Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tài liệu môn Tài Chính Quản Trị Quản lý dòng vốn vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.66 KB, 13 trang )

Hội nhập và phát triển đang trở thành xu thế chung và tất yếu đối với tất cả các quốc
gia. Và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Việt Nam hiện vẫn là một nước đang phát triển,
muốn hội nhập, muốn phát triển cần phải có lượng vốn đầu tư rất lớn. Sử dụng vốn vay
nước ngoài hợp lý sẽ đem lại những hiệu quả hết sức to lớn, tạo tiền đề để thế hệ sau bứt
phá, đưa đất nước đi lên nhanh chóng. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu rõ về xu hướng dòng
vốn vào và thực trạng sử dụng hiệu quả vốn như thế nào ở Việt Nam để đề ra chính sách sử
dụng hợp lý.
CÁC KHÁI NIỆM
Dòng vốn nước ngoài (hay dòng lưu chuyển vốn) chính là dòng lưu chuyển vốn do hoạt
động mua bán các tài sản tài chính, đầu tư, vay mượn giữa nước này sang nước khác hay từ
những người cư trú sang những người không cư trú và ngược lại. Sự lưu chuyển này được
ghi nhận trong cán cân tài khoản vốn và tài chính trong cán cân thanh toán quốc tế.
Vốn có thể chảy vào một quốc gia dưới nhiểu hình thức khác nhau và có xu hướng tạo ra
những ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế.
Vốn đầu tư trực tiếp FDI: là nguồn vốn của khu vực tư nhân nước ngoài đầu tư vào một
nước khác nhằm thu được lợi ích lâu dài hoặc giành quyền kiểm soát các doanh nghiệp ở
các nước nhận đầu tư. FDI thường đầu tư cho phát triển sản xuất kèm theo nó là công nghệ,
kỹ thuật, kinh nghiệm…
Vốn viện trợ phát triển chính thức ODA: là nguồn vốn viện trợ không hoàn lại hoặc cho
vay với điều kiện ưu đãi của các cơ quan chính thức nước ngoài và các tổ chức tài chính
quốc tế chuyển giao cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh
tế và tăng cường phúc lợi.
Vốn đầu tư gián tiếp FPI: là hình thức đầu tư nước ngoài rót vốn vào một quốc gia thông
qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, thông qua quỹ đầu tư
chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư
Tác động tích cực của dòng vốn nước ngoài: Trực tiếp làm tăng vốn đầu tư của xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế; Tạo cơ hội bù đắp thiếu hụt tiết kiệm và đầu tư hay tài trợ thâm hụt
cán cân tài khoản vãng lai; Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng,
hoàn thiện thể chế và cơ chế thị trường nói chung; Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và
thu nhập của đông đảo người dân; Dòng vốn vào đặc biệt là vốn FDI tạo cơ hội cho việc


tiếp nhận công nghệ kỹ thuