Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.85 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... 3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
Chương I .............................................................................................................. 7
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU .................................. 7
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu ........................................................................................ 9
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu ............................................................................................. 11
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu ..................................................................... 11
3.1. Vai trò ........................................................................................................................... 11
3.2. Đặc điểm ....................................................................................................................... 13
4. Phân loại nhu cầu đào tạo ..................................................................................................... 14
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các trường ................................ 15
5.1. Những nhân tố tích cực ................................................................................................ 15
5.2. Những nhân tố tiêu cực ................................................................................................. 16
6. Kinh nghiệm về đào tạo theo nhu cầu của một số nước và khu vực trên thế giới .............. 17
6.1. Khu vực Đông Á ........................................................................................................... 17
6.2. Châu Âu ......................................................................................................................... 22
6.3.Trung Quốc ..................................................................................................................... 22
Chương II .......................................................................................................... 24
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................ 24
I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN GIA VÀ KỸ
THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI .................................................................................................. 24
1.Quá trình hình thành .......................................................................................................... 24
2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm ................................................................................ 24
2.1. Chức năng ...................................................................................................................... 24
2.2. Nhiệm vụ ....................................................................................................................... 25
3. Nhân sự và cơ cấu tổ chức của trung tâm ....................................................................... 26
VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI .................................................................................... 28

1


II: THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG THỜI
GIAN QUA ............................................................................................................................... 29
1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động giáo dục đào tạo ............................................. 32
2. Những tồn tại của nền giáo dục nước ta .............................................................................. 36
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên .................................................................................... 43
3.1. Từ phía nhà trường và người học ................................................................................. 43
3.2. Từ phía Nhà nước ......................................................................................................... 46
Chương III ......................................................................................................... 49
GIẢI PHÁP CHO ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở NƯỚC TA .................. 49
1. Giải pháp .............................................................................................................................. 49
2. Lộ trình thực hiện từ 2007 đến 2010 ................................................................................... 64
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 67

2
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
1. Giáo dục và Đào tạo GD – ĐT
2. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
3. Đại học ĐH
4. Cao đẳng CĐ
5. Trung học chuyên nghiệp THCN
6. Trung cấp chuyên nghiệp TCCN
7. Trung học cơ sở THCS
8. Trung học chuyên nghiệp THCN
9. Dạy nghề DN
10. Trung học phổ thông THPT
11. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH
12. Kinh tế - xã hội KT – XH
13. Công nghiệp hoá CNH
14. Việt Nam VN

15. Đại học quốc gia ĐHQG
16. Công nghệ thông tin CNTT
17. Công nhân CN

3
MỞ ĐẦU
Một căn bệnh cốt tử trong nền Giáo dục và Đạo tạo (GD-ĐT) của ta hiện
nay là sự cách biệt quá lớn giữa đào tạo và sử dụng, giữa cung và cầu về nhân
lực, hay nói cách khác là kết quả GD-ĐT chưa đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường. Đây là căn bệnh đã được nói đến từ nhiều năm qua, từ ngày Đảng và
Nhà nước bắt đầu đề cập đến chủ trương xã hội hóa giáo dục, thế nhưng cho
đến nay vẫn chưa được khắc phục, nếu không nói là có xu hướng trầm trọng
hơn trước áp lực của hội nhập quốc tế. Căn bệnh nói trên chính là hậu quả "kép"
của một nền giáo dục vừa nặng về hư danh, khoa cử, sính bằng cấp theo kiểu
giáo dục phong kiến xưa kia lại vừa mang tính "tháp ngà", tách biệt đào tạo với
xã hội, với thực tiễn sản xuất kinh doanh theo mô hình của Liên Xô trước đây.
Biểu hiện rõ nhất của tình trạng nêu trên chính là sự mất cân đối trầm
trọng trong cơ cấu nguồn nhân lực được đào tạo mà lâu nay vẫn được gọi là tình
trạng "thừa thầy thiếu thợ", là tình trạng một bộ phận không nhỏ sinh viên ra
trường không tìm được việc làm trong khi các doanh nghiệp, các khu công
nghiệp lại thiếu trầm trọng lao động đã qua đào tạo theo đúng nhu cầu của họ,
đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao…Cùng với quá trình phát triển của
nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc chúng ta chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) với cam kết mở cửa thị trường giáo dục đại
học đã tạo áp lực trực tiếp buộc chúng ta phải đổi mới tư duy GD-ĐT mà bằng
chứng cụ thể là việc chấp nhận khái niệm thị trường giáo dục với đầy đủ ý
nghĩa của nó. Rõ ràng, với áp lực mở cửa thị trường đại học theo cam kết WTO,
nếu chúng ta không khẩn trương đổi mới triệt để tư duy đào tạo, đặt GD-ĐT vào
trung tâm của dòng chảy phát triển và hội nhập thì khủng hoảng, tụt hậu trong
GD-ĐT và nguồn nhân lực nói chung tất yếu sẽ xảy ra. Một khi nguồn nhân lực

đã được khẳng định là chìa khóa thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế thì hậu quả

4
của khủng hoảng, tụt hậu trong GD-ĐT mà trực tiếp là đào tạo ĐH đối với phát
triển kinh tế là vô cùng nặng nề.
Do đó chủ trương hướng toàn bộ nền ĐH, CĐ, THCN cho mục tiêu đáp
ứng nhu cầu của xã hội mà trước hết là nhu cầu của doanh nghiệp - đối tượng có
nhu cầu lớn nhất về nhân lực đã qua đào tạo - hay nói nôm na là chuyển từ "đào
tạo cái mình có" sang "đào tạo cái mà xã hội (doanh nghiệp) cần" và việc vận
dụng các nguyên tắc của của thị trường trong đào tạo và sử dụng là rất cần thiết.
Nó không những tạo ra bước đệm giúp chúng ta nhanh chóng giải quyết vấn đề
nguồn nhân lực của hiện tại mà còn trở thành một động lực to lớn thúc đẩy phát
triển kinh tế trong tương lai.
Trong bài viết này, tôi đi sâu vào việc làm rõ thực trạng đào tạo theo nhu
cầu ở nước ta hiện nay và kết quả mà chúng ta nhận được từ những gì chúng ta
đã thực hiện. Qua đó thấy được con đường mà toàn nền giáo dục Việt Nam đã
chọn có đã đi theo đúng nhu cầu của xã hội hay chưa hay cần phải sửa đổi, bổ
xung cho hoàn thiện hơn nữa để con đường đó thực sự xuất phát từ nhu cầu xã
hội, để sản phẩm của nó thực sự đáp ứng nhu cầu về nguồn lao động chất lượng
cao tăng lên không ngừng của xã hội.
Mô hình này không còn phải là mới trên thế giới, nó đã được thực hiện từ
rất lâu rồi, ở rất nhiều quốc gia từ Châu Á đến Châu Âu, Châu Mỹ... Việc Việt
Nam đến nay mới nhận thấy hết ý nghĩa to lớn của đào tạo theo nhu cầu xã hội
trong vấn đề giải quyết nhu cầu lao động ngày càng cao của các doanh nghiệp
nói riêng và của xã hội nói chung và quyết định tiến hành triển khai rộng khắp
trong cả nước tuy là quá muộn song việc thực hiện nó không phải là không có ý
nghĩa bởi lẽ nếu không thực hiện thì không biết nền giáo dục nước nhà sẽ còn đi
đến đâu đặc biệt là hiện nay nước ta đã là thành viên của WTO thì nhu cầu về
nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường là rất lớn. Tuy nhiên để có
thể đi đến đích thành công của nó không phải điều dễ dàng, thực tế trên thế giới

