văn hóa, Hà Nội, 2000).
 Hình ảnh gấu trong thành ngữ (trên cứ liệu tiếng Việt-Nga-Anh-Pháp và một số tiếng
Châu Âu khác) (Huỳnh Công Minh Hùng, T/c Khoa học ĐHSP-TP.HCM, số 24, 2000).


 Ngựa trong thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Phong Hoá, Ngôn ngữ và đời sống, số 1+2,
2002)
…………
Về tiếng Anh, công trình nghiên cứu thành ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng
Anh tại Việt Nam được xem là tương đối bao quát nhất cho đến bây giờ có lẽ là luận án phó
tiến só của Phan Văn Quế: Ngữ nghóa của thành ngữ – tục ngữ có thành tố chỉ động vật trong
tiếng Anh (trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Việt) [86]. Luận án này đã đề cập đến thành
tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt khi phân tích bình diện ngữ nghóa và so sánh, đối
chiếu sự khác biệt về nghóa giữa thành tố chỉ động vật trong thành ngữ - tục ngữ tiếng Anh
và tiếng Việt nhưng không vì mục đích nghiên cứu nó mà chỉ nhằm làm sáng tỏ ngữ nghóa
những thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng Anh.
Ngoài ra, có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có đề cập đến thành
tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Anh:
 Sơ bộ tìm hiểu các sắc thái ngữ nghóa của những từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Anh
(Phan Văn Quế, Nội san Đại học Ngoại ngữ – Đại học quốc gia Hà Nội, số 1/1996).
 Thành ngữ tiếng Anh và dạng đặc biệt của nó: cụm động từø - giới từ (Lê Hồng Lan, Ngôn
ngữ và đời sống, số 2/1996).

 Gà, khỉ, chuột, ngựa trong tục ngữ và thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt (Phan Văn Quế,
Ngôn ngữ và đời sống, số 2, năm 2000).
 Hình ảnh con chó trong thành ngữ và tục ngữ tiếng Anh (Phan Văn Quế, Ngôn ngữ và đời
sống, số 2, năm 2000).
……………
Về tác giả nước ngoài nghiên cứu thành ngữ tiếng Anh, do hạn chế ngoại ngữ nên
chúng tôi chưa tiếp cận được mảng tài liệu này.
Như vậy luận văn này tuy không phải là công trình nghiên cứu đầu tiên, nhưng lại là
công trình nghiên cứu bao quát nhất về thành ngữ tiếng Việt có chứa thành tố chỉ động vật
trong sự đối chiếu với tiếng Anh.


0.3. Đối tượng và phạm vi của luận văn
Việc nghiên cứu toàn bộ hệ thống thành ngữ của một ngôn ngữ là một công việc đòi
hỏi nhiều công sức của nhiều người trong một thời gian dài. Trong khuôn khổ luận văn,
chúng tôi chỉ giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ở những thành ngữ
có chứa thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt và trong tiếng Anh. Và trong các thành ngữ
này, chúng tôi chỉ quan tâm chủ yếu đến mặt ý nghóa văn hoá của các từ ngữ chỉ động vật
mà thôi.
0.4. Phương pháp nghiên cứu
Do tính chất và nhiệm vụ khoa học của đề tài, chúng tôi sử dụng tổng hợp nhiều
phương pháp như:
 Phương pháp thống kê, nhằm thống kê tất cả những thành ngữ có chứa từ ngữ chỉ động
vật, từ ngữ chỉ bộ phận động vật, thành ngữ so sánh có thành tố chỉ động vật, thành ngữ
chứa nhiều hơn một thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài ra, luận
văn cũng sử dụng phương pháp này để thống kê tất cả những nghóa có thể có ở mỗi thành
tố chỉ động vật.
 Phương pháp phân tích, để phân tích những đặc trưng ngữ nghóa có thể có của những từ
ngữ chỉ động vật trong thành ngữ.
 Phương pháp đối chiếu cũng được sử dụng để so sánh đối chiếu ngữ nghóa của thành ngữ

có thành tố động vật trong hai ngôn ngữ Việt – Anh. Qua việc so sánh đối chiếu này,
những nét tương đồng và dị biệt về ngôn ngữ – văn hoá – xã hội giữa hai ngôn ngữ sẽ
được nhìn thấy một cách rõ ràng.
Cả ba phương pháp kể trên đều có tầm quan trọng như nhau và được vận dụng kết hợp
xuyên suốt luận văn.
0.5. Tư liệu nghiên cứu
Một trong những nhiệm vụ của luận văn là nhằm thống kê càng nhiều càng tốt những
thành ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng Việt, nên chúng tôi cố chọn lựa một số tài
liệu tiêu biểu về thành ngữ làm cơ sở cho mọi sự tập hợp và đối chiếu khác. Tài liệu mà


chúng tôi chọn là: Thành ngữ – tục ngữ Việt Nam do Bùi Hạnh Cẩn, Bích Hằng, Việt Anh
biên soạn; Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang
Hào; Từ điển thành ngữ Việt Nam của Nguyễn Văn Khang; Thành ngữ tiếng Việt của
Lương Văn Đang, Nguyễn Lực. Nhưng tài liệu chủ yếu là cuốn Từ điển thành ngữ tiếng Việt
phổ thông do Nguyễn Như Ý chủ biên. Đây là cuốn từ điển mới nhất và tương đối đầy đủ về
thành ngữ tiếng Việt (xuất bản năm 2002). Tuy nhiên, chính tác giả cũng không dám khẳng
định tất cả những đơn vị trong từ điển này là thành ngữ. Theo ông, trong đó “bao gồm một
vài đơn vị chưa xác định rõ là thành ngữ hay tục ngữ, một vấn đề hiện còn để ngỏ trong Việt
ngữ học”[43, tr.7].
Về thành ngữ tiếng Anh, chúng tôi sử dụng cuốn Oxford Learner’s Ditionary of
English Idioms của H. Warren, (Oxford University Press, 1994); Từ điển thành ngữ Anh
Việt của Trần Thanh Giao (Đà Nẵng, 1995); Từ điển Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học (Tp.
HCM, 1993).
0.6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận:
Thành ngữ chứa thành tố chỉ động vật là mảng đề tài rất phong phú và lý thú được
nhiều người quan tâm . Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hy vọng đóng góp một phần công
sức của mình vào việc xây dựng bộ môn thành ngữ học. Ngoài ra, đề tài còn nhằm góp phần
chứng minh bản sắc văn hoá riêng biệt ở mỗi dân tộc cũng như tính phổ quát văn hoá ở

