Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ THUÝ
QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành : QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số : 601405
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học : GS-TSKH Nguyễn Văn Hộ
Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tác giả xin chân thành cảm ơn Trường Đại
học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên và các thầy giáo, cô giáo đã tận tình
giảng dạy, hướng dẫn lớp Cao học Quản lý Giáo dục khoá 16 trong quá trình
học tập, nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, lãnh đạo
các Sở, ban, ngành, các cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên các trường Trung
học phổ thông trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên cùng gia đình và các bạn đồng
nghiệp đã tận tình hợp tác, giúp đỡ.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS - TSKH
Nguyễn Văn Hộ, người đã tận tình hướng dẫn, bổ sung những kiến thức và
phương pháp luận trong thời gian qua để tác giả hoàn thành luận văn này.
Dù bản thân đã cố gắng, song luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các
bạn đồng nghiệp. Tác giả xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày 19 tháng 8 năm 2010
Tác giả
Trần Thị Thuý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBQL : Cán bộ quản lý
CSVC : Cơ sở vật chất
CNH - HĐH : Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
GD - ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GS.TS : Giáo sư. Tiến sỹ
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
HT : Hiệu trưởng
NGLL : Ngoài giờ lên lớp
NXB : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó giáo sư. Tiến sỹ
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
UBND : Uỷ ban nhân dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và Đào tạo đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mục tiêu xã hội của Giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nư-
ớc. Trong nền kinh tế thị trường và sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu
hoá, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã và sẽ tạo ra những điều kiện cần
thiết và cơ hội thuận lợi cho Việt Nam phát triển. Báo cáo Chính trị tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu “Giáo dục -
Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, những người cán bộ quản lý trong
nhà trường phổ thông (đứng đầu là Hiệu trưởng) phải có trách nhiệm rèn
luyện phẩm chất đạo đức và năng lực quản lý cho bản thân mình, cho đội ngũ
Giáo viên trong đó đặc biệt là đội ngũ Giáo viên chủ nhiệm lớp vì họ là
những người có trách nhiệm quan trọng trong việc rèn luyện nhân cách cho
học sinh. Luật Giáo dục năm 2005 trong điều 31, mục 2, điểm a đã nêu Giáo
viên chủ nhiệm lớp có nhiệm vụ “Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp
về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối tượng, nhằm thúc đẩy sự
tiến bộ của cả lớp”.
Chủ nhiệm lớp là một trong những hoạt động giáo dục chủ yếu trong
nhà trường phổ thông, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
giáo dục. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là người thay mặt hiệu trưởng, trực
tiếp triển khai những mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ của nhà trường đến từng
học sinh trong lớp, đồng thời họ là người chịu trách nhiệm đánh giá học sinh.
Có thể nói người Giáo viên chủ nhiệm lớp là cánh tay nối dài của Hiệu trưởng
đến từng học sinh để khuyến khích các em nỗ lực học tập, rèn luyện, kịp thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
uốn nắn những việc làm sai trái, vi phạm đạo đức của học sinh trong lớp mình
phụ trách. Ngày nay do ảnh hưởng của cơ chế thị trường và một số lý do
khác, có nhiều Giáo viên chủ nhiệm thiếu quan tâm đến công tác quản lý lớp,
theo dõi đánh giá học sinh một cách cảm tính, không tìm hiểu và nắm vững về
học lực, đạo đức cũng như hoàn cảnh gia đình, tâm tư nguyện vọng của học
sinh, tình cảm giữa Giáo viên chủ nhiệm lớp với học sinh không gắn bó.
Để hoạt động chủ nhiệm lớp đạt được hiệu quả không chỉ cần có sự nỗ
lực của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm mà cần có sự quản lý, chỉ đạo của Ban
giám hiệu mà trực tiếp là của Hiệu trưởng nhà trường. Nếu Hiệu trưởng triển
khai linh hoạt và sáng tạo các biện pháp tổ chức, quản lý hoạt động chủ nhiệm
lớp sẽ góp phần quyết định đến việc nâng cao hiệu quả của công tác này.
Hiện nay, việc quản lý công tác chủ nhiệm của Hiệu trưởng trong các
nhà trường nói chung và trường THPT nói riêng còn có những bất cập, hạn
chế, chưa tạo ra động lực cho đội ngũ GVCN nhiệt tình, say mê với công
việc, có một số còn vi phạm đạo đức nhà giáo như trù dập học sinh, nâng
điểm sai quy chế, ép học sinh học thêm để dạy thêm, tình trạng bạo lực học
đường, học sinh sử dụng ma tuý, thuốc lắc không thể nói đó không phải là
trách nhiệm của nhà trường, của GVCN. Thủ tướng Chính phủ cũng ra Chỉ thị
33/2006/CT-TTg về “Chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo
dục”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra cuộc vận động “Hai không” với 4 nội
dung: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục;
nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc ngồi nhầm lớp của học sinh.
Ngoài ra, chương trình giảng dạy của các trường Đại học Sư phạm đào
tạo giáo viên nói chung có giảng dạy về công tác chủ nhiệm lớp nhưng thời
gian kiến tập và thực tập Sư phạm còn ít, khi mới ra trường giáo viên trẻ thư-
ờng gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý lớp. Họ chưa biết cách tìm hiểu
tâm lý học sinh, hoàn cảnh gia đình, môi trường xã hội của học sinh đang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
sống, làm cho hiệu quả của công tác chủ nhiệm chưa cao, chưa đáp ứng được
với yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi giàu truyền thống cách mạng, đa số
học sinh THPT trên địa bàn tỉnh là con em nông dân, công nhân, cán bộ công
chức, gia đình buôn bán nhỏ, khá nhiều em thuộc diện nghèo khó nhưng có
tinh thần hiếu học, muốn phấn đấu vươn lên. Người Hiệu trưởng cần có
những biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT một cách
phù hợp để giúp giáo viên chủ nhiệm hoàn thành tốt công việc của mình,
giúp học sinh phát triển nhân cách toàn diện. Vấn đề này chưa thật sự được
quan tâm, nghiên cứu sâu ở các trường THPT trên địa bàn tỉnh. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý công tác chủ
nhiệm lớp ở các trường THPT tỉnh Thái Nguyên”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ
GVCN lớp và quản lý công tác chủ nhiệm lớp của các Hiệu trưởng trường
THPT tỉnh Thái Nguyên, tác giả đề xuất biện pháp quản lý công tác chủ
nhiệm lớp của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý của Hiệu trưởng trường
Trung học phổ thông
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm của
Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên
4. Giả thuyết khoa học
Nâng cao hiệu quả việc quản lý công tác chủ nhiệm của Hiệu trưởng
trường THPT giữ vai trò quan trọng trong việc tạo động cơ học tập và hình
thành nhân cách, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Nếu xác lập được các biện pháp quản lý khoa học, phù hợp thì sẽ góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục và đáp ứng được với yêu cầu đổi mới đối
với giáo dục Trung học phổ thông.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu :
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công tác chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường THPT.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý công tác chủ
nhiệm của Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên
5.3. Đề xuất một số biện pháp mang tính khả thi nhằm nâng cao chất
lượng việc quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường THPT tỉnh
Thái Nguyên, góp phần thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục
THPT một cách toàn diện.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung : Đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý công tác
chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên.
6.2. Về địa bàn: Đề tài được triển khai nghiên cứu tại 6 trường THPT
đại diện cho các vùng miền trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
6.3. Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu, khảo sát, đánh giá trong
khoảng thời gian 5 năm học liền kề (Từ năm học 2005-2006 đến năm học
2009-2010).
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài: Các quyết định, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
- Phân tích, tổng hợp và hệ thống hoá các vấn đề lý luận có liên quan
đến nội dung quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trường THPT.
- Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, Luật Giáo dục, Điều lệ trường Phổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
thông, Kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý THPT của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái Nguyên.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn (cá nhân, nhóm)
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi để khảo sát
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Ngoài ra, tác giả đề tài có sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm
xử lý số liệu, thông tin đã thu thập được trong quá trình điều tra, nghiên cứu.
8. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài
8.1. Hệ thống hoá các khái niệm về quản lý công tác chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường THPT
8.2. Chỉ ra thực trạng về quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu tr-
ưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên trong những năm học gần đây
8.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu
trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên
9. Cấu trúc của luận văn : Luận văn gồm 3 phần :
Phần mở đầu: Những vấn đề chung của đề tài
Phần nội dung: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động quản lý công tác chủ nhiệm lớp
của Hiệu trưởng trường THPT
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý công tác chủ nhiệm lớp của
Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp quản lý công tác chủ nhiệm lớp
của Hiệu trưởng trường THPT tỉnh Thái Nguyên
Phần kết luận chung và khuyến nghị
Ngoài ra còn có danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm theo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
LỚP CỦA HIỆU TRƢỞNG TRONG NHÀ TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Ngày nay sự phát triển của khoa học công nghệ đã giúp cho kinh tế xã
hội phát triển nhanh chóng. Do đó, trong Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp
hành TW khoá X đã đề ra Nghị quyết số 25- NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” và Nghị quyết số 27 - NQ/TW “Về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”,
Đảng ta đă xác định “GD-ĐT chính là chìa khoá, là động lực quan trọng để
xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc gia. Trong đó đội ngũ GV và CBQL
giáo dục có ý nghĩa cao cả đặc biệt, họ là bộ phận lao động tinh hoa của đất
nước, lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển của đất n-
ước, cộng đồng đi vào trạng thái phát triển bền vững”. Ban bí thư TW có Chỉ
thị 40-CT/TW về xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục. Thủ tướng
Chính phủ ra quyết định phê duyệt đề án “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và
CBQL giáo dục theo hướng chuẩn hoá nâng cao chất lượng, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức lối
sống, lương tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh
CNH-HĐH đất nước”
Công tác quản lý, xây dựng và phát triển đội ngũ GV nói chung và
GVCN nói riêng của HT trường THPT là một nội dung quan trọng và cần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
thiết để nâng cao chất lượng giáo dục.