cho thấy rõ không phải nước nào cũng thành công khi đi theo con đường này.

5
Với tính cấp thiết và quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài:
“Đào tạo theo nhu cầu xã hội - Những định hướng và giải pháp”
Nội dung chính của bài viết gồm có 3 phần:
Chương I : Lý luận chung về đào tạo theo nhu cầu
Chương II : Thực trạng việc đào tạo theo nhu cầu ở Việt Nam
Chương III : Giải pháp cho đào tạo theo nhu cầu ở nước ta
Do những hạn chế về mặt kiến thức và nguồn tài liệu tìm kiếm được nên
bài viết của tôi khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những sự góp
ý của thầy, cô và những ai quan tâm đến vấn đề mà tôi nghiên cứu.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn tôi
hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.

6
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU
Quan điểm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội ở nước ta đã
xuất hiện từ rất lâu song để nhận thấy hết được ý nghĩa của nó thì phải đến giai
đoạn hiện nay vấn đề này mới thực sự được quan tâm và trở thành vấn đề lớn
của cả nước. Ngay trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương
Đảng khoá VII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996),
Đảng ta đã khẳng định: Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt mở rộng
quy mô, nâng cao dân trí và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh
vực đào tạo trong những năm tiếp theo là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH – HĐH).
Hay trong bài phát biểu của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình tại Hội
nghị giáo dục đào tạo (năm 1996), Bà đã nhấn mạnh: “Ở thời đại CNH – HĐH

hiện nay sự phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) trước mắt và tương lai đòi hỏi
cấp bách những năng lực mới như năng lực thích ứng với sự thay đổi, năng lực
tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhập thường xuyên kiến thức mới,
năng lực sáng tạo và nâng cao sự cạnh tranh của nền kinh tế … đó là những
năng lực cần thiết để tìm ra những cách làm rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với
các nước đi trước nhằm đạt mục tiêu CNH – HĐH. Để có được những năng lực
đó thì ngay từ bây giờ các trường, các cơ sở đào tạo phải chuyển hướng đào tạo
theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội, hướng giáo dục đào tạo phải trở thành
một hệ thống mở: mở đối với đại chúng, mở đối với thực tế kinh tế xã hội, mở
đối với thế giới và thời đại có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trong tương
lai không xa chúng ta có được nguồn lao động đáp ứng được các yêu cầu của xã
hội”.

7
Bên cạnh những quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước thì sự phát
triển của thị trường ngày một nhanh chóng cũng đòi hỏi phải có một phương
thức giáo dục mới ra đời thay thế cho phương thức giáo dục cũ còn nhiều hạn
chế để tạo ra một nguồn lao động vừa mạnh về số lượng vừa đáp ứng được yêu
cầu về chất lượng. Cụ thể là:
- Sự hình thành những ngành nghề mới đã đặt ra những yêu cầu mới đối
với lực lượng lao động, đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, đào tạo lại
hoặc thường xuyên bồi dưỡng theo những chương trình được cá biệt.
- Do điều kiện sản xuất kinh doanh, do môi trường hoạt động của các loại
lao động, các doanh nghiệp và cá nhân người lao động có những nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng rất riêng biệt, thường đòi hỏi phải có những chương trình được
thiết kế riêng. Đối với cá nhân người lao động, các yếu tố chủ quan và kỳ vọng
phát triển cá nhân cũng đòi hỏi được đáp ứng bằng những chương trình đào tạo,
bồi dưỡng riêng biệt.
- Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện và có quy mô rộng hơn. Nó
không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia, mà đã vươn ra phạm vi quốc tế. Cùng

với sự phát triển của thị trường này, sức ép đối với người lao động cũng tăng
lên, đòi hỏi họ phải không ngừng được đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để
chuẩn bị cho bước phát triển tiếp hoặc khi chuyển sang công việc khác
- Sự luân chuyển ngày càng nhanh và với quy mô ngày càng rộng làm
nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng trở nên ngày càng lớn. Xuất phát từ trình độ, kinh
nghiệm và kỹ năng khác nhau, sự chuyển đổi kiến thức, kỹ năng của các cá
nhân, nhóm người lao động khác nhau sẽ khác nhau, khiến các chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cũng phải đa dạng để có thể đáp ứng để có thể đáp ứng được
những yêu cầu này.
- Bản thân người lao động có những điều kiện, đặc điểm riêng khiến cho
họ có những trình độ chuyên môn, tay nghề khá khác nhau dù có cùng một điểm
xuất phát giống nhau về đào tạo cơ bản, về môi trường và điều kiện làm việc…
Do đó, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của mỗi người sẽ ngày càng khác biệt.

8
Như vậy vấn đề đào tạo theo nhu cấu thực sự trở thành một vấn đề cấp
thiết với nước ta không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai đặc biệt khi
nước ta đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
WTO thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng bội phần, nó góp phâng quan
trọng vào việc tạo ra một lượng lớn nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu của các doanh nghiệp trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài khi
đầu tư vào Việt Nam, giảm bớt được một lượng đáng kể số người thất nghiệp
trên thị trường đồng thời còn hạn chế được tình trạng trong khi số lượng người
thất nghiệp trong nước tăng mà vẫn phải thuê lao động từ nước ngoài về làm
việc.
1. Khái niệm về đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay, khái niệm đào tạo theo nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và
chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng: Đào tạo theo nhu cầu xã hội
gồm: đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử
dụng lao động và nhu cầu của người học. Song cũng có quan điểm cho rằng:

Đào tạo theo nhu cầu là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn.
Những quan niệm trên đều chưa đầy đủ và sát với ý nghĩa của bản thân
nó. Dưới đây tôi xin nêu ra cách khái niệm sau về đào tạo theo nhu cầu theo tôi
là phù hợp nhất.
Đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức đào tạo mà ở đó: Đào tạo
cái gì? Đào tạo như thế nào? Đào tạo bao nhiêu? được định hướng bởi nhu cầu
đào tạo xã hội.
Đào tạo cái gì? Trả lời được câu hỏi này chúng ta sẽ xác định được mục
đích của đào tạo như đào tạo ra lớp bác sỹ, kỹ sư, các nhà ngoại giao…, đồng
thời cũng xác định rõ những bác sỹ, kỹ sư, nhà ngoại giao đó phái có những kỹ
năng gì để có thể đảm nhận được công việc Ví dụ như để trở thành một nhà
ngoại giao đòi hỏi ngoài những yêu cầu cơ bản như có ý thức kỷ luật cao, có
chuyên môn, trình độ nghề nghiệp cao phải có kỹ năng sau:,có khả năng giao
tiếp tốt, biết nhiều thứ tiếng, năng động, có khả năng làm việc theo nhóm . Như

9
vậy khi tiến hành giáo dục và đào tạo chúng ta phải xác định được cụ thể rõ xã
hội cần những con người trong những lĩnh vực hoạt động gì, ở trình độ, kỹ năng
ra sao. Để tránh gây lãnh phí thời gian và tiền bạc thì việc điều tra, nghiên cứu,
nắm bắt được nhu cầu xã hội trong tương lai gần và xa là rất quan trọng.
Đào tạo như thế nào? Câu hỏi này giúp chúng ta tìm ra được để đào tạo
có hiệu quả cao thì phải có một cách thức, phương thức đào tạo như thế nào cho
đúng. Hiện nay, tại Việt Nam cũng như trên thế giới tồn tại rất nhiều phương
thức đào tạo trong nhà trường rất khác nhau như đào tạo theo kiểu máy móc, cổ
truyền thầy giảng gì trò biết nấy; hoặc học sinh tự nghiên cứu là chính đến lớp
thầy chỉ giải đáp những thắc mắc của học sinh mà thôi; rồi có cả hình thức đào
tạo trực tuyến….Tuy nhiên tùy theo điều kiện mỗi nơi mà trong trường hợp này
cách thức đào tạo đó là hiệu quả song khi áp dụng cho nơi khác lại nhận được
những kết quả trái ngược. Do đó để tìm ra được một phương thức đào tạo cho
hiệu quả cũng cần phải xét đến yếu tố con người và xã hội của bản thân khu vực

đó.
Đào tạo bao nhiêu? Bao nhiêu ở đây muốn nói đến số lượng con người
mà chúng ta sẽ đào tạo trong một thời kỳ sao cho đủ để đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Để xác định được một cách chính xác con số này không phải là điều đơn
giản. Con số này không chỉ dừng lại ở con số chung chung cho toàn xã hội mà
điều quan trọng là chúng ta phải xác định rõ xem ứng với mỗi ngành nghề cụ
thể con số này sẽ là bao nhiều. Đây là điều khiến cho các nhà hoạch định cảm
thấy rất khó khăn bởi lẽ xã hội luôn biến đổi không ngừng, ngành nghề hôm nay
thịnh hành thì ngày mai lại có thể trở nên quá nhàm chán và một ngành nghề
mới lại xuất hiện và lên ngôi. Vì vậy việc xác định cụ thể số lượng đào tạo trong
mỗi ngành nghề có ý nghĩa rất quan trọng, tránh được tình trạng thất nghiệp do
thừa nhân lực ở khu vực này và thiếu nhân lực ở khu vực khác do không dự báo
được hết nhu cầu xã hội.
Như vậy, với cả 3 câu hỏi trên muốn tìm được câu trả lời chuẩn xác phải
căn cứ vào nhu cầu xã hội. Hay nói chính xác nhu cầu của xã hội sẽ là cái mốc

10
để giáo dục - đào tạo dõi theo và điều chỉnh phương thức hoạt động của mình
cho phù hợp.
2. Phân loại đào tạo theo nhu cầu
Hiện nay trên thị trường tồn tại 2 loại hình đào tạo theo nhu cầu:
- Đào tạo theo nhu cầu hiện tại của thị trường: tức là căn cứ vào nhu cầu
hiện tại của thị trường đang thiếu lao động trong những ngành nghề gì thì đào
tạo những ngành nghề đó và việc đào tạo này thường được tổ chức thành các
lớp đào tạo ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng). Ưu điểm của loại hình đạo tạo này là
đáp ừng ngay được nhu cầu lao động của thị trường, tuy nhiên nó có nhược
điểm lớn là những lao động được đào tạo ra thường có tay nghề không cao nên
sau một thời gian làm việc nếu không có sự bổ sung kiến thức thì dễ bị đào thải
do không còn đáp ứng được yêu cầu cao hơn của công việc
- Đào tạo đáp ứng nhu cầu tương lai của thị trường: theo hình thức này

thì căn cứ vào tình hình phát triển hiện tại của nền kinh tế trong nước và xu thế
phát triển của thế giới để đưa ra nhưng dự đoán về những ngành nghề sẽ phát
triển trong tương lai. Việc đào tạo này thường được tổ chức thành các lớp đào
tạo dài hạn (từ 3 đến 6 năm), những lao động được tạo ra từ đây thường có trình
độ cao; khả năng học hỏi, tiếp cận những thành tựu của khoa học công nghệ,
thích ứng với sự thay đổi là nhanh. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là do thời
gian đào tạo là dài nên đòi hỏi việc dự báo phải có tính chính xác cao để tránh
sự lãng phí nguồn lực và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
3. Vai trò và đặc điểm của đào tạo theo nhu cầu
3.1. Vai trò
Đào tạo theo nhu cầu xã hội có một vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển của quốc gia, dân tộc. Ý nghĩa của nó không chỉ tồn tại trong một giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử mà nó xuyên suốt quá trình tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc bởi lẽ xã hội luôn luôn thay đổi không ngừng và
đi lên theo hướng chuyển dần từ lao động thủ công, thô sơ sang lao động bằng