nhiều dân tộc thông qua so sánh đối chiếu thành ngữ có thành tố chỉ động vật trong tiếng
Việt và tiếng Anh.
Về thực tiễn:
Luận văn tập hợp được một khối lượng tư liệu lớn hơn so với những công trình có
trước : 1555 thành ngữ động vật tiếng Việt và 463 thành ngữ động vật tiếng Anh, so với số
liệu tương ứng của Trịnh Cẩm Lan là 904 thành ngữ động vật tiếng Việt và của Phan Văn
Quế là 368 đơn vị gồm cả thành ngữ và tục ngữ động vật tiếng Anh (dẫn theo Phan Văn Quế
[86]). Trên cơ sở đó, kết quả nghiên cứu sẽ bao quát hơn, phục vụ tốt cho việc học tập,


giảng dạy và sử dụng thành ngữ. Đề tài còn giúp chúng ta hiểu biết thêm về cái chung và
cái riêng của hai nền văn hoá Việt – Anh trên cơ sở đối chiếu thành ngữ có chứa thành tố
động vật ở hai ngôn ngữ, hỗ trợ đắc lực cho việc dạy và dịch tiếng Anh.
0.7. Bố cục luận văn
Tuy chỉ nghiên cứu một bộ phận của thành ngữ tiếng Việt, nhưng để tạo cơ sở cho
việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà nội dung luận văn yêu cầu, chúng tôi vẫn phải bắt
đầu từ việc tìm hiểu thành ngữ nói chung, sau đó mới đi vào từng khía cạnh của đề tài. Nội
dung đầu tiên cung cấp cái nhìn tổng quan về thành ngữ có thành tố động vật trong tiếng
Việt và tiếng Anh (chương một). Phần chủ yếu của luận văn nằm ở chương hai: khảo sát
ngữ nghóa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt. Ở chương này, ngoài việc
thống kê, luận văn tiến hành miêu tả ngữ nghóa văn hoá một số từ ngữ chỉ động vật có tần
số xuất hiện cao trong thành ngữ tiếng Việt, miêu tả ngữ nghóa các từ chỉ bộ phận động
vật, phân tích mối quan hệ giữa các thành tố động vật trong một thành ngữ. Đồng thời
luận văn cũng dành một phần thích đáng để trình bày về thành ngữ so sánh chứa thành tố
động vật. Luận văn cũng chú ý đến việc so sánh đối chiếu với thành ngữ tiếng Anh trên cơ
sở những số liệu thu thập được.
Ngoài 87 trang chính văn, 12 trang danh mục tài liệu tham khảo, luận văn dành 132
trang cho 6 phụ lục .



Chương một

TỔNG QUAN VỀ THÀNH NGỮ CÓ THÀNH TỐ CHỈ

ĐỘNG VẬT

TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
1.1. Khái niệm về thành ngữ
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ (Nguyễn Văn Mệnh [60], Hồ Lê [11], Nguyễn
Văn Tu [62], Đỗ Hữu Châu [71]) và những nhà nghiên cứu văn học Việt Nam (Vũ Ngọc
Phan [110], Dương Quảng Hàm [10], các tác giả cuốn Lịch sử văn học Việt Nam [30]), thành
ngữ là cụm từ cố định mà các từ trong đó đã mất tính độc lập, kết hợp lại với nhau thành một
khối vững chắc, hoàn chỉnh, khó có thể thay đổi (ví dụ: Thành ngữ mẹ tròn con vuông không
thể đổi thành Mẹ vuông con tròn hay Mẹ cũng tròn con cũng vuông hay Mẹ tròn lắm con
vuông lắm...). Cũng theo các nhà nghiên cứu, thành ngữ thường biểu hiện một khái niệm
tương tự như đơn vị từ, dùng để tạo thành phần câu như từ, nói cách khác, nó có chức năng
như từ; người ta có thể thay thế một thành ngữ bằng một từ tương ứng với nó trong câu. Đây
là một quan niệm phổ biến nhưng không thật thuyết phục. Khái niệm là câu chuyện tư duy,
còn về mặt ngôn ngữ, biểu hiện khái niệm bằng từ hay ngữ là vấn đề khác. Ta có thể thay
Tôi đi guốc trong bụng nó bằng Tôi rất hiểu nó thì rất hiểu là ngữ, chứ không phải từ.
Trong khoảng vài chục năm gần đây, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và nghiên cứu văn
học Việt Nam rất quan tâm đến việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ, song ranh giới giữa
chúng vẫn chưa được xác định rõ rệt. Bởi lẽ giữa chúng có rất nhiều điểm giống nhau: cả hai
đều là những đơn vị có sẵn, cố định, cấu trúc chặt chẽ, giàu hình ảnh, giàu sắc thái biểu cảm
và được tái hiện trong giao tiếp. Thậm chí có nhiều người cho rằng không cần thiết tách
riêng thành ngữ và tục ngữ. Chẳng hạn như Trương Đông San, ông gọi chung thành ngữ và
tục ngữ là ngữ vị. Theo ông “ngữ vị là đơn vị ngôn ngữ trên cấp độ từ vị gồm hai từ vị trở
lên được tái hiện trong lời nói dưới dạng có sẵn, cố định về hình thức và nội dung” [105].
Ý kiến đầu tiên đáng chú ý về sự khác nhau giữa thành ngữ và tục ngữ là của Dương
Quảng Hàm [10]. Ông viết: “Một câu tục ngữ tự nó phải có một ý nghóa đầy đủ, hoặc

khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì; còn thành ngữ chỉ là những lời nói có sẵn để ta tiện dùng


mà diễn đạt một ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho màu mè”. Còn theo Vũ Ngọc Phan thì:
“Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý,
một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ
phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý
trọn vẹn” [110]. Nguyễn Văn Mệnh trong bài Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ [59] cho
rằng “có thể nói nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tượng, còn nội dung của tục
ngữ nói chung mang tính chất quy luật. Từ sự khác nhau cơ bản về nội dung dẫn đến sự khác
nhau về hình thức ngữ pháp, về năng lực hoạt động trong chuỗi lời nói… Về hình thức ngữ
pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác
hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu”. Cù Đình Tú cho rằng ý kiến của Nguyễn Văn Mệnh
chưa thật xác đáng vì theo ông: “Thành ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ. Tục ngữ cũng là
một hiện tượng ngôn ngữ. Giải quyết các hiện tượng ngôn ngữ phải căn cứ ngôn ngữ học”.
Giáo sư cho rằng sự khác nhau cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ là sự khác nhau về chức
năng: “Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh… là những đơn vị tương
đương như từ… Tục ngữ cũng như các sáng tạo khác của dân gian như ca dao, truyện cổ tích,
đều là những thông báo… Nó thông báo một nhận định, một kết luận về một phương diện
nào đó của thế giới khách quan. Do vậy mỗi tục ngữ đọc lên là một câu hoàn chỉnh, diễn đạt
trọn vẹn một ý tưởng…” [7]. Tuy nhiên, theo các tác giả của cuốn Tục ngữ Việt Nam, cần
phải xét sự khác nhau của thành ngữ và tục ngữ chủ yếu ở chỗ “như là một hiện tượng ngôn
ngữ và một hiện tượng ý thức xã hội” và các tiêu chí mà các tác giả đưa ra để phân biệt là
nhận thức luận. Với tiêu chí đó thì tục ngữ chủ yếu là một hiện tượng ý thức xã hội, còn
thành ngữ là một hiện tượng ngôn ngữ. Và sự khác nhau về nội dung của thành ngữ và tục
ngữ chính là sự khác nhau về nội dung của hai hình thức tư duy khác nhau: nội dung của
thành ngữ là những khái niệm, nội dung của tục ngữ là những phán đoán. Sự khác nhau về
hình thức tư duy tất yếu sẽ dẫn đến sự khác nhau về chức năng, về cấu tạo ngữ pháp và vị trí
trong lời nói của hai hình thức ngôn ngữ đó (Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri,
Tục ngữ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993)[6]. Như vậy việc phân định ranh giới giữa

thành ngữ và tục ngữ tuy khó khăn nhưng không phải là không thể. Chúng tôi rất đồng tình
với ý kiến của tác giả Nguyễn Văn Mệnh: “Ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ không phải


là một đường kẻ thẳng băng, song trên đại thể vấn đề có thể tìm ra những đặc điểm khác
biệt khá rõ ràng ở hai phương diện: nội dung và hình thức” [59].
Trên thực tế, nội dung và hình thức của thành ngữ và tục ngữ là hết sức đa dạng,
phong phú và phức tạp. Về hình thức, không phải lúc nào thành ngữ cũng là những cụm từ
cố định. Một số không nhỏ các thành ngữ có kết cấu chủ vị, như nước đổ đầu vịt; ếch ngồi
đáy giếng … Hình thức có kết cấu chủ vị này thường là nguyên nhân gây khó khăn trong việc
phân biệt thành ngữ và tục ngữ. Về mặt nội dung, cả hai đều là những sản phẩm nhận thức
của nhân dân về các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan, đều chứa đựng và phản
ánh tri thức của nhân dân, đều là sự đúc kết kinh nghiệm, là kết tinh trí tuệ của quần chúng,
đều từ sự khái quát hiện thực để rút ra bản chất, quy luật.
Chúng ta có thể rút ra một số nét khu biệt giữa thành ngữ và tục ngữ như sau:
Về mặt ý nghóa:
Thành ngữ miêu tả một sự vật, một hoạt động, một tính chất hay một trạng thái.
Chẳng hạn: cao như sếu; nói hươu nói vượn; lờ đờ như gà ban hôm... Ngược lại, tục ngữ đúc
kết một kinh nghiệm, một quy luật, một chân lý của cuộc sống, hoặc nêu lên một bài
học ở đời. Thí dụ: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng; ở hiền gặp lành; thuốc đắng dã tật; nồi
nào vung ấy; một con sâu làm rầu nồi canh; ăn ít no lâu, cày sâu tốt lúa;…
Nội dung của thành ngữ thường thiên về việc thể hiện những cái có tính chất ngẫu
nhiên và riêng lẻ. Còn nội dung của tục ngữ lại thể hiện những cái có tính bản chất, khái
quát, mang tính tất yếu, quy luật.
Về mặt ngữ pháp:
Mỗi thành ngữ, nhìn chung, chỉ là một ngữ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh vì thành
ngữ chỉ nhằm nêu lên một hình ảnh, một hiện tượng, chẳng hạn như: mèo mả gà đồng; dốt
đặc cán mai; đánh rắn giữa khúc… Ngược lại, tục ngữ là một câu hoàn chỉnh, là một thông
báo trọn vẹn, một kết luận cụ thể, một nhận định chắc chắn, một bài học kinh nghiệm. Thí
dụ: Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo,...



Phần lớn thành ngữ tiếng Việt có kết cấu một trung tâm, thường là những thành ngữ
dạng so sánh: chậm như rùa, lừ đừ như ông từ vào đền, nhớn nhác như gà phải cáo, lúng túng
như gà mắc tóc, cao như sếu… Một bộ phận nhỏ các thành ngữ có kết cấu hai trung tâm: nước
đổ đầu vịt, ếch ngồi đáy giếng… Tuy nhiên những thành ngữ này cũng chỉ là một phần của
câu, vẫn dùng để gọi hành động, tính chất sự vật. Thí dụ: nước đổ đầu vịt “phí công, không
có tác dụng”, áo gấm đi đêm “tốn kém mà không ai biết đến”, ếc h ngồi đáy giếng “không
nhìn xa thấy rộng”, miệng ngậm hột thị “ở vào thế không thể nói được”.
Về mặt chức năng:
Đứng về mặt ngôn ngữ học, tục ngữ có chức năng khác hẳn so với thành ngữ. Tục
ngữ cũng như các sáng tác dân gian khác như ca dao, dân ca, đều có chức năng thông báo.
Tục ngữ là một thông báo ngắn gọn, súc tích, còn thành ngữ có chức năng định danh,
biểu hiện sự vật, tính chất, hành động tương tự như từ. Một thành ngữ dù lớn đến đâu
cũng không thể nêu lên một thông báo. Ngược lại một câu tục ngữ dù nhỏ đến mấy cũng
đảm nhiệm chức năng này một cách hoàn hảo. (Thành ngữ: lợn trong chuồng thả ra mà
đuổi; ăn ốc nói mò, ăn măng nói mọc, ăn cò nói leo; vạ vịt chưa qua, vạ gà đã đến; voi đú,
chó đú, lợn sề cũng hộc. Tục ngữ: ao sâu tốt cá; người roi, voi búa; tức nước vỡ bờ, v.v.).
Vì thành ngữ không đảm nhiệm chức năng thông báo nên với bất kỳ thành ngữ nào ta
cũng có thể đặt câu hỏi về những vấn đề cơ bản xoay quanh nội dung của thành ngữ đó.
Chẳng hạn khi ta nêu thành ngữ chấp chới như thầy bói cúng thánh thì trong suy nghó của
người nghe sẽ nảy ra một câu hỏi “ai có dáng điệu chấp chới đó ?”. Hoặc với thành ngữ việc
nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng, người nghe sẽ nẩy ra câu hỏi “ai là người lười biếng
việc nhà và siêng làm việc người?”, v.v.. Đối với các tục ngữ thì tình hình không như vậy.
Mỗi tục ngữ là một câu thông báo trọn vẹn, nên trước bất kỳ tục ngữ nào người ta không đặt
ra câu hỏi kiểu như vậy. Chẳng hạn khi ta nói ở hiền gặp lành thì không ai cần hỏi “ai ở hiền
gặp lành?”. Bởi vì tục ngữ đã nêu lên một quy luật chung cho tất cả mọi người.
Sự khác nhau về mặt chức năng như đã nói ở trên dẫn đến sự khác nhau trong cách
vận dụng hai loại đơn vị này trong giao tiếp. Một thành ngữ không thể độc lập tạo thành
câu. Trái lại, một tục ngữ hoàn toàn có thể có khả năng đó. Rõ ràng là giữa thành ngữ và tục



ngữ có một đường ranh giới thực tế. Tuy nhiên ranh giới này không phải là ngăn cách tuyệt
đối, không phải là đường kẻ thẳng băng. Chính vì vậy mà có những đơn vị được tác giả này
cho là thành ngữ, tác giả khác lại cho là tục ngữ. Chẳng hạn kiến tha lâu cũng đầy tổ được
rất nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học xếp vào tục ngữ, trong đó có Phạm Văn Bình, tác giả
của cuốn Tục ngữ Việt Nam [76], chó treo mèo đậy được Hoàng Diệu Minh cho là tục ngữ
[13], vắng chúa nhà gà vọc niêu cơm theo Phan Văn Quế là tục ngữ [86]. Nhưng Nguyễn
Như Ý lại đưa tất cả các câu trên vào trong cuốn Từ điển thành ngữ tiếng Việt phổ thông
[43], v.v..
1.2. Thành tố chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
Thành ngữ chứa thành tố chỉ động vật (thành ngữ động vật) được hiểu là những thành
ngữ mà trong thành phần của chúng có những từ ngữ chỉ con vật, thí dụ cao như sếu; lẩn như
chạch; ăn như mèo; chuột chạy cùng sào. Những từ ngữ này được chúng tôi gọi là “thành tố
chỉ động vật” (sếu, chạch, mèo, chuột). Qua tìm hiểu các từ điển thành ngữ, các bài báo, bài
nghiên cứu thành ngữ, chúng tôi thấy số lượng thành ngữ động vật tiếng Việt ở các tài liệu
khác nhau là rất khác nhau. Nhưng điều chắc chắn là loại thành ngữ này chiếm một tỷ lệ
không nhỏ trong toàn bộ vốn thành ngữ tiếng Việt.
Theo kết quả thống kê được miêu tả trong luận án thạc só của Trịnh Cẩm Lan [102],
mức độ sử dụng các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng Việt theo thứ tự như sau: chim
(157, kể cả các loài chim cụ thể), cá (113, kể cả các loài cá cụ thể), chó (110), gà (79), bò
(40), chuột (37), ngựa (30), mèo (23), ong (11), ruồi (9), lợn (8), khỉ (6), vịt (5), sói (2), sư tử
(2), thỏ (2)… (Trịnh Cẩm Lan, luận án thạc só, 1995) [102]. Theo Phan Văn Quế thì mức độ
sử dụng các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng Việt có khác: chó (123), gà (90), cá
(68), trâu (54), voi (53), mèo (52), cọp (51), ngựa (49) chim (39), bò (37), chuột (30), cò (24),
vịt (23), cua (22), cóc (18), đỉa (16), lợn (16), ong (16), rắn (14), ruồi (12) [81].
Trong khuôn khổ khối tư liệu về thành ngữ đã tiếp cận và xử lý, tác giả luận văn tổng
kết được trong tiếng Việt có 1555 thành ngữ động vật với 157 thành tố chỉ động vật (kể cả
tên của 29 loại cá, 34 loại chim).
Danh sách cụ thể được sắp xếp theo ABC như sau:



 Ba ba, beo, bò, bò cạp, bọ, bọ chó, bọ mạt, bọ ngựa, bọ xít, bướm (ngài)
 Cá (cá bống, cá chày, cá cháy, cá chép, cá chi chi, cá chuối, cá diếc , cá đối, cá gáy, cá
kình, cá lăng, cá lóc, cá lòng tong, cá mài mại, cá mè, cá mòi, cá ngão, cá nghê, cá nheo,
cá rô, cá săn sắt, cá sấu, cá thia, cá thờn bơn, cá trắm, cá trê, cá trôi, cá vàng, cá vược),
cà cuống, cáo, cáy, cầy hương, chạch, châu chấu, chấy, chẫu chuộc, chim ( bìm bịp, bồ
câu, bồ nông, chào mào, chèo bẻo, chim chích, choi choi, cò, cú, chim cuốc, giẻ cùi, dẽ,
diệc , diều hâu, én, hạc, hét, hồng, chim két, khứu, nhạn, ó, oanh / hoàng anh, phượng, loan,
quạ, sáo, chim sẻ, sếu, tu hú, uyên ương, vạc, vẹt, yến), chó, chuồn chuồn, chuột, cóc, cọp,
cốc, công, cua, cun cút
 Dã tràng, dê, dơi
 Đỉa, đom đóm, đười ươi
 Ếch, ễnh ương
 Gà, gấu, giải, giun
 Hến, hươu
 Khỉ, kiến
 Lợn, lừa, lươn
 Mang, mèo, muỗi
 Nai, nắc nẻ, nghêu (sò), ngỗng, ngựa, nhái, nhện, nhộng, nòng nọc
 Ong, ốc
 Rái, rắn, rận, rết, rồng, rùa, ruồi (nhặng), rươi
 Sâu, sên, sóc, sói, sư tử, sứa
 Tằm, tê giác, tép, thằn lằn, thần trùng, thiêu thân, thỏ, thuồng luồng, tò vò, tôm, trai, trâu
 Ve, vích, vịt, voi, vờ, vượn.
Tần số xuất hiện của các thành tố động vật trong thành ngữ tiếng Việt như sau. Chim
và các loại chim xuất hiện nhiều nhất với hơn 232 thành ngữ. Thứ hai là cá và các loại cá:
149. Tiếp theo là chó: 149; trâu: 123; gà: 113; mèo: 61; bò: 73; voi: 61; ngựa: 58; cọp: 55;
chuột: 47; rắn: 33; lợn: 28; cóc : 25; cua: 28; vịt: 26; rồng: 23; ong: 21; ếch, nhái, ễnh
ương: 31; ruồi: 18; kiến: 14; tôm: 17; cáo: 12; hươu: 12; ốc: 12; khỉ: 12; tằm: 15; dê: 10;

lươn: 9; thỏ: 10; đom đóm: 9; rận: 9; rươi: 8; đỉa: 9; chuồn chuồn: 8; dơi: 7; chạch: 8;


ngỗng: 6; chấy: 7, cáy: 6, muỗi: 6; sói: 11; châu chấu: 4; nai: 3; gấu: 5; ve: 6; vích: 4; sâu: 3

So với số liệu thống kê của Trịnh Cẩm Lan và Phan Văn Quế, kết quả thống kê của
chúng tôi có số lượng thành ngữ và thành tố động vật chứa trong các thành ngữ lớn hơn
nhiều. Có lẽ do nguồn tài liệu dựa vào khác nhau, phương pháp thống kê cũng như quan
điểm phân định thành ngữ – tục ngữ khác nhau. Có một điều lý thú là dù kết quả khá khác
biệt về tần số xuất hiện của các thành tố động vật, nhưng những thành tố có tần số xuất hiện
cao ở ba kết quả thống kê khá giống nhau. Những thành tố đó là: chim, chó, cá, gà, lợn, trâu,
bò, voi, mèo, chuột, ngựa, … Hãy xem bảng đối chiếu kết quả dưới đây của ba tác giả:

TRỊNH CẨM LAN

PHAN VĂN QUẾ

NGUYỄN THỊ BẢO

Tên động vật

SL

Tên động vật

SL

Tên động vật

SL


Chim

157

Chim

39

Chim

232



113



68



149

Chó

110

Chó


123

Chó

149

Trâu

54

Trâu

123



79



90



113



40




37



73

Voi

53

Voi

61

Mèo

23

Mèo

52

Mèo

61

Ngựa


30

Ngựa

49

Ngựa

58

Cọp

51

Cọp

55

Chuột

30

Chuột

47

Chuột

37


Bảng 1


1.3. Thành tố chỉ động vật được dùng trong thành ngữ tiếng Anh
Kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy có 463 thành ngữ động vật tiếng Anh với
khoảng 74 tên các con vật được sử dụng.
Danh sách cụ thể xếp theo trật tự ABC như sau:
 Ant (kiến), ape (đười ươi), ass (lừa cái)
 Badger (lửng), bat (dơi), bear (gấu), bee/hornet (ong), bird (chim), bug (rệp), bull (bò
đực ), butterfly (bướm)
 Calf (bê), camel (lạc đà), cat (mèo), chicken (gà con), cock (gà trống), cow (bò cái),
crocodile (cá sấu), crow (quạ)
 Dog (chó), donkey (lừa), dove/pigeon (bồ câu), duck/drake (vịt), duckling (vịt con)
 Eagle (đại bàng), eel (lươn), elephant (voi)
 Fish (cá), flea (bọ chét), fly (ruồi), fox (cáo)
 Goat (dê), goose (ngỗng)
 Hare (thỏ rừng), hawk (diều hâu), hen (gà mái), herring (cá trích), horse (ngựa)
 Jackdaw (quạ xám), kitten (mèo con)
 Lamb (cừu non), lark (sơn ca), leech (đỉa), leopard (báo), lion (sư tử), lobster (tôm)
 Mackerel (cá thu), mare (ngựa cái), magpie (chim ác là), monkey (khỉ), mouse/rat (chuột),
mule (la)
 Owl (cú), ox (bò thiến), oyster (sò, hàu)
 Parrot (vẹt), peacock (công), pig (lợn)
 Rabbit (thỏ)
 Sardine (cá mòi), sheep (cừu), snail (sên), snake/serpent (rắn), sprat (cá trích cơm), stag
(nai đực, hươu đực), swallow (én), swan (thiên nga).
 Tiger (hổ), toad (cóc ), turkey (gà tây)
 Vixen (chồn cái), whale (cá voi), wolf (chó sói), worm (giun, sâu).
Những thành tố động vật có tần số xuất hiện nhiều nhất:



