Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đào tạo theo nhu cầu xã hội - những định hướng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.75 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ................................................................................2
MỞ ĐẦU..........................................................................................................3
Chương I...........................................................................................................6
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU..............................6
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu........................................................................................7
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu...............................................................................................7
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu.......................................................................8
4. Phân loại nhu cầu đào tạo.......................................................................................................9
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường................................11
6. Kinh nghiệm.........................................................................................................................12
Chương II.......................................................................................................18
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................18
1. Những hạn chế của quá trình đào tạo theo nhu cầu.............................................................21
2. Những thành tựu đạt được từ đào tạo theo nhu cầu............................................................29
Chương III......................................................................................................33
GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA...............33
1. Giải pháp ..............................................................................................................................33
2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010....................................................................................39
KẾT LUẬN....................................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................42

1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
1. Giáo dục và Đào tạo GD – ĐT
2. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
3. Đại học ĐH
4. Cao đẳng CĐ


5. Trung học chuyên nghiệp THCN
6. Trung cấp chuyên nghiệp TCCN
7. Trung học cơ sở THCS
8. Trung học phổ thông THPT
9. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH
10.Kinh tế - xã hội KT – XH
11.Công nghiệp hoá CNH
12.Việt Nam VN
13.Đại học quốc gia ĐHQG
14.Công nghệ thông tin CNTT
15.Công nhân CN

2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỞ ĐẦU
Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện
nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân
lực, hay nói cách khác là hiệu quả GD-ĐT thấp. Đây là căn bệnh đã được nói
đến từ hàng chục năm qua, từ ngày Đảng và Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ
trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa được khắc phục,
nếu không nói là có xu hướng trầm trọng hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế.
Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép" của một nền giáo dục vừa nặng về hư
danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa
mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh
doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm
trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình
trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra
trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công
nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ,

đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại
học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng
chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý
nghĩa của nó, một khái niệm mà lâu nay vẫn bị coi là kiêng kỵ. Rõ ràng, với áp
lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO, nếu chúng ta không khẩn
trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào trung tâm của dòng chảy
phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT và nguồn nhân lực
nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực đã được khẳng định là chìa
khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả của khủng hoảng, tụt hậu
trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát triển kinh tế là vô cùng
nặng nề.

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp
ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp, đối tượng có
nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo, hay nói nôm na là chuyển từ "đào
tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận
dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là cần thiết.
Nó không nhanh chóng giải quyết vấn đề nguồn nhân lực của hiện tại mà còn
trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát triển kinh tế khi nước ta trong
tương lai.
Trong bài viết này, em đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu
cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì mà chúng
ta thực hiện. Vậy liệu có nên chăng tiếp tục con đường mà chúng ta đang đi hay
phải đổi mới, hoàn thiện nó lên một bước cao hơn để GD – ĐT thực sự xuất
phát từ nhu cầu xã hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn
lao động chất lượng cao tăng lên không ngừng của xã hội.

Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ
rất lâu rồI, ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việc Việt Nam đến nay mới nhận
ra và đi theo con đường này tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải
là không có ý nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục
nước nhà sẽ còn đi đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của
WTO thì nhu cầu về nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên
để có thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên
thế giới cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con
đường này.
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên em đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên
bài viết của em khó tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những sự góp
ý của thầy và những ai quan tâm đến vấn đề mà em nghiên cứu.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn em
hoàn thành đề án này.

5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU
Quan điểm đào tạo theo nhu cầu xã hội ở nước ta đã xuất hiện từ rất lâu.
Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VII tại