11
chất xám do đó nhu cầu của thị trường về nguồn lao động không còn đơn thuần
chỉ dừng lại ở đức tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm như thời xa xưa
nữa mà họ còn phải có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vần đề, có khả năng
phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng ăn nói diễn đạt …Do đó nếu
không nhanh chóng nắm bắt được những đòi hỏi về số lượng và chất lượng của
các doanh nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung về lao động thì hàng năm sẽ
xảy ra hiện tượng một lượng lớn lao động qua đào tạo sẽ thất nghiệp trong
ngành nghề này và thiếu cục bộ trong ngành nghề khác. Điều này gây lãng phí
rất lớn cho bản thân người lao động, nhà trường và xã hội. Như vậy phương
thức đào tạo theo nhu cầu sẽ khắc phục được hạn chế cơ bản của cách thức giáo
dục trước đây khi còn quá nặng nề, móc máy trong giảng dạy mà chưa chú tâm
đến chất lượng đầu ra.
Qua đây, tôi xin nêu ra những vai trò và ý nghĩa cơ bản của phương thức

đào tạo theo nhu cầu xã:
- Nó khắc phục sự thiếu hụt trình độ và kỹ năng của từng cá nhân so với
yêu cầu cụ thể do công việc hiện tại và trước mắt của chính mỗi cá nhân đó đặt
ra. Khi đã tiến hành đào tạo theo nhu cầu, mỗi công việc, ngành nghề cụ thể sẽ
quy định rõ ở mỗi trình độ nhất định cần những kỹ năng nào để có thể đảm nhận
được công việc đó. Do khi tham gia các khóa học nghề, cũng như đào tạo tai
các trường cao đẳng, đại học sinh viên sẽ được được đào tạo một cách bài bản
các kỹ năng đó và khi ra trường sinh viên có thể bắt tay vào công việc luôn.
- Đáp ứng sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn nhân lực chất lượng cao cho
các đơn vị tuyển dụng. Hiện nay đa số sinh viên ra trường đều rất khó có thể xin
đươck một công việc theo đúng những gì đã học mặc dù nhu cầu tuyển dụng
của các doanh nghiệp là rất cao do đó rất khó cho doanh nghiệp có thể tuyển
được số lượng lao động như mong muốn. Phần lớn là do những kỹ năng sinh
viên có được trong quá trình học ở nhà trườn là rất ít so với yêu cầu đòi hỏi của
doanh nghiệp. Song khi tiến hành đào tạo theo nhu cầu thì số lượng lao động
mà thị trường cần đã được dự báo trước và chất lượng lao động đã được nâng
cao nên khả năng doanh nghiệp tuyển không đủ lượng cần là rất hạn chế.

12
- Tăng khả năng cạnh tranh của lao động trong nước so với nguồn nhân
lực từ nước ngoài chảy vào, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động từ các nước
của các đơn vị tuyển dụng trong nước. Do lao động trong nước không đáp ứng
được yêu cầu của các nhà tuyển dụng nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến
những lao động nước ngoài (thường thấy khi tuyển các vị trí cấp cao như giám
đốc, CEO…). Nhưng khi áp dụng đào tạo theo nhu cầu thì vấn đề này sẽ được
giải quyết do lao động của ta sẽ được đào tạo theo đúng nhưng gì doanh nghiệp
cần và được tiếp cận công nghệ mới một cách liên tục do đó sẽ nhanh chóng
nâng cao tay nghề của bản thân.
- Tiết kiệm chí phí và thời gian cho cơ quan tuyển dụng cũng như người
lao động khi phải đào tạo lại.Khi đào tạo theo nhu cầu, người lao động đã được

đào tạo theo đúng những yêu cầu mà doanh nghiệp mong muốn từ họ do đó
người lao động có thể làm được ngay những công việc ở những vị trí mà họ đã
dự tuyển, khi đó doanh nghiệp không phải tiến hành đào tạo lại và sẽ tiết kiệm
được rất nhiều chi phí.
3.2. Đặc điểm
Đào tạo theo nhu cầu xã hội không phải là một phương thức đào tạo mới
trên thế giới hiện nay, song đối với Việt Nam thì đây còn là một bài toàn khó
cần phải giải quyết kịp thời để có nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực tốt đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi trước mắt và lâu dài của xã hội. Tuy nhiên để có thể thực
hiện tốt công tác này thì chúng ta cần hiểu rõ đào tạo theo nhu cầu cần xác định
cụ thể, rõ ràng nó cần những yếu tố nào, cách thức vận dùng điều hành những
yếu tố đó có khác gì so với trước đây để tránh việc đi sai hướng, lòng vòng,
kém hiệu quả. Dưới đây tôi xin nêu ra một số đặc điểm của phương thức đào tạo
theo nhu cầu:
- Chi phí cho đào tạo là khá lớn cả về tiền bạc và công sức bởi nó thường
đòi hỏi cơ sở đào tạo phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường cũng như phải
đầu tư mua sắm những trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu
theo đúng những gì đang có trên thị trường, tiếp cận những phương pháp giảng
dạy tiên tiến trên thế giới

13
- Chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng phù hợp với nhu cầu của
người học và của các cơ quan sử dụng lao động.Khi tiến hành đào tạo theo nhu
cầu nhà trường sẽ kết hợp cùng doanh nghiệp để xác định rõ những kiến thức và
kỹ năng sinh viên cần có đối với mỗi chuyên ngành, qua đó tổng hợp lại và xây
dựng thành giáo trình giảng dạy trong nhà trường. Tuy nhiên bộ giáo trình này
chỉ được xây dựng hoàn chỉnh khi đã tổng hợp được những yêu cầu mà các
doanh nghiệp trong lĩnh vực đó cho là cần thiết cho đào tạo. Tránh trường hợp
xây dựng giáo trình cá thể cho từng doanh nghiệp cụ thể như vậy bộ giáo trình
sẽ chỉ áp dụng đơn thuần cho doanh nghiệp đó mà không áp dụng được trên