Dog (choù): 64; bird (crow (jackdaw), dove (pigeon), eagle, hawk, lark, magpie, owl,
parrot, peacock) (chim và các loại chim): 58; fish (herring, mackerel, sardin, sprat, whale)
(cá và các loại cá): 46; horse, mare (ngựa, ngựa cái): 36; cat, kitten (mèo): 37; bull, ox,
cow, calf (bò các loại bò): 24; cock, chicken, hen (gà các loại): 24; sheep, ram (cừu): 13;
pig (lợn): 15; mouse, rat (chuột): 13; duck, duckling, drake (vịt): 12; fly (ruồi): 11; lamb
(cừu non): 8; ass, (lừa): 9 ; pig (lợn): 15; rabbit, hare (thỏ, thỏ rừng): 10; lion (sư tử): 11,
wolf (chó sói): 9; bear (gấu): 8; goose (ngỗng): 7; fox (cáo): 6; flea (bọ chét): 6; monkey
(khỉ): 4; goat (dê): 4; …
1.4. So sánh đối chiếu thành tố chỉ động vật trong thành ngữ Việt-Anh
Xét về số lượng thành ngữ chứa thành tố động vật, trong tiếng Việt có 1555 thành
ngữ, nhiều hơn gấp ba lần so với tiếng Anh (463 thành ngữ). Xét về số lượng con vật được
nhắc đến trong thành ngữ: tiếng Việt có 157 con vật, gấp đôi so với tiếng Anh (74 con vật).
Trong luận án phó tiến só của mình, Phan Văn Quế thống kê từ nhiều nguồn tài liệu
khác nhau và cho rằng trong thành ngữ tiếng Anh có khoảng 368 đơn vị có thành tố chỉ động
vật với hơn 85 con vật (bao gồm cả thành ngữ và tục ngữ) [86]. Còn theo Trịnh Cẩm Lan thì
tiếng Việt có khoảng 904 thành ngữ có thành tố chỉ động vật và chỉ có 64 con vật [102].
Qua phần trình bày trên, ta thấy có động vật cùng xuất hiện ở thành ngữ của cả hai
ngôn ngữ, có động vật chỉ xuất hiện ở thành ngữ của ngôn ngữ này hoặc thành ngữ của ngôn
ngữ kia.
1.4.1. Các thành tố động vật xuất hiện trong cả hai thành ngữ Việt- Anh
 Beo/ báo (leopard), bồ câu (pigeon), bướm (butterfly)
 Cá (fish), cá sấu (crocodile), cá mòi (sardine), cá voi/ cá kình (whale), cáo (fox), cầy
hương (civet cat), chim (bird), chó (dog), chó săn (hound), chó sói (wolf), chuột (mouse,
rat), cọp (tiger), công (peacock), cú (owl)
 Dê (goat), dơi (bat), diều hâu (hawk)
 Đỉa (leech), đười ươi (ape)



 Én, nhạn (swallow)
 Gà con (chicken), gà mái (hen), gà trống (cock), gấu (bear), giun (worm).
 Hàu (sò) (oyster)
 Kiến (ant), khỉ (monkey)
 Lợn (pig), lươn (eel)
 Mèo (cat)
 Ngỗng (goose)
 Ong (bee)
 Quạ (crow, jassdow)
 Rắn (snake), ruồi (fly)
 Sâu (worm), sên (snail), sư tử (lion)
 Tôm (lobster)
 Vẹt (parrot), vịt (duck), voi (elephant)
Có 46 tên con vật cùng xuất hiện trong cả hai thành ngữ Việt – Anh, nhiều hơn so với
33 con vật theo thống kê của Phan Văn Quế [86].
1.4.2. Các thành tố động vật chỉ có trong thành ngữ tiếng Việt
 Ba ba, bò, bò cạp, bọ, bọ chó, bọ mạt, bọ ngựa, bọ xít
 Cá chép, cá chuối, cá diếc , cá đối, cá gáy, cá nghê, cá mè, cá rô, cá thia, cá chày, cá
lóc, cá trôi, cá vàng, cá lăng, cá vược, cá ngão, cá trê, cá nheo, cá lòng tong, cá săn sắt,
cá cháy, cá bống, chi chi, cá mại, cá thờn bơn, cá trắm
 Cà cuống, cáy, chạch, châu chấu, chấy, chẫu chàng
 Chim bìm bịp, bồ nông, chào mào, chèo bẻo, chim chích, cò, chim cuốc, dẽ, giẻ cùi, hạc,
hét, chim két, khướu, loan, ó, oanh, phượng, sáo, sẻ, sếu, vạc, yến
 Chuồn chuồn, cóc, cốc, cua, cun cút
 Dã tràng
 Đom đóm


 Ếch, ễnh ương
 Gà, giải, giòi

 Hến
 Liu điu, lừa
 Mang, muỗi
 Nai, nắc nẻ, nhái, nhện, nhộng, nòng nọc
 Ốc
 Rái cá, rận, rồng, rùa, rươi
 Sứa
 Tằm, tép, thỏ, trai, trâu
 Ve, vượn
Tổng cộng có 98 con vật (kể cả tên của các loài cá và tên của các loài chim) chỉ xuất
hiện trong thành ngữ tiếng Việt mà không xuất hiện trong thành ngữ tiếng Anh (theo Phan
Văn Quế chỉ có 58 con vật) [86].
1.4.3. Các thành tố động vật chỉ xuất hiện trong thành ngữ tiếng Anh
 Ass (lừa cái),
 Badger (lửng), bug (rệp), bull (bò đực)
 Calf (bê), camel (lạc đà), cow (bò cái)
 Eagle (chim đại bàng)
 Flea (bọ chét)
 Hare (thỏ rừng), herring (cá trích)
 Lamb (cừu non), lark (sơn ca)
 Magpie (ác là), mare (ngựa cái), mule (la)
 Ox (bò thiến)
 Rabbit (thỏ nhà)
 Sardine (cá mòi), sheep / ram (cừu), sprat (cá trích cơm), swan (thiên nga)
 Turkey (gà tây)
 Vixen (chồn cái)


24 con vật chỉ có trong thành ngữ tiếng Anh, không thấy xuất hiện trong thành ngữ
tiếng Việt (theo thống kê của Phan Văn Quế, có 31 con vật (cả thành ngữ và tục ngữ)) [86].