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), Đảng ta đã khẳng
định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hang đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng quy mô, nâng cao dân
trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực đào tạo trong những
năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH – HĐH).
Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội
nghị giáo dục đào tạo, Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH hiện nay sự
phát triển kinh tế - xã hộI (KT – XH) trước mắt và tương lai đòi hỏi cấp bách
những năng lực mới như năng lực thích ứng với sự thay đổi, năng lực tư duy
độc lập, năng lực tự học và tự cập nhập thường xuyên kiến thức mới, năng lực
sang tạo và nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế … đó là những năng lực cần
thiết để tìm ra những cách làm rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với các nước đi
trước nhằm đạt muc tiêu CNH – HĐH. Để có được những năng lực đó thì ngay
từ bây giờ các trường, các cơ sở đào tạo phải chuyển hướng đào tạo theo hướng
đáp ứng nhu cầu của xã hội, hướng giáo dục đào tạo phải trở thành một hệ
thống mở: mở đối với đại chúng, mở đối với thực tế kinh tế xã hội, mở đối với
thế giới và thời đại có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trong tương lai
không xa chúng ta có được nguồn lao động đáp ứng được các yêu cầu của xã
hội”.
Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp
thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi
nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần nó giúp ta có được

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh
nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam,
giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp trên thị trường đồng

thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người thất nghiệp trong
nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm việc.
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và
chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội
gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử
dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng:
Đào tạo theo nhu cầu là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn.
Những quan niệm trên đều chưa đầy đủ và sát với ý nghĩa của bản thân
nó. Dưới đây tôi xin nêu ra cách khái niệm sau về đào tạo theo nhu cầu theo tôi
là phù hợp nhất.
Đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức đào tạo mà ở đó chỉ rõ: Đào
tạo cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao nhiêu? được định hướng bởi nhu
cầu đào tạo xã hội
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu:
- Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu
hiện tại của thị trường đang thiều lao động trong những ngành nghề gì thì đào
tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các
lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là
đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược
điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên
sau một thời gian làm việc nều không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải
do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc

7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này
thì căn cứ vào tình hình phát triển hiện tại của nền kinh tế trong nước và xu thế
phát triển của thế giới để đưa ra nhưng dự đoán về những ngành nghề sẽ phát

triển trong tương lai. Việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào
tạo dài hạn (từ 3 đến 6 năm), những lao động được tạo ra từ đây thường có trình
độ cao; khả năng học hỏi, tiếp cận những thành tựu của khoa học công nghệ,
thích ứng với sự thay đổi là nhanh.Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là do thời
gian đào tạo là dài nên đòi hỏi việc dự báo phải có tính chính xác cao để tránh
sự lãng phí nguồn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu
a) Vai trò
Đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai
đoạn phát triển nhất định nào đó mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn đi lên, nhu cầu của con người
này càng cao, khoa học công nghệ phát triển từng ngày từng giờ … khiến cho
nhu cầu về nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở có đức tính tốt, cần cù, trung
thành, có trách nhiệm nữa mà họ còn phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý
vần đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng độI, có khả năng ăn nói diễn
đạt …
Như vậy đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất to lớn, cụ thể là:
- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với
yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt
ra.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho
các đơn vị tuyển dụng
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân
lực từ nước ngoài chảy vào.

8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước của các đơn vị tuyển
dụng trong nước

- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người
lao động khi phải đào tạo lại.
b) Đặc điểm
Đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là một loại hình đào tạo mới trên
thế giới, nhưng đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó cần giải quyết
trong giai đoạn hiện nay để có thể có một nguồn nhân lực tốt đáp ứng nhu cầu
hiện tại và tương lai của đất nước.
Đào tạo theo nhu cầu có những đặc điểm sau:
- Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường
đòi hỏI cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải
đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu
theo đúng những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng
dạy tiên tiến trên thế giới
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của
người học và của các cơ quan sử dụng lao động.
- Luôn tồn tại sự chênh lệch giữa nhu cầu đào tạo và cung ứng đào tạo do
nhu cầu luôn biến đổi còn quy trình đài tạo thì lại có sức ỳ lớn.
- Nội dung đào tạo phải luôn gắn với thực tiễn
4. Phân loại nhu cầu đào tạo
Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu của nhà nước: là chiến lược phát triển nguồn nhân lực với tầm
xa 15 đến 20 năm với các ngành nghề đặc biệt, đảm bảo cho sự phát triển lâu
dài của đất nước. Nhu cầu đào tạo này thường chọn mục tiêu đi trước, đón đầu
về khoa học, công nghệ, vượt trước nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp cũng như
nhu cầu của người học. Có thể thấy nhu cầu đào tạo này trong việc phát triển
nguồn nhân lực cho các ngành điện hạt nhân, công nghệ Nano, công nghệ sinh
học, cơ điện tử và một số ngành công nghệ quan trọng khác. Nhu cầu đào tạo