Công tác chủ nhiệm lớp có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách
cho học sinh nên việc quản lý công tác này của HT trường THPT là rất cần
thiết. Ở Việt Nam, cho đến nay, còn ít đề tài, công trình nghiên cứu tìm hiểu
về vấn đề này. Tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, hướng nghiên cứu
này có được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như :
“Tài liệu trợ giúp giáo viên tập sự về công tác chủ nhiệm lớp” của GS -TSKH
Nguyễn Văn Hộ; “Khoa học Quản lý giáo dục” của PGS -TS Trần Kiểm; “
Quản lý giáo dục” của PGS -TS Bùi Minh Hiền (chủ biên); “Công tác Giáo
viên chủ nhiệm lớp của trường phổ thông ”; “Phương pháp công tác của ngư-
ời giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT” của Hà Nhật Thăng (chủ biên);
“Một số kinh nghiệm giáo dục đào tạo của Giáo viên chủ nhiệm lớp” do Trần
Mạnh Dũng (chủ biên) Ngoài ra, có thể tìm thấy hướng đề tài này trên một
số bài báo, tạp chí. Gần đây đã có hàng chục luận văn thạc sỹ, tiến sỹ nghiên
cứu về công tác GVCN lớp nhưng nhìn chung chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách cụ thể về quản lý công tác chủ nhiệm lớp của Hiệu trưởng trong
hệ thống các trường THPT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Do yêu cầu thực tế
của công tác quản lý giáo dục, chúng tôi nhận thấy cần nghiên cứu thực trạng
về quản lý công tác chủ nhiệm lớp trong các trường THPT trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên để đề ra biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của 1 tỉnh trung du miền núi.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Quản lý
1.2.1.1 Khái niệm
Trong quá trình hình thành và phát triển loài người, con người phải
luôn lao động để duy trì và phát triển nòi giống. Trong khi lao động cần sự
hợp tác của một nhóm người hoặc nhiều người, do sự hợp tác này mà xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
xuất hiện một loại hình lao động mới mang đặc thù là tổ chức điều khiển các
hoạt động theo yêu cầu nhất định, đó là hoạt động quản lý.
Quản lý là một loại hình lao động của con người trong cộng đồng nhằm
thực hiện các mục tiêu mà tổ chức hoặc xã hội đặt ra. Trong xã hội loài người,
quản lý là một hoạt động bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời nó
cũng là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển của xã
hội. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội
khác nhau nên cũng trải qua nhiều hình thức quản lý khác nhau. Các triết gia,
các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của quản lý
đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Nó là một phạm trù tồn tại khách
quan và là một tất yếu lịch sử.
Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát dùng cho cả quá
trình quản lý xã hội, quản lý vật chất, quản lý giới sinh vật Trong quản lý xã
hội lại có nhiều lĩnh vực quản lý như quản lý sản xuất, kinh tế, quản lý hành
chính, quản lý giáo dục Về quản lý xã hội, Mác khẳng định : “Tất cả mọi
người lao động chừng nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì cũng đều
cần đến sự chỉ đạo…Một người độc tấu vĩ cầm thì tự điều khiển lấy mình
nhưng một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [9].
Thuật ngữ “quản lý” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau trên
cơ sở những cách tiếp cận khác nhau.
Theo từ điển tiếng Việt: “Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định” [37].
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc định nghĩa thuật
ngữ “quản lý” như sau: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [10].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là hoạt động có mục đích,
có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là
khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [31].
Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát: quản lí là tác động
điều hành hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người nhằm đạt đươc mục tiêu đã đề ra
1.2.1.2. Chức năng quản lí
Chức năng quản lí là một tác động đặc biệt, sản phẩm của quá trình
phân công lao động và chuyên môn hoá trong quản lí [28]. Thực chất chức
năng quản lí là hình thức tồn tại của các tác động quản lí. Chức năng quản lí
là hình thức biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ thể quản lí đến đối
tượng quản lí. Trong quản lí, chức năng quản lí là một phạm trù quan trọng,
mang tính khách quan và có tính độc lập tương đối. Chức năng quản lí nảy
sinh và là kết quả một quá trình phân công lao động, là bộ phận tạo thành hoạt
động quản lí tổng thể. Thông qua chức năng quản lí, người quản lí tác động
một cách có mục đích vào khách thể quản lí nhằm đạt được mục tiêu nhất
định. Có nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về phân chia các chức
năng quản lí. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm đều đề cập đến 4 chức năng
chủ yếu sau: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra.
Chức năng kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá là hoạt động đầu tiên của người cán bộ quản lý, là khởi
nguồn của mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Chức năng kế hoạch hoá
là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực
hiện mục tiêu đó, tức là việc làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Đây là
khâu quan trọng, cơ bản của chu trình quản lý. Nội dung chủ yếu của kế hoạch
hoá là xác định và hình thành mục tiêu đối với tổ chức, xác định các nguồn lực
và biện pháp để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, kế hoạch hoá là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
xác định trước xem tổ chức phải làm gì ? Làm như thế nào ? Làm khi nào và ai
sẽ làm ? Sản phẩm của chức năng kế hoạch hoá là kế hoạch.
Chức năng tổ chức
Chức năng này được thực hiện sau khi lập xong kế hoạch, người quản
lý phải hình thành bộ máy, cơ cấu các bộ phận nhằm chuyển hoá những ý
tưởng được đề ra trong kế hoạch thành hiện thực. Nội dung chủ yếu của chức
năng tổ chức là: Xác định cấu trúc tổ chức; Xây dựng và phát triển đội ngũ
nhân sự; Xác định cơ chế hoạt động và các mối quan hệ của tổ chức; Tổ chức
lao động một cách khoa học của người quản lý.
Nhờ chức năng tổ chức mà hệ thống quản lý trở nên có hiệu quả, quan
hệ giữa các bộ phận được liên kết thành một cấu trúc chặt chẽ, cho phép các
cá nhân đóng góp tốt nhất vào việc thực hiện mục tiêu chung, tạo điều kiện để
các nhà quản lý điều phối các nguồn lực đạt kết quả. Thành tựu của một tổ
chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý, vào việc người
quản lý sử dụng các nguồn lực như thế nào để đạt hiệu quả nhất. Nếu tổ chức
tốt sẽ khơi nguồn cho các động lực, ngược lại nếu tổ chức không tốt sẽ làm
triệt tiêu động lực và giảm sút hiệu quả quản lý.
Chức năng chỉ đạo
Chỉ đạo là khâu quan trọng tạo nên thành công của kế hoạch, đây là quá
trình tác động và ảnh hưởng của chủ thể quản lý tới hành vi, thái độ của
những người khác nhằm biến những yêu cầu chung của tổ chức thành nhu cầu
của mọi người, từ đó khiến mọi người tích cực, tự giác làm việc đạt hiệu quả
cao nhất. Để thực hiện chức năng này đỏi hỏi người quản lý phải vận dụng
khéo léo các phương pháp và nghệ thuật quản lý.
Chức năng kiểm tra
Có ý kiến cho rằng: Kiểm tra là nghiên cứu nhược điểm và thất bại để
không xảy ra nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Lênin khẳng định: “Quản lý mà không có kiểm tra thì không phải là
quản lý”. Theo lý thuyết thông tin, kiểm tra là thiết lập mối quan hệ ngược
trong quản lý, do đó: “Lập kế hoạch là sự nhìn về phía trước, còn kiểm tra là
sự nhìn về phía sau”. Kiểm tra là khâu không thể thiếu trong quản lý, kiểm tra
để quản lý; muốn quản lý tốt thì phải kiểm tra.
Kiểm tra nhằm đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra, đây là quá
trình mà chủ thể quản lý xem xét thực tiễn để thực hiện các nhiệm vụ; đánh
giá thực trạng, khuyến khích những nhân tố tích cực, phát hiện những sai lệch
và đưa ra những quyết định điều chỉnh nhằm giúp các đối tượng quản lý hoàn
thành nhiệm vụ và góp phần đưa toàn bộ hệ thống được quản lý tới một trình
độ cao hơn. Kiểm tra là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý.
Trong một chu trình quản lý, cả 4 chức năng trên phải được thực hiện
liên tiếp, đan xen vào nhau, phối hợp bổ sung cho nhau, tạo sự kết nối từ chu
trình này sang chu trình khác theo hướng phát triển. Trong đó yếu tố thông tin
luôn giữ vai trò xuyên suốt. Có thể biểu diễn mối liên hệ giữa các chức năng
theo sơ đồ sau (sơ đồ 1.1):
Sơ đồ 1.1: Quan hệ giữa các chức năng quản lý
Kế hoạch
Kiểm tra, đánh giá
Chỉ đạo
Tổ chức
Thông tin
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.2.2. Quản lý giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động.
Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới
xung quanh, dần dần tích luỹ được những kinh nghiệm, từ đó nảy sinh nhu
cầu truyền đạt những hiểu biết đó cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh
của hiện tượng giáo dục.
Sơ khai, giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau đó trở
thành một hoạt động có ý thức. Ngày nay, giáo dục đã trở thành một hoạt
động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có mục tiêu, kế hoạch,
chương trình, nội dung, phương pháp hiện đại và trở thành một động lực thúc
đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng XH đặc biệt, bản chất của nó là sự
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử XH, nhờ có giáo dục mà các thế hệ
nối tiếp nhau phát triển. Theo tác giả Phạm Hồng Quang: “Giáo dục là nền
tảng của văn hoá, là nhân tố hình thành và tạo dựng truyền thống văn hoá”
[30], nhờ có giáo dục mà tinh hoa văn hoá của dân tộc và nhân loại được kế
thừa, bổ sung, XH loài người không ngừng tiến lên.
1.2.2.2. Khái niệm quản lý giáo dục
Giáo dục là một thành phần của KT - XH, hệ thống giáo dục, mạng lưới
nhà trường là một bộ phận thuộc kết cấu hạ tầng XH. Do vậy, quản lý giáo
dục phải được thực hịên đồng bộ, hài hoà nhằm để tái sản xuất sức lao động
có tay nghề, có kỹ thuật, phục vụ các yêu cầu phát triển KT - XH.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục. Tuy nhiên, có thể
thống nhất với hai cách tiếp cận sau đây:
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát
là hoạt động điều hành, phối hợp của các lực lượng XH nhằm thúc đẩy công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của XH” [2].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp với quy luật của chủ thể quản
lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [32].
Sơ đồ 1.2: Mô hình về quản lý giáo dục
Theo tác giả Phan Thiên Bảo, ta có thể hiểu một cách khái quát: Quản
lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý lên tập thể GV, HS và các lực
lượng khác nhau ở trong và ngoài nhà trường, huy động họ cùng phối hợp, tác
động, tham gia vào các hoạt động của nhà trường nhằm để đạt được mục tiêu
giáo dục đã đề ra [3].
Trong quản lý giáo dục, con người luôn giữ vai trò trung tâm của mọi
hoạt động. Con người vừa là chủ thể vừa là khách thể quản lý. Mọi hoạt động
của quá trình QLGD đều hướng vào việc đào tạo và phát triển nhân cách thế
hệ trẻ. Vì vậy, con người là nhân tố quan trọng nhất trong QLGD.
1.2.3. Quản lý nhà trường
1.2.3.1. Khái niệm nhà trường
Nhà trường là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất
Công cụ
Chủ thể
QLGD
Phương pháp
Đối tượng
và khách
thể QLGD
Mục
tiêu
quản
lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo nói trên
đạt được mục đích mà xã hội đó đặt ra cho nhóm dân cư được huy động vào
sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm của xã hội. Trường học là tổ
chức giáo dục cơ sở mang tính nhà nước - xã hội, trực tiếp làm công tác giáo
dục thế hệ trẻ, nó là tế bào cơ sở, là tế bào gốc của bất kỳ hệ thống giáo dục
nào từ trung ương đến địa phương. Trường học nói chung vừa là khách thể cơ
bản của tất cả các cấp quản lý, vừa là một hệ thống độc lập tự quản của XH.
Do vậy, quản lý trường học vừa có tính nhà nước, vừa có tính XH.
1.2.3.2. Khái niệm quản lý nhà trường
Khái niệm “quản lý nhà trường” đã được nhiều tác giả bàn đến. Tuy
nhiên, từ trên bình diện chung, có thể nêu lên hai hướng tiếp cận sau đây:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý trường học là thực hiện đường
lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục đích giáo dục, mục tiêu đào
tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS” [19].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý nhà trường là hệ thống những
tác động tự giác có thể có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp
quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể HS, cha
mẹ HS và các lực lượng XH trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [27].
Như vậy, quản lý trường học thực chất là tác động có định hướng, có
kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực của nhà trường nhằm
đẩy mạnh hoạt động, chủ yếu là hoạt động dạy học của nhà trường theo
nguyên lý giáo dục và tiến tới mục tiêu giáo dục.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang
có tiến lên một trạng thái phát triển ở mức cao hơn bằng cách xây dựng và
phát triển mạnh mẽ các nguồn lực phục vụ cho việc tăng cường chất lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
giáo dục. Theo tác giả Nguyễn Khắc Hiền “mục đích cuối cùng của quản lý
nhà trường là tổ chức quá trình giáo dục trong và ngoài nhà trường có hiệu
quả để nhà trường có thể đào tạo ra sản phẩm là những người học thông minh,
sáng tạo, năng động, tự chủ” [22].
Tóm lại: Nhà trường là một thành tố cơ bản của hệ thống giáo dục nên
quản lý nhà trường cũng được hiểu như là một bộ phận của quản lý giáo dục.
Thực chất của quản lý nhà trường, suy cho cùng là sự tạo điều kiện cho các
hoạt động trong nhà trường vận hành theo đúng mục tiêu, tính chất của nhà
trường XHCN ở Việt Nam.
Trường THPT thuộc cấp học cuối cùng trong bậc học phổ thông. Nó là
đơn vị cơ sở của hệ thống giáo dục đồng thời là một tổ chức XH trong cộng
đồng. Vì thế, ta nói: trường THPT là một tổ chức sư phạm - xã hội. Với tư
cách là một tổ chức XH, trường THPT tham gia hoạt động trong một hệ thống
thống nhất ở cấp Thành phố, thị xã, huyện, tham gia thực hiện mục tiêu KT -
XH của địa phương. Trường THPT là một đơn vị văn hoá tiêu biểu trong
cộng đồng. Có thể nói văn hoá trường học thường vượt qua văn hoá cộng
đồng, trường học như một trung tâm tái sản xuất văn hoá liên tục ở nơi nó
hoạt động.
1.2.4. Giáo viên chủ nhiệm
1.2.4.1. Khái niệm Giáo viên chủ nhiệm
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” năm 2000 không giải thích từ “giáo
viên chủ nhiệm” mà chỉ giải nghĩa các từ “giáo viên” và “chủ nhiệm”. Theo
đó, từ “giáo viên” được hiểu là “người dạy học ở bậc phổ thông hoặc tương
đương”; từ “chủ nhiệm” hiểu là “người đứng đầu và chịu trách nhiệm chính
trong một số tổ chức” [37]. Từ đó có thể thấy thuật ngữ “giáo viên chủ
nhiệm” là một từ ghép được hình thành từ hai từ “giáo viên” và “chủ nhiệm”.
Trong đó từ “giáo viên” chỉ người thực hiện công việc còn từ “chủ nhiệm” chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
về nhiệm vụ, chức trách được giao. Nếu ghép lại ta có thể hiểu “giáo viên chủ
nhiệm là một trong những người dạy của lớp, là người đứng đầu và chịu trách
nhiệm chính về lớp đó”.
Trong “Điều lệ trường trung học” ban hành kèm theo Quyết định số
07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT ở tại khoản
1, Điều 19 nêu thêm 4 nhiệm vụ cụ thể của GVCN.
Các văn bản, điều lệ, quy chế của ngành giáo dục tuy không nêu rõ
khái niệm GVCN nhưng qua cách diễn đạt trong các văn bản đó, ta có thể
hiểu: GVCN là giáo viên bộ môn dạy lớp học đó, được HT chỉ định làm
nhiệm vụ quản lý, cộng tác, phối hợp với các lực lượng trong nhà trường thực
hiện các hoạt động giáo dục nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của tập thể lớp, của các
thành viên trong lớp.
- Trong công trình nghiên cứu về người GVCN, tác giả Phạm Viết
Vượng cho rằng: “GVCN ở trường phổ thông là người thay mặt HT quản lý
toàn diện một lớp học” [40].
Như vậy, ta có thể hiểu GVCN là GV bộ môn của lớp học được HT tin
cậy giao phó, chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, tập hợp và phối hợp với
các lục lượng khác để thực hiện hoạt động giáo dục đối với HS lớp được giao.
1.2.4.2. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm
Khi tập hợp có chủ đích các GVCN lại thành một tổ chức hoạt động
theo một quy định chặt chẽ để nó phát huy mạnh mẽ công tác giáo dục, quản
lý HS, giúp các GV nâng cao tay nghề và thành công hơn trong thực thi
nhiệm vụ thì chúng ta có được “đội ngũ GVCN”. Thật vậy, khi tập hợp có
chủ đích, tức là có sự sắp xếp trật tự, hoạt động có quy định, có kỷ cương, nề
nếp, có phân công phân nhiệm và sự hoạt động của nó có tác dụng tích cực
đối với việc thực thi nhiệm vụ cũng như sự trưởng thành của các thành viên,
nghĩa là đã hội đủ 3 yếu tố của một “đội ngũ”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Như vậy, đội ngũ GVCN là tập hợp các GV làm chủ nhiệm lớp theo
chủ đích của người HT, được tổ chức hoạt động theo nội quy cụ thể nhằm làm
cho công tác giáo dục, quản lý HS của GVCN trong nhà trường có hiệu quả,
chất lượng hơn.
1.2.5. Quản lý đội ngũ
1.2.5.1. Khái niệm
Quản lý đội ngũ là một hoạt động của người quản lý tác động lên đối
tượng là “đội ngũ” nhằm đạt được mục tiêu nào đó.
Theo quan niệm của khoa học quản lý, có thể hiểu: Quản lý đội ngũ là
những tác động có ý thức, có hướng đích của chủ thể quản lý trong việc huy
động, dử dụng, điều phối, phát huy các nguồn lực một cách tối ưu vào đội ngũ
để đạt được mục tiêu đề ra của đội ngũ đó. Bản chất của việc quản lý đội ngũ
chính là việc quản lý tổ chức và quản lý nhân sự của một tổ chức.
1.2.5.2. Nội dung, hình thức quản lý đội ngũ
- Nội dung quản lý đội ngũ: Là những việc mà chủ thể quản lý cần tác
động có ý thức, có định hướng vào đội ngũ bị quản lý để đạt được ý định của
mình. Theo bản chất của quản lý đội ngũ trình bày ở trên thì nội dung quản lý
đội ngũ có 2 nội dung cơ bản, đó là những vấn đề cần quản lý của một tổ chức
và những vấn đề cần quản lý về nhân sự (con người).
- Nội dung quản lý của tổ chức là việc xây dựng, sắp xếp, bố trí, điều
hành chỉ đạo, điều khiển kiểm tra đánh giátổ chức nhằm đạt được mục tiêu
của tổ chức đó. Để làm được việc này, cần xác định mục tiêu rõ ràng, phù
hợp; chương trình kế hoạch thực hiện hợp lý, khả thi; tập hợp, sắp xếp, bố trí
lực lượng một cách khoa học; các tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể, đo đạc được một
cách khách quan, công bằng; có các phương án dự phòng khi có biến động
tình hình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
- Nội dung quản lý nhân sự là những hoạt động của người quản lý
nhằm tìm hiểu, sử dụng, làm phát triển những phẩm chất, năng lực của từng
con người; là tuyển chọn, giao nhiệm vụ, sắp xếp bố trí đúng người, đúng
việc, huấn luyện, đào tạo bồi dưỡng; thẩm định kiểm tra đánh giá kết quả,
động viên khen thưởng và xử phạt đúng, công bằng, từ đó có thể đề bạt hay sa
thải nhân viên
Tóm lại, nội dung quản lý tổ chức, quản lý nhân sự là thể hiện các chức
năng quản lý của người quản lý vào việc thiết chế tổ chức, vào hoạt động của
tổ chức cũng như các thành viên trong tổ chức đó nhằm đạt được trạng thái
phát triển tích cực của tổ chức và con người trong tổ chức.