1.4.4. Một số nhận xét từ phần trình bày trên
1.4.4.1. Các loài chim, cá, côn trùng, sâu bọ xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt nhiều hơn
so với trong tiếng Anh. Cụ thể:
Trong thành ngữ tiếng Anh chỉ có 6 loại cá và đa số là cá biển: cá trích (herring), cá
cơm (sprat), cá thu (markerel), cá mòi (sardine), cá voi (whale). Trong tiếng Việt thì tình
hình hoàn toàn ngược lại: có rất nhiều loại cá xuất hiện, hầu hết là cá nước ngọt với hơn 29
loại khác nhau.
Dưới đây là bảng liệt kê các loài cá xuất hiện trong thành ngữ và môi trường nước của
chúng (việc xác định môi trường nước dựa vào Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên,
1997)[14]:

TT

TÊN CÁ

T.VIỆT

T. ANH

MÔI TRƯỜNG

1

cá bống

+



nước ngọt


2

cá chày

+



nước ngọt

3

cá cháy

+



biển

4

cá chép

+



nước ngọt


5

chi chi

+



nước ngọt

6

cá chuối

+



nước ngọt

7

cá cơm



+

biển


8

cá diếc

+



nước ngọt

9

cá gáy

+



nước ngọt

+

+

biển

10

cá kình/ cá

voi


11

cá lăng

+



nước ngọt

12

cá lòng tong

+



nước ngọt

13

cá lóc

+




nước ngọt

14

cá mài mại

+



nước ngọt

15

cá mè

+



nước ngọt

16

cá mòi

+

+


biển

17

cá ngão

+



nước ngọt

18

cá nghê

+



biển

19

cá nheo

+




nước ngọt

20

cá đối

+



nước ngọt

21

cá rô

+



nước ngọt

22

cá sấu

+

+


nước ngọt

23

cá săn sắt

+



nước ngọt

24

cá thia

+



nước ngọt

25

cá thờn bơn

+




nước ngọt

26

cá thu



+

biển

27

cá trắm

+



nước ngọt

28

cá trê

+




nước ngọt

29

cá trích



+

biển

30

cá trôi

+



nước ngọt

31

cá vàng

+




nước ngọt

32

cá vược

+



biển + nước ngọt

Bảng 2
Về chim, chỉ có khoảng 9 loài chim xuất hiện trong thành ngữ tiếng Anh. Đa số là các
loài chim lớn và hung dữ (như: đại bàng, quạ, diều hâu, cú…). Thức ăn chủ yếu của chúng là
thịt. Trong thành ngữ tiếng Việt có đến 34 tên gọi các loài chim khác nhau, trong đó có rất
nhiều loài chim dùng sâu bọ làm thức ăn chính. Sau đây là bảng về các loài chim và thức ăn
của chúng (dựa vào Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, 1997)[14]:


TT

TÊN CHIM

T. VIỆT

T. ANH

THỨC ĂN


1

ác là



+

cá, tép

2

bìm bịp

+



cá, tép

3

bồ câu

+

+

ngũ cốc


4

bồ nông

+



cá, tép

5

chào mào

+



các loại quả

6

chèo bẻo

+



sâu bọ


7

chim chích

+



sâu bọ



+

ngũ cốc

8

chiền chiện
(sơn ca)

9

choi choi

+




sâu bọ

10



+



cá, tép

11



+

+

thịt

12

cuốc

+




sâu bọ

13

dẽ

+



giun

14

diệc

+



cá, tép

15

diều hâu

+

+


thịt

16

đại bàng



+

thịt

17

én

+



18

giẻ cùi

+



19


hạc

+



không rõ

20

hét

+



giun

21

hồng

+



không rõ

22


két

+



sâu bọ và
ngũ cốc
sâu bọ và
ngũ cốc

sâu bọ, nguõ


cốc, thịt
23

khướu

+



24

loan

+




25

nhạn

+

+

ngũ cốc

26

ó

+



thịt

27

oanh (anh)

+



ngũ cốc


28

phượng

+



29

quạ/ ác

+

+

30

sáo

+



31

chim sẻ

+




ngũ cốc

32

sếu

+



cá, tép

sâu bọ
không rõ

không rõ
thịt
sâu bọ và
ngũ cốc

sâu bọ và

33

tu hú

+




34

uyên ương

+



35

vạc

+



cá, tép

36

vẹt

+

+

sâu bọ


37

yến

+



sâu bọ

ngũ cốc
không rõ

Bảng 3
Ngoài những loại chim sinh trưởng ở vùng khí hậu ẩm và ưa nước như trên, rất nhiều
côn trùng và động vật sống ở đồng ruộng, ao hồ và ở vùng nhiệt đới cũng xuất hiện trong
thành ngữ tiếng Việt nhiều hơn trong thành ngữ tiếng Anh.
Bảng các con vật liên quan đến đồng ruộng và vùng khí hậu nhiệt đới (dựa theo tài
liệu Cơ sở sinh thái học của Dương Hữu Thời, ĐHQG, Hà Nội, 1998) [73]:
STT