9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

này có số lượng lớn, có căn cứ và cơ sở để dự đoán hàng năm. Những ngành
nghề đặc biệt về an ninh, quốc phòng và chế độ cử tuyển do nhà nước dự báo
nhu cầu.
- Nhu cầu của doanh nghiệp: về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực bao
gồm đào tạo cán bộ quản lý và lao động chuyên môn trực tiếp đòi hỏi người học
sau khi tốt nghiệp có thể làm được việc ngay, phù hợp với yêu cầu cụ thể của
doanh nghiệp. Nhu cầu đào tạo này phù hợp với các trình độ: đại học theo
hướng nghề nghiệp ừng dụng, kỹ thuật viên trình độ cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp và dạy nghề. Tuy nhiên nhu cầu này chưa được tổng hợ, thiều thông tin
nhu cầu dự báo hang năm. Đặc biệt trong các doanh nghiệp ở các nước hiện nay
đang phải nhập khẩu lao động thì việc đào tạo theo nhu cầu của họ để xuất khẩu
lao động là hoàn toàn cần thiết.
- Nhu cầu của người học: là nhu cầu cá nhân của học sinh, sinh viên. Nhu
cầu này thường thay đổi theo nhu cầu của thị trường lao động rất khó xác định
nhưng phải được nghiên cứu và tôn trọng. Đó là nhu cầu của bản than người
học để nâng cao trình độ, học để tìm việc làm, để làm một nghề có thể sống
được, học để tự tạo việc lamg cho bản than và cho người khác. Bên cạnh đó là
nhu cầu của gia đình hướng cho con em mình lựa chọn ngành nghề theo truyền
thống của gia đình.
Ba nhóm nhu cầu này thường xuyên biến động, thay đổi theo từng giai
đoạn, phụ thuộc vào sự phát triển của KT – XH của đất nước tạo ra một tập hợp
có các vùng giao thoa với nhau. Tuỳ theo tầm nhìn và nhiệm vụ đào tạo, nhà
trường sẽ điều chỉnh số người học, ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với
xu thế phát triển, thoả mãn nhu cầu đào tạo của nhà nước, của doanh nghiệp và
nhu cầu của bản thân người học.

10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các
trường

Việc đào tạo theo nhu cầu là rất quan trọng tuy nhiên có rất nhiều nhân tố
ảnh hưởng làm cho kết quả của quá trình đào tạo có thể hoặc không thể theo ý
muốn chủ quan của người đào tạo và người sử dụng sản phẩm qua đào tạo.
Trong đó bao gồm cả những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu cực
- Những nhân tố tích cực:
+ Có nhiều chính sách, chương trình, dự án của Nhà nước khuyến khích
các trường học, cơ sở đào tạo tiến hành đào tạo theo nhu cầu của xã hội như:
tăng nguồn vốn cấp phát cho các trường, cơ sở đào tạo đầu tư các trang thiết bị
hiện đại phục vụ cho dạy và học, tăng cường liên kết giữa nhà trường và doanh
nghiệp …
+ Nhận thức của người dân về nhu cầu học của cá nhân ngày càng theo
hường đáp ứng nhu cầu của xã hội hơn là chạy theo thị hiếu
+ Ngày càng có nhiều loại hình, phương tiện giảng dạy mới giúp học
sinh, sinh viên nhanh chóng tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại như:
giảng dạy bằng máy chiếu, phương pháp trao đổI thông tin qua mạng …
- Những nhân tố tiêu cực:
+ Tài chính Nhà nước cấp cho các trường và khoản thu của nhà trường
(học phí và các khoản thu khác) có tăng qua từng năm nhưng vẫn là quá ít so
với nhu cầu của một nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng.
+ Sự can thiệp, chỉ đạo chưa hợp lý của Bộ GD - ĐT
+ Cơ sở vật chất cho giảng dạy còn nhiều hạn chế nhất là các ngành thuộc
khối kỹ thuật do đầu tư vào trang thiết bị quá tốn kém
+ Nội dung giáo trình còn lạc hậu so với thế giới