diện rộng. Việc làm này sẽ gây lãng phí thời gian và tiền của của doanh nghiệp
và nhà trường.
4. Phân loại nhu cầu đào tạo
Hiện nay có 3 nhóm nhu cầu sau đây:
- Nhu cầu của nhà nước: là những đòi hỏi về nguồn nhân lực từ những
chiến lược phát triển của bộ máy nhà nước hay của những ngành nghề mới mà
Nhà nước định hướng phát triển trong tương lai đảm bảo cho sự phát triển lâu
dài của đất nước. Nhu cầu đào tạo này thường chọn mục tiêu đi trước, đón đầu
về khoa học, công nghệ, vượt trước nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp cũng như
nhu cầu của người học. Có thể thấy nhu cầu đào tạo này trong việc phát triển
nguồn nhân lực cho các ngành điện hạt nhân, công nghệ Nano, công nghệ sinh
học, cơ điện tử và một số ngành công nghệ quan trọng khác. Nhu cầu đào tạo
này có số lượng lớn, có căn cứ và cơ sở để dự đoán hàng năm. Những ngành
nghề đặc biệt về an ninh, quốc phòng và chế độ cử tuyển do nhà nước dự báo
nhu cầu.
- Nhu cầu của doanh nghiệp: là nhu cầu về số lượng và chất lượng, tay
nghề, trình độ chuyên môn, kỹ năng của người lao động. Nhu cầu này đòi hỏi
lao động sau khi được đào tạo có thể làm được việc ngay, phù hợp với yêu cầu
cụ thể của doanh nghiệp để giảm thiếu chi phí do phải đào tạo lại. Tuy nhiên
nhu cầu này chưa được tổng hợp, thiếu thông tin nhu cầu dự báo hàng năm. Đặc
biệt trong các doanh nghiệp ở các nước hiện nay đang phải nhập khẩu lao động

14
thì việc đào tạo theo nhu cầu của họ để xuất khẩu lao động là hoàn toàn cần
thiết.
- Nhu cầu của người học: là nhu cầu cá nhân của học sinh, sinh viên. Nhu
cầu này thường thay đổi theo nhu cầu của thị trường lao động rất khó xác định
nhưng phải được nghiên cứu và tôn trọng. Đó là nhu cầu của bản thân người
học để nâng cao trình độ, học để tìm việc làm, để làm một nghề có thể sống
được, học để tự tạo việc làm cho bản thân và cho người khác. Bên cạnh đó là

nhu cầu của gia đình hướng cho con em mình lựa chọn ngành nghề theo truyền
thống của gia đình.
Ba nhóm nhu cầu này thường xuyên biến động, thay đổi theo từng giai
đoạn, phụ thuộc vào sự phát triển của KT – XH của đất nước tạo ra một tập hợp
có các vùng giao thoa với nhau. Tuỳ theo tầm nhìn và nhiệm vụ đào tạo, nhà
trường sẽ điều chỉnh số người học, ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với
xu thế phát triển, thoả mãn nhu cầu đào tạo của nhà nước, của doanh nghiệp và
nhu cầu của bản thân người học.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đào tạo theo nhu cầu của các
trường
Việc đào tạo theo nhu cầu của xã hội là rất quan trọng tuy nhiên có rất
nhiều nhân tố ảnh hưởng làm cho kết quả của quá trình đào tạo có thể hoặc
không thể theo ý muốn chủ quan của người đào tạo và người sử dụng sản phẩm
qua đào tạo. Trong đó bao gồm cả những nhân tố tích cực và những nhân tố tiêu
cực
5.1. Những nhân tố tích cực
+ Có nhiều chính sách, chương trình, dự án của Nhà nước khuyến khích
các trường học, cơ sở đào tạo tiến hành đào tạo theo nhu cầu của xã hội như:
tăng nguồn vốn cấp phát cho các trường, cơ sở đào tạo được đầu tư các trang
thiết bị hiện đại phục vụ cho dạy và học, tăng cường liên kết giữa nhà trường và
doanh nghiệp …

15
+ Nhận thức của người dân về đào tạo theo nhu cầu ngày càng được nâng
cao. Kết quả của nền giáo dục cũ (nặng về lý thuyết xem nhẹ thực hành, các
trường chỉ tập trung đào tạo những gì mình có) đã khiến cho người học có tâm
lý băn khoăn, lo lắng trong vấn đề chọn trường, chọn nghề sao cho khi ra trường
có thể dễ xin việc nhất. Do đó nhu cầu mong muốn được biết rõ xã hội đang cần
những ngành nghề, công việc gì của cả phụ huynh và học sinh ngày một lớn.
+ Ngày càng có nhiều loại hình, phương tiện giảng dạy mới giúp học

sinh, sinh viên nhanh chóng tiếp cận các kiến thức, công nghệ hiện đại như:
giảng dạy bằng máy chiếu, phương pháp trao đổi thông tin qua mạng …giúp
giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh chóng và tạo cảm giác
thoải trong học tập. Đồng thời nhờ có internet giáo viên và học sinh có thể trao
đổi bài tập rất bất cứ khi nào mà không mất nhiều thời gian.
5.2. Những nhân tố tiêu cực
+ Tài chính Nhà nước cấp cho các trường và khoản thu của nhà trường
(học phí và các khoản thu khác) có tăng qua từng năm nhưng vẫn là quá ít so
với nhu cầu của nền giáo dục ngày càng phát triển. Trước năm 2007 ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục khoảng 15% đến 16 % tổng chi cho ngân sách nhà
nước, đến năm 2007 con số này là 20% và có thể tăng lên từ 21% đến 22% vào
những năm tiếp sau. Tuy nhiên mức đầu tư này cộng thêm các khoản của nhà
trường từ học phí còn là rất nhỏ so với chi phí cần thiết đầu tư trang thiết bị,
máy móc hiện đại cho các trường. Mặt khác tổng chi ngân sách của Nhà nước
tính trên một mặt bằng GDP thấp như nước ta nên 20% là một con số nhỏ trong
khi hầu hết các máy móc thiệt bị tối tân đều phải nhập từ nước ngoài về do đó
khoản chi phí này chỉ đủ cho một số trước lớn mua từ 1 đến 2 loại máy móc.
+ Cơ sở vật chất cho giảng dạy còn nhiều hạn chế nhất là các ngành thuộc
khối kỹ thuật do đầu tư vào trang thiết bị quá tốn kém. Hệ thống giảng đường,
phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của
các trường còn thiếu, nghèo nàn và lạc hậu. Hệ thống thư viện nhà trường nhỏ