TÊN CON VẬT

T. VIỆT

T. ANH

MÔI TRƯỜNG


1

bọ chét



+

nhiệt đới

2

bọ chó

+



nhiệt đới


3

bọ mạt

+



nhiệt đới


4

bọ ngựa

+



đồng ruộng

5

bọ xít

+



nhiệt đới

6

châu chấu

+



đồng ruộng


7

chẫu chuộc

+



ao hồ

8

chấy

+



nhiệt đới

9

chuột

+

+

nhiệt đới


10

cóc

+

+

ao hồ

11

đỉa

+

+

đồng ruộng

12

ếch, nhái, ễnh ương

+



ao hồ


13

giòi

+



khí hậu ẩm

14

giun

+



khí hậu ẩm

15

kiến

+

+

nhiệt đới


16

muỗi

+



nhiệt đới

17

ong

+

+

nhiệt đới

18

rắn

+

+

nhiệt đới


19

rận

+



nhiệt đới

20

rệp



+

nhiệt đới

21

rết

+



nhiệt đới


22

ruồi

+

+

nhiệt đới

23

sâu

+

+

đồng ruộng

24

sên

+

+

ao hồ


25

thằn lằn

+



nhiệt đới


26

thiêu thân

+



nhiệt đới

Bảng 4
Trong số 26 con vật, có đến 24 con xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt và chỉ có 11
con xuất hiện trong thành ngữ tiếng Anh.
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc, thuận lợi cho các loài động vật ưa nước (cá
nước ngọt, cóc, ếch, nhái, v.v.) phát triển mạnh. Hơn nữa, là nước thuộc vùng nhiệt đới, khí
hậu ẩm, Việt Nam có rất nhiều loài, sâu bọ và côn trùng. Theo quy luật cân bằng sinh thái:
nơi nào có nhiều loài sâu bọ và côn trùng gây hại cho mùa màng, nơi đó sẽ có rất nhiều loài
chim, động vật ưa ăn sâu bọ và côn trùng. Những con vật này “làm người canh đồng” rất

quan trọng cho người nông dân (Trần Kiên, Đời sống các loài bò sát, 1983) [101]. Thật lý
thú khi thấy rằng trong thành ngữ tiếng Việt xuất hiện rất nhiều tên gọi các loài sâu bọ và
côn trùng gây hại cho mùa màng, đồng thời cũng xuất hiện rất nhiều từ ngữ chỉ các loại
chim, các động vật ưa ăn sâu bọ và côn trùng.
1.4.5. Một số tên gọi các con vật truyền thuyết, mang đặc trưng văn hoá phương Đông như:
phượng, loan, hồng, hạc và rồng chỉ xuất hiện trong thành ngữ tiếng Việt.
1.4.6. Nước Anh và nhiều nước phương Tây khác đi lên từ nền kinh tế đồng cỏ và du mục,
sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi, có điều kiện gắn bó với các động vật nuôi. Điều này thể
hiện khá rõ trong việc phản ánh phong phú tên gọi các gia súc trong thành ngữ:

Ngựa: mare (ngựa cái), horse (ngựa đực)
Cừu : sheep (cừu lớn), lamb (cừu non)
Bò : cow (bò cái), bull (bò đực), ox (bò thiến), calf (bê)
Lừa : donkey (lừa), ass (lừa cái), jackass (lừa đực)
Rõ ràng điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sinh sống, nền kinh tế - văn hoá của
mỗi cộng đồng đã để lại dấu ấn đậm nét trong thành ngữ chứa thành tố chỉ động vaät.


Chương hai

NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ ĐỘNG VẬT
TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT
(so sánh với thành ngữ tiếng Anh)
2.1. Khái quát về ngữ nghóa - văn hoá của từ
Trước khi tìm hiểu ngữ nghóa - văn hoá của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ, ta thử
tìm hiểu ngữ nghóa văn hoá của từ nói chung.
Trong công trình Trường nghóa của một thực từ, Dương Kỳ Đức cho rằng nghóa của
một thực từ phản ánh sự cảm nhận về đối tượng theo cách riêng của cộng đồng tộc người,
tức là phản ánh một phần văn hoá của cộng đồng đó. Theo ông, nghóa của thực từ có hai
phần: phần nghóa ngữ hiệu và phần nghóa văn hàm. Phần nghóa ngữ hiệu là nghóa của từ với

tính cách một tín hiệu ngôn ngữ, nó thể hiện khái niệm, tức là các đặc trưng chung của đối
tượng được con người nhận thức qua thực tiễn xã hội. Phần nghóa văn hàm là nghóa của từ
với tư cách một hàm tố văn hoá, nó chứa đựng động hình văn hoá, tức là cái cách riêng trong
việc tạo ra đối tượng, thao tác với nó và trong việc cảm nhận nó. Hai phần nghóa ngữ hiệu
và văn hàm hợp thành một chỉnh thể, đó là trường nghóa của thực từ. Dương Kỳ Đức đã
phân tích từ chuột để minh họa. Qua cứ liệu thành ngữ, tục ngữ, qua cách nhìn của người
Việt về con vật này trong đời sống, ông cho rằng từ chuột chứa đựng những nội dung sau:
– Chuột được coi là con vật sợ mèo, hay bị mèo ăn thịt.
– Chuột thường được liên tưởng đến kẻ xấu, việc xấu: không quang minh chính đại
(len lét như chuột ngày; cháy nhà ra mặt chuột), táo tợn (chuột gặm chân mèo), lâm vào thế
cùng (chuột chạy cùng sào), là kẻ bất tài nhưng gặp may (chuột sa chónh gạo).[9].
Thật thú vị nếu ta đem so sánh nghóa của từ chuột trong tiếng Việt với nghóa văn
hàm đặc thù của hai từ mouse và rat cùng nghóa là “chuột” trong tiếng Anh. Tuy cùng nghóa
là “chuột”, cùng thiên về nghóa tiêu cực như trong tiếng Việt, nhưng sắc thái biểu cảm của
hai từ này có khác nhau. Mouse là người lặng lẽ, nhút nhát (as quiet as a mouse - lặng lẽ nhö


×