Hình thức quản lý đội ngũ: Là những biểu hiện bên ngoài của hoạt
động quản lý; đó là cách tiến hành hoạt động quản lý của chủ thể quản lý
đối với đội ngũ bị quản lý. Với cách hiểu như vậy thì có 3 hình thức quản
lý đội ngũ:
Hình thức quản lý đội ngũ gián tiếp: Chủ thể quản lý thông qua bộ
phận chức năng hay cá nhân được giao quyền, được uỷ quyền thay mặt mình
thực hiện các chức năng quản lý đối với đội ngũ bị quản lý.
Hình thức quản lý đội ngũ trực tiếp: Chủ thể quản lý không thông qua
bộ phận hay cá nhân nào, mà chính bản thân đứng ra thực thi các chức năng
quản lý đối với đội ngũ bị quản lý.
Hình thức vừa gián tiếp vừa trực tiếp (kết hợp gián tiếp và trực tiếp):
Tuỳ tình hình và thực tế diễn ra hoạt động của đội ngũ, của các thành viên
trong đội ngũ mà bộ phận chức năng hay người được giao quyền, uỷ quyền
thực hiện chức năng quản lý hoặc chủ thể quản lý đứng ra thực hiện chức
năng quản lý.
Các hình thức trên có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Tuỳ
vào tình hình, đặc điểm của mỗi đơn vị, người quản lý lựa chọn nội dung,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
hình thức quản lý cho phù hợp, tránh làm cho đội ngũ rối loạn, hiệu quả lao
động kém.
1.3. Ngƣời giáo viên chủ nhiệm lớp ở trƣờng Trung học phổ thông
1.3.1. Vị trí của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT
Trong mỗi trường THPT bao gồm một số lượng lớp học nhất định. Mỗi
lớp được coi như một đơn vị, một tế bào hữu cơ trong hệ thống nhà trường.
Sự thành công hay không thành công của mỗi lớp học đều có ảnh hưởng tốt
hay không tốt đến sự phát triển của tập thể nhà trường. Vì vậy, một yêu cầu
đặt ra là phải làm thế nào để xây dựng lớp học thành tập thể tốt, góp phần xây
dựng nhà trường tốt. Người đứng ra đảm đương vai trò chủ đạo trong công tác
giáo dục học sinh của từng lớp trên cơ sở phối hợp các lực lượng giáo dục
chính là người giáo viên chủ nhiệm.
Người GVCN lớp phải chịu trách nhiệm về mọi mặt của lớp từ khâu
quản lý, lên kế hoạch và tổ chức xây dựng lớp thành một tập thể vững mạnh,
đoàn kết đến việc tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức tư cách, thế giới quan,
nhân sinh quan, kỹ năng sống, kỹ năng hoà nhập, cho từng thành viên của
tập thể lớp.
GVCN là cầu nối giữa HT với lớp. Với vị trí này, người GVCN chịu
trách nhiệm truyền tải những yêu cầu, kế hoạch hoạt động giáo dục của HT
đến lớp mình phụ trách một cách sáng tạo, năng động. Đồng thời GVCN còn
phải báo cáo với HT tất cả những gì về tình hình, các nhu cầu, nguyện vọng
của lớp, của từng thành viên trong lớp và ngay cả những ý kiến của cha mẹ
HS để HT nắm, biết và xử lý giải quyết.
Người GV làm công tác chủ nhiệm phải thường xuyên liên hệ với tổ
trưởng chuyên môn để nắm tình hình lớp và tiếp cận cách đổi mới phương
pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin, kế hoạch hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục nghề phổ thông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
GVCN là cầu nối giữa nhà trường với ban đại diện cha mẹ HS, gia đình
HS, thực hiện việc thông báo các chủ trương, kế hoạch giáo dục của ngành,
của trường; tình hình học tập, tu dưỡng đạo đức, nhân cách, tác phong của HS
cho cha mẹ HS biết, để cùng phối hợp giáo dục HS giúp cho con em họ biết
lựa chọn phương pháp học tập để đạt kết quả tốt, khắc phục những thiếu sót,
nhược điểm trong hành vi đạo đức.
GVCN còn phải làm cầu nối giữa GV bộ môn với cha mẹ HS. Với vị
trí này, người GVCN phải thông báo cho GV bộ môn biết những yêu cầu,
những ý kiến đóng góp về cách dạy, cách ứng xử sư phạm hoặc làm công tác
hoà giải khi có sự vướng mắc giữa gia đình HS với GV bộ môn.
Người GVCN có quan hệ với BCH Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của
trường, để biết các hoạt động của Đoàn, nhằm bồi dưỡng tư tưởng, chính trị,
lý tưởng cuộc sống cho thanh niên ngày nay, thông qua sự trợ giúp của ban
cán sự lớp, BCH chi đoàn lớp trong việc giám sát, theo dõi các HS của lớp.