11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
6. Kinh nghiệm
Sự tăng trưởng của khu vực Đông Á trong những thập kỷ qua là kết quả
của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó không thể không kể đến chiến lực phát
triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát

khỏi đói nghèo, trở thành nước công nghiệp sánh vai cùng các nước phát triển
trên thế giới (như Anh, Mỹ, Đức…) là mục tiêu hàng đầu và phải kiên quyết
thực hiện. Cho đến nay, sau những chặng đường dài của sự phát triển thì những
thành tựu phát triển kinh tế của các nước trong khu vực Đông Á có được từ
chính sách phát triển chú trọng phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo của họ vẫn là những bài học quý giá mà chúng ta cần học tập mặc dù
việc thực hiện chính sách này ở nước ta là muộn so với nhu cầu thực tại của đất
nước.
Ngay từ thời kỳ đầu bước vào công nghiệp hoá (CNH), các nền kinh tế
Đông Á đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là vốn quý nhất của xã
hội, là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất. Điều đáng lưu ý là nhận thức
này không chỉ của Chính phủ mà đã trở thành nhận thức chung, thống nhất của
cả chính quyền các cấp lẫn người dân và các tầng lớp với các giới có liên quan.
Ở các nền kinh tế Đông Á, chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông
qua GD – ĐT với chiến lược CNH có tính bổ xung và phù hợp khá cao. Hai loại
chính sách này không thể thành công được nếu như chính sách phát triển NNL
thông qua GD – ĐT không được hoạch định nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể
đặt ra cho mỗi giai đoạn của CNH. Cụ thể là vào thời kỳ chuẩn bị cất cánh công
nghiệp, các nền kinh tế Đông Á (ngay cả Nhật Bản) thường bị lạc vào tụt hậu xa
so với các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ. Các nền nước ở Đông Á có nguồn nhân
lực dồi dào và rẻ mạt song lại rất thiếu các nguồn lực để có thể cùng mọt lúc
đáp ứng được rất nhiều nhu cầu cấp bách. Để có thể sớm rút ngắn khoảng cách
đó và đuổi kịp các nước phát triển, các nước Đông Á không có cách nào khác
để tiến hành thành công CNH là phải tiến hành tiếp thu công nghiệp nước
ngoài. Muồn làm được điều này, các nước này cần phải nhanh chóng nâng cao

12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trình độ dân chúng và tạo ra được một đội ngũ lao động có trình độ đồng đều và
phù hợp để có thể tiếp thu và cải tiến được các công nghệ nhập khẩu. Trong tình

thế đó do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học, nên các nền
kinh tế này đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học. Nhiều nền kinh tế
trong khu vực đã giành một nửa kinh phí giáo dục cho giáo dục tiểu học. Nhờ
đó, hầu hết các nền kinh tế này đã sớm thực hiện thành công quá trình phổ cập
giáo dục tiểu học, tạo nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch trôi chảy lao
động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng nhơ cho việc xây dựng và
phát triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
Đó thực sự là một chuyển đổi thành công từ sự gia tăng trình độ giáo dục sang
sự gia tăng năng xuất lao động xã hội và sự gia tăng mức độ CNH của nền kinh
tế.
Vào thời kỳ chuyển dịch cơ cầu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia
tăng thấp lên các hoạt động có giá trị gia tăng cao, nhu cầu nhân lực lúc này
không chỉ là lao động giản đơn tốt nghiệp tiểu học nhơ giai đoạn trước nữa mà
đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn. Do đó ngay sau khi đạt được phổ cập
giáo dục tiểu học, các nền kinh tế Đông Á đã chuyển sang mở rộng giáo dục
trung học, ban hành chính sách phổ cập giáo dục trung học và ưu tiên đầu tư
cho cấp học này. Nhật Bản và các nước công nghiệp đã rất thành công trong
việc thực hiện chính sách mới này là do họ đã có chính sách mở rộng và ưu tiên
đầu tư thích hợp khiến quy mô mở rộng giáo dục trung học đủ lớn; đồng thời
chính sách CNH thích hợp được đưa ra sau khi các nền kinh tế này thực hiện
thành công phổ cập giáo dục tiểu học, đã thu hút được hầu hết lực lực lượng lap
động vào quá trình sản xuất, do vậy đã giúp nền kinh tế nhanh chóng chuyển
sang hoạt động công nghiệp có giá trị giá tăng cao. Trong những năm 1970,
giáo dục trung học trong các nền kinh tế này đã nhận được phần đầu tư đáng kể
trong các khoản đầu tư cho 3 cấp giáo dục : tiểu học, trung học, đại học. Đồng
thời chính sách mở rộng giáo dục trung học đã nhấn mạnh không chỉ khía cạnh

13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
văn hoá của giáo dục trung học mà còn cả khía cạnh giáo dục nghề nghiệp cấp

trung học.
Trong khi đó ở các nước ASEAN, việc mở rộng hệ thống giáo dục trung
học lại không theo sát quá trình CNH đã gây ra một vài rối loạn trên thị trường
lao động. Philippin mở rộng giáo dục vượt quá nhu cầu của CNH, hay không đi
kèm với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã gây ra tình trạng thất nghiệp có học
lớn. Do đó trên thực tế Philippin đã phải chọn giải pháp xuất khẩu lao động để
giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa. Ngược lại, ở một cực khác các
nước như Thái Lan, Indonexia, Malayxia giáo dục trung học lại không đáp ứng
được nhu cầu về lao động có kỹ năng ngày càng cao của nền kinh tế.
Như vậy, điểm mấu chốt khiến cho chính sách mở rộng giáo dục trung
học của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới hiệu quả hơn các nước ASEAN
là họ đã kịp thời nhận thấy được nhu cầu về lao động có kỹ năng cao ngày càng
tăng cho phát triển và nhanh chóng có những đổi mới trong quá trình đào tạo để
tạo ra những con người đáp ứng các nhu cầu đó.
Từ những năm 1980, do toàn cầu hoá kinh tế ngày càng trở thành một xu
thế nổi trội và do sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, nên khối lượng kiến thức
được sản sinh ra ngày càng nhiều và đổi mới ngày càng nhanh, đồng thời tính
cạnh tranh giữa các nền kinh tế và các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt. Thực
tế này đòi hỏi các nền kinh tế phải chuẩn bị được nguồn nhân lực chất lượng
cao không chỉ nắm vững các kiến thức cơ bản mà còn phải cập nhập thường
xuyên các thành tựu khao học và có đầu óc sáng tạo, linh hoạt, dám nghĩ dám
làm, năng động, chấp nhận mạo hiểm. Trước những yêu cầu đòi hỏi đó các nền
kinh tế Đông Á đã tập trung nguồn lực tiến hành cải cách mạnh mẽ hệ thồng
giáo dục và đào tạo cả về cơ cấu, nội dung giảng dạy, tạo điều kiện tốt nhất cho
mọi người tham gia học tập và đổi mới kiến thức suốt đời.
Bên cạnh vấn đề giáo dục phổ thông, thì các nước trong khu vực Đông Á
còn quan tâm đến giáo dục nghề ban đầu, Các nước này cho rằng lực lượng lao
động có tay nghề là cầu nối giữa các nhà khoa học và sản xuất, là lực lượng chủ

14

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chốt cho sản xuất. Các nước này thường kết hợp giáo dục nghề nghiẹp ban đầu
ở các cấp trung học, lẫn sau trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở
các nước Đông Á thì phương thức nổi trọi nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm
việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo
này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập
giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ
yếu cho và từ nhu cầu của chính mình.
Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra
những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học
và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng
cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo
dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ
thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về
"thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn
đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà
nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong
các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các
chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá
trình học tập bất cứ lúc nào trong đời.
Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để
nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ
Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục
"Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và
Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người
khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có
thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào
năm 2005.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng
Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào


15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công
dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của
mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh
sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật.
Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến
hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng
thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên
sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và
sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao
trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu
lên lão làng".
Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo
dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh
nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại
Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo
nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội
tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong
vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu
"khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với
một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất
cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc
độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung
Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược
quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã
tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng
giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều

biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và
khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung

16

×