16
bé, không cung cấp đủ thông tin, sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo cho nhu
cầu ngày càng cao của giảng viên, SV.
+ Nội dung giảng dạy tại trường học còn lạc hậu so với thực tế công việc.
Hầu hết các giáo trình giảng dạy cho sinh viên hiện nay đều là giáo trình cũ của
nhiều năm trước, tuy có sửa đổi, bổ sung xong vẫn chủ là chắp vá chứ ít có bộ
giáo trình hoàn chỉnh theo đúng nội dung của công việc hiện tại. Hoặc nhiều
giáo trình được dịch ra từ sách nước ngoài nên có đôi chỗ không hiểu chính xác

ý của tác giả dẫn đến tình trạng học sinh không hiểu được nội dung của bài. Và
đa số sách này cũng chủ yếu lá sách cũ từ vài năm trước đó chứ cũng chưa có
nhiều sách tham khảo mới nhất từ nước ngoài về hoặc có được thì cũng chỉ là
bản gốc nên nhiều khi do hạn chế về mặt tiếng nước ngoài nên học sinh ngại
không xem.
+ Đôi chỗ còn tồn tại một đội ngũ giảng viên có sức ỳ lớn, ngại đổi mới
phương pháp giảng dạy giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng cải
cách theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội.
6. Kinh nghiệm về đào tạo theo nhu cầu của một số nước và khu
vực trên thế giới
6.1. Khu vực Đông Á
Sự tăng trưởng của khu vực Đông Á trong những thập kỷ qua là kết quả
của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó không thể không kể đến chiến lược phát
triển nguồn nhân lực thông qua GD – ĐT nhằm mục tiêu đưa đất nước thoát
khỏi đói nghèo, trở thành nước công nghiệp sánh vai cùng các nước phát triển
trên thế giới (như Anh, Mỹ, Đức…) là mục tiêu hàng đầu và phải kiên quyết
thực hiện. Cho đến nay, sau những chặng đường dài của sự phát triển thì những
thành tựu phát triển kinh tế của các nước trong khu vực Đông Á có được từ
chính sách phát triển chú trọng phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và
đào tạo của họ vẫn là những bài học quý giá mà chúng ta cần học tập mặc dù
việc thực hiện chính sách này ở nước ta là muộn so với nhu cầu thực tại của đất
nước.

17
Ngay từ thời kỳ đầu bước vào công nghiệp hoá (CNH), các nền kinh tế
Đông Á đã nhận thức một cách sâu sắc rằng con người là vốn quý nhất của xã
hội, là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất. Điều đáng lưu ý là nhận thức
này không chỉ của Chính phủ mà đã trở thành nhận thức chung, thống nhất của
cả chính quyền các cấp lẫn người dân và các tầng lớp với các giới có liên quan.
Ở các nền kinh tế Đông Á, chiến lược phát triển nguồn nhân lực thông

qua GD – ĐT với chiến lược CNH có tính bổ xung và phù hợp khá cao. Hai loại
chính sách này không thể thành công được nếu như chính sách phát triển NNL
thông qua GD – ĐT không được hoạch định nhằm đáp ứng các mục tiêu cụ thể
đặt ra cho mỗi giai đoạn của CNH. Cụ thể là vào thời kỳ chuẩn bị cất cánh công
nghiệp, các nền kinh tế Đông Á (ngay cả Nhật Bản) thường bị lạc vào tụt hậu xa
so với các nền kinh tế Tây Âu và Mỹ. Các nền nước ở Đông Á có nguồn nhân
lực dồi dào và rẻ mạt song lại rất thiếu các nguồn lực để có thể cùng mọt lúc
đáp ứng được rất nhiều nhu cầu cấp bách. Để có thể sớm rút ngắn khoảng cách
đó và đuổi kịp các nước phát triển, các nước Đông Á không có cách nào khác
để tiến hành thành công CNH là phải tiến hành tiếp thu công nghiệp nước
ngoài. Muồn làm được điều này, các nước này cần phải nhanh chóng nâng cao
trình độ dân chúng và tạo ra được một đội ngũ lao động có trình độ đồng đều và
phù hợp để có thể tiếp thu và cải tiến được các công nghệ nhập khẩu. Trong tình
thế đó do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục tiểu học, nên các nền
kinh tế này đã ưu tiên đầu tư cao nhất cho giáo dục tiểu học. Nhiều nền kinh tế
trong khu vực đã giành một nửa kinh phí giáo dục cho giáo dục tiểu học. Nhờ
đó, hầu hết các nền kinh tế này đã sớm thực hiện thành công quá trình phổ cập
giáo dục tiểu học, tạo nền tảng quan trọng cho việc chuyển dịch trôi chảy lao
động giản đơn từ nông nghiệp sang công nghiệp cũng như cho việc xây dựng và
phát triển thành công các ngành công nghiệp xuất khẩu sử dụng nhiều lao động.
Đó thực sự là một chuyển đổi thành công từ sự gia tăng trình độ giáo dục sang
sự gia tăng năng xuất lao động xã hội và sự gia tăng mức độ CNH của nền kinh
tế.

18
Vào thời kỳ chuyển dịch cơ cầu công nghiệp từ các hoạt động giá trị gia
tăng thấp lên các hoạt động có giá trị gia tăng cao, nhu cầu nhân lực lúc này
không chỉ là lao động giản đơn tốt nghiệp tiểu học như giai đoạn trước nữa mà
đòi hỏi lao động phải có trình độ cao hơn. Do đó ngay sau khi đạt được phổ cập
giáo dục tiểu học, các nền kinh tế Đông Á đã chuyển sang mở rộng giáo dục