Ngoài ra, người GVCN còn làm cầu nối với các ban ngành và địa
phương để biết được hoạt dộng giáo dục cũng như các chủ trương chính sách
giáo dục của Đảng và nhà nước ở địa phương, các ban ngành trong XH. Như
vậy, GVCN trong trường THPT có vị trí cơ bản sau:
GVCN là người đứng đầu, chỉ huy, chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt
động và kết quả học tập, tu dưỡng rèn luyện của tập thể lớp cũng như từng
thành viên của lớp. GVCN là cầu nối giữa tập thể lớp, các thành viên trong
lớp với HT, với gia đình và với XH nên sự tác nghiệp này cần phải nhanh
nhạy, kịp thời, trung thực, chính xác, khách quan thì công tác chủ nhiệm mới
đạt hiệu quả.
1.3.2. Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT
Trong nhà trường phổ thông, GVCN lớp là người thay mặt HT làm
công tác quản lý và giáo dục HS, chịu trách nhiệm về chất lượng giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
toàn diện của HS lớp mình phụ trách. GVCN là cầu nối, giữ mối liên lạc
thường xuyên giữa các lực lượng giáo dục trong nhà trường, giữa nhà trường
với gia đình và các tổ chức XH khác. GVCN là nhân vật trung tâm, là linh
hồn của lớp, tập hợp và đoàn kết HS trong tập thể. GVCN quản lý, theo dõi
mọi mặt hoạt động của HS từ tình hình lớp đến những diễn biến tâm tư,
nguyện vọng, phát triển và bồi dưỡng tiềm năng của các em nhằm giúp các
em phát triển toàn diện.
Đối với học sinh THPT, người GVCN lớp cần xác định vai trò chính
của mình là cố vấn cho tập thể lớp. Điều đó có nghĩa là GVCN lớp không nên
làm thay đội ngũ tự quản, (ban cán sự lớp, BCH chi đoàn, cán sự bộ môn, tổ
trưởng, tổ phó, những em được phân công phụ trách từng mặt hoạt động của
lớp như văn nghệ, thể dục, lao động, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp )
mà nhiệm vụ chủ yếu là bồi dưỡng năng lực tự quản cho HS.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN lớp cần có năng lực dự báo chính
xác khả năng của HS trong lớp. GVCN lớp phải khơi dậy tiềm năng sáng tạo
của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt động, xây dựng kế hoạch
hoạt động của mỗi tháng, mỗi học kỳ, của từng năm học. GVCN lớp là người
giúp HS tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá. Điều đó không có
nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể HS, GVCN
nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ
những khó khăn trong quá trình hoạt động, tranh thủ ý kiến các lực lượng
trong và ngoài nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho HS của lớp tổ chức
hoạt động.
Với tư cách là nhà giáo dục, GVCN cần có ý thức trách nhiệm XH, tích
cực tham gia vào phát triển cộng đồng. Một trong những yếu tố của sự phát
triển cộng đồng, đó là nhân cách HS - thế hệ công dân tương lai.
Ngoài ra, GVCN còn có vai trò XH, họ là cầu nối giữa tập thể HS với
các tổ chức XH ngoài trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng XH
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
cùng tham gia giáo dục HS. Có thể nói, GVCN là người đại diện cho quyền
lợi chính đáng của HS, bảo vệ HS về mọi mặt một cách hợp pháp. Họ phản
ánh trung thành mọi tâm tư, quyền lợi nguyện vọng của HS với BGH nhà
trường, với các đoàn thể XH khác. Hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp ở
trường THPT phụ thuộc rất nhiều vào các giải pháp thực hiện liên kết giáo
dục với các lực lượng XH.
1.3.3. Chức năng của người giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT
GVCN lớp trước hết phải là một nhà giáo dục, thông qua việc tổ chức
các hoạt động của một tập thể lớp mà giáo dục những phẩm chất, nhân cách
của mỗi HS. Qua các hoạt động đa dạng và phong phú, xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp giữa HS với HS, giữa HS với những thành viên khác, hướng vào
việc hình thành cho HS những thói quen, hành vi phù hợp với các chuẩn mực
đạo đức của XH, nên cần thực hiện các chức năng sau:
- Chức năng quản lý giáo dục toàn diện
Muốn thực hiện chức năng quản lý giáo dục toàn diện, GVCN phải có
những kiến thức cơ bản về XH, về tâm lý học, giáo dục học và các kĩ năng sư
phạm như: kĩ năng tiếp cận đối tượng HS; kĩ năng nghiên cứu tâm lý lứa tuổi;
kĩ năng đánh giá; kĩ năng lập kế hoạch và kĩ năng giao tiếp sư phạm để có dự
đoán đúng, chính xác về sự phát triển nhân cách của HS.
Trong tổ chức quản lý giáo dục, cần đặc biệt quan tâm đến việc quản lý
học tập và sự hình thành, phát triển nhân cách HS. Hai mặt trên có quan hệ hỗ
trợ, tác động lẫn nhau. Việc giáo dục đạo đức có hiệu quả tất nhiên sẽ có tác
dụng mạnh mẽ đến chất lượng học văn hoá, nhất là trong điều kiện nay, khi
từng ngày, từng giờ những cám dỗ, những ảnh hưởng tiêu cực của XH đang
len lỏi, thâm nhập vào nhà trường.