trung học, ban hành chính sách phổ cập giáo dục trung học và ưu tiên đầu tư
cho cấp học này. Nhật Bản và các nước công nghiệp đã rất thành công trong
việc thực hiện chính sách mới này là do họ đã có chính sách mở rộng và ưu tiên
đầu tư thích hợp khiến quy mô mở rộng giáo dục trung học đủ lớn; đồng thời
chính sách CNH thích hợp được đưa ra sau khi các nền kinh tế này thực hiện
thành công phổ cập giáo dục tiểu học, đã thu hút được hầu hết lực lực lượng lao
động vào quá trình sản xuất, do vậy đã giúp nền kinh tế nhanh chóng chuyển
sang hoạt động công nghiệp có giá trị giá tăng cao. Trong những năm 1970,
giáo dục trung học trong các nền kinh tế này đã nhận được phần đầu tư đáng kể
trong các khoản đầu tư cho 3 cấp giáo dục : tiểu học, trung học, đại học. Đồng
thời chính sách mở rộng giáo dục trung học đã nhấn mạnh không chỉ khía cạnh
văn hoá của giáo dục trung học mà còn cả khía cạnh giáo dục nghề nghiệp cấp
trung học.
Từ những năm 1980, do toàn cầu hoá kinh tế ngày càng trở thành một xu
thế nổi trội và do sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, nên khối lượng kiến thức
được sản sinh ra ngày càng nhiều và đổi mới ngày càng nhanh, đồng thời tính
cạnh tranh giữa các nền kinh tế và các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt. Thực
tế này đòi hỏi các nền kinh tế phải chuẩn bị được nguồn nhân lực chất lượng
cao không chỉ nắm vững các kiến thức cơ bản mà còn phải cập nhập thường
xuyên các thành tựu khao học và có đầu óc sáng tạo, linh hoạt, dám nghĩ dám
làm, năng động, chấp nhận mạo hiểm. Trước những yêu cầu đòi hỏi đó các nền
kinh tế Đông Á đã tập trung nguồn lực tiến hành cải cách mạnh mẽ hệ thồng
giáo dục và đào tạo cả về cơ cấu, nội dung giảng dạy, tạo điều kiện tốt nhất cho
mọi người tham gia học tập và đổi mới kiến thức suốt đời.

19
Bên cạnh vấn đề giáo dục phổ thông, thì các nước trong khu vực Đông Á
còn quan tâm đến giáo dục nghề ban đầu, Các nước này cho rằng lực lượng lao
động có tay nghề là cầu nối giữa các nhà khoa học và sản xuất, là lực lượng chủ
chốt cho sản xuất. Các nước này thường kết hợp giáo dục nghề nghiẹp ban đầu

ở các cấp trung học, lẫn sau trung học. Trong các phương thức đào tạo nghề ở
các nước Đông Á thì phương thức nổi trội nhất là đào tạo nghề ngay tại nơi làm
việc (phát triển nhất ở Đài Loan, Nhật bản, Hàn Quốc). Phương thức đào tạo
này đảm bảo được nguyên tắc gắn học với hành và hầu như không có sự bất cập
giữa cung và cầu lao động được đào tạo vì các công ty thực hiện đào tạo chủ
yếu cho và từ nhu cầu của chính mình.
Gần đây, Nhật Bản đã đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm đào tạo ra
những con người năng động, sáng tạo hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học
và công nghệ của đất nước trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Những hướng
cải cách chủ yếu là loại bỏ dần tính thống nhất và bình đẳng thái quá trong giáo
dục; giảm thiểu kiến thức, nhất là phần lý thuyết suông trong các trường phổ
thông và tăng thêm phần thực hành; chuyển cách dạy và học từ chỗ nặng về
"thày dạy, trò ghi nhớ một cách máy móc" sang chỗ "thày chủ yếu khơi gợi vấn
đề, trò chủ động tham gia thảo luận"; giảm dần sự can thiệp quá mức của Nhà
nước, đề cao tính chủ động và tự quản của các địa phương, các nhà trường trong
các vấn đề giáo dục; và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, linh hoạt hoá các
chương trình giảng dạy để tạo cho mọi người có thể chủ động tham gia vào quá
trình học tập bất cứ lúc nào trong đời.
Để khắc phục sự chậm trễ của mình trong công nghệ thông tin và cũng để
nhanh chóng phổ cập tin học đến mọi người dân, tháng 12 năm 1999 Chính phủ
Nhật Bản đã đưa ra Dự án thiên niên kỷ "Millennium Project" trong đó có mục
"Digitalization of Education" (số hoá giáo dục) nhằm phổ cập máy tính và
Internet tại tất cả các cấp học phổ thông, kể cả các trường dành cho người
khuyết tật vào năm tài chính 2001, và chuẩn bị môi trường và điều kiện để có

20
thể sử dụng được máy tính vào việc dạy và học ở tất cả các trường công lập vào
năm 2005.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang xúc tiến mở các khoá tiếng
Anh trên khắp cả nước và tăng cường mời các thầy giáo tiếng Anh bản xứ vào

dạy học tại các trường Nhật Bản ngay từ tiểu học, phấn đấu tạo cho mọi công
dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của
mình khi đến tuổi trưởng thành trong tương lai không xa. Về lâu dài, tiếng Anh
sẽ dần được coi là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật.
Cùng với việc cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, Nhật Bản cũng tiến
hành đổi mới hệ thống quản lý xí nghiệp theo hướng chuyển từ chế độ coi trọng
thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên
sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và
sáng tạo của công nhân, khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao
trình độ hơn là ỷ lại vào thâm niên phục vụ công ty và kinh nghiệm "sống lâu
lên lão làng".
Trong khi đó ở các nước ASEAN, việc mở rộng hệ thống giáo dục trung
học lại không theo sát quá trình CNH đã gây ra một vài rối loạn trên thị trường
lao động. Philippin mở rộng giáo dục vượt quá nhu cầu của CNH, hay không đi
kèm với sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã gây ra tình trạng thất nghiệp có học
lớn. Do đó trên thực tế Philippin đã phải chọn giải pháp xuất khẩu lao động để
giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa. Ngược lại, ở một cực khác các
nước như Thái Lan, Indonexia, Malayxia giáo dục trung học lại không đáp ứng
được nhu cầu về lao động có kỹ năng ngày càng cao của nền kinh tế.
Như vậy, điểm mấu chốt khiến cho chính sách mở rộng giáo dục trung
học của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới hiệu quả hơn các nước ASEAN
là họ đã kịp thời nhận thấy được nhu cầu về lao động có kỹ năng cao ngày càng
tăng cho phát triển và nhanh chóng có những đổi mới trong quá trình đào tạo để
tạo ra những con người đáp ứng các nhu cầu đó. Hay nói một cách chính xác là

21
vấn đề đào tạo theo nhu cầu ở Đông Á đã được nhận thức một cách sâu sắc ý
nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với phát triển kinh tế.
6.2. Châu Âu
Ở châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với ngành giáo

dục để tạo thuận lợi cho các sinh viên từ nhà trường đến làm việc ở các doanh
nghiệp. Để phổ cập Internet trong dân chúng, Hội nghị thượng đỉnh EU tại
Lisbon, Bồ Đào Nha (23/3/2000) nhất trí quyết định tăng cường đầu tư đào tạo
nhân tài, thúc đẩy cải cách kinh tế xã hội, để EU thích ứng hơn nữa với "xã hội
tin học dựa trên cơ sở tri thức và đổi mới". Các nước này đã đặt mục tiêu, trong
vòng 10 năm tới, đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu
"khu vực kinh tế có sức sống mạnh nhất, có sức cạnh tranh nhất thế giới", với
một số biện pháp cụ thể như hoàn tất khung pháp lý cho thương mại điện tử, tất
cả các trường học đều có thể truy cập Internet; năm 2002, kết nối mạng với tốc
độ cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
6.3.Trung Quốc
Còn ở Trung Quốc thì trong nhiều năm qua, Đảng và chính phủ Trung
Quốc đã coi việc hỗ trợ, thu hút và sử dụng nhân tài là một nhiệm vụ chiến lược
quốc gia, trong đó giáo dục được coi là khâu quan trọng nhất. Trung Quốc đã
tiến hành cải cách và đổi mới mạnh mẽ quá trình phát triển giáo dục và hướng
giáo dục theo nhu cầu của hiện đại hoá, của thế giới và của tương lai, có nhiều
biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, khuyến khích tinh thần sáng tạo và
khả năng thực tiễn. Ngoài việc cải cách và phát triển giáo dục phổ thông, Trung
Quốc còn đặc biệt chú ý đến việc phát triển giáo dục đại học và coi đó là một
biện pháp quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao. Cụ thể,
Trung Quốc đã đưa ra Dự án 21 nhằm nâng cấp 100 trường đại học của mình
trong một số lĩnh vực trọng điểm như cơ khí, phát triển nông thôn và công nghệ
thông tin lên ngang tầm thế giới. Đồng thời, ngoài việc nâng cao chất lượng đào

22
tạo trong nước, Trung Quốc còn có chính sách khuyến khích thanh niên đi du
học và nghiên cứu ở nước ngoài để sau đó trở về xây dựng đất nước.
Như vậy các nước Đông Á, Châu Âu và Trung Quốc ngay từ những ngày
đầu tiến hành CNH nền kinh tế đều đã coi con người là nhân tố quan trọng và
cần được đào tạo không chỉ về số lượng mà cả chất lượng theo nhu cầu thị

trường. Tuy cách thức đào tạo của mỗi nước là khác nhau như các nước Đông Á
gắn đào tạo theo sát nhu cầu của thị trường trong từng giai đoạn phát triển, các
nước Châu Âu tạo mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nhà trường,
Trung Quốc tiến hành cải cách mạnh mẽ giáo dục theo nhu cầu của hiện đại
hoá, của thế giới và của tương lai song tựu chung lại các nước đều gắn đào tạo
theo nhu cầu xã hội. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến
cho nền kinh tế của các nước này phát triển vượt bậc.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện đào tào theo
nhu cầu xã hội ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên không phải mọi bài học
đó đều có thể áp dụng vào Việt Nam một cách thành công. Vì vậy trong quá
trình học hỏi chúng ta phải xác định rõ những bài học nào phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của đất nước ta để vận dụng một cách tốt nhất, tránh tình trạng sao
chép một cách máy móc.

23
Chương II
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
I: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM HỢP TÁC CHUYÊN
GIA VÀ KỸ THUẬT VỚI NƯỚC NGOÀI
1.Quá trình hình thành
Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài được thành lập
vào ngày 28 tháng 2 năm 1989 theo quyết định số 212 của Bộ trưởng Bộ Đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo),
trước đó là Cục chuyên gia thuộc Chính phủ. Trong quyết định này có nêu rõ
Trung tâm trực thuộc Bộ Đại học, THCN và DN, Trung tâm hoạt động theo chế
độ hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được mở tài
khoản tại Ngân hàng. Mọi hoạt động của trung tâm phải đảm bảo theo đúng
pháp luật của Nhà nước và các quy định của Bộ.
Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài – Bộ GD-ĐT là

đơn vị trực tiếp quản lý chuyên gia giáo dục làm việc ở nước ngoài. Trung tâm
hiện đang thực hiện tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ và đưa chuyên gia đi làm
việc tại các nước như Angola, Algierie, Công Gô, Madagascar, Môdămbique,
Nhật bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nga, Lào, Campuchia, Malaysia và một số nước
khác trên thế giới.
2. Chức năng, nhiệm vụ vủa trung tâm
2.1. Chức năng
Trung tâm hợp tác chuyên gia và kỹ thuật với nước ngoài là tổ chức kinh
tế trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, có chức năng làm dịch vụ đưa chuyên gia
và người lao động (bao gồm: chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và các
dạng lao động khác) đi làm việc ở nước ngoài theo quy định, chế độ chính sách
của Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

24
2.2. Nhiệm vụ
+ 02 nhiệm vụ nêu trong quyết định số 2447/QĐ ngày 19/9/1991:
- Tiến hành tổ chức đưa người Việt Nam đi học tập, thực hành nâng cao
trình độ theo nguyện vọng cá nhân và khả năng tiếp nhận của các cơ sở ngoài
nước, trên cơ sở chủ trương của Bộ và quy định của Nhà nước;
- Làm môi giới, giới thiệu, lo thủ tục ở trong và ngoài nước cho các đối
tượng trên.
+ 08 nhiệm vụ trong Quyết định số 1556/TCCB ngày 3/8/1992:
- Lập kế hoạch hợp tác chuyên gia và lao động kỹ thuật khác;
- Khảo sát tiếp cận thị trường lao động, ký kết các hợp đồng về: Hợp tác
chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và lao động có nghề;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay
nghề, trình độ ngoại ngữ để chuẩn bị đội ngũ chuyên gia giỏi, lao động có kỹ
thuật cao, biết ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động hoặc bên sử dụng
lao động;
- Tổ chức tuyển chọn chuyên gia giáo dục, chuyên gia kỹ thuật và người

lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài thông qua hợp đồng với các đơn vị,
tổ chức hoặc cá nhân người lao động;
- Đề xuất với Bộ và thực hiện các chế độ có liên quan, các quy định về
nghĩa vụ và quyền lợi cho các đơn vị, cá nhân theo hợp lao động đã ký kết;
- Phối hợp làm các thủ tục du học tự túc;
- Liên doanh, liên kết với các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước về
các mặt hoạt động theo chức năng nhiệm vụ đã được quy định;
- Thực hiện các chế độ tài chính có liên quan, sử dụng ngoại tệ theo quy
định của nhà nước và của Bộ

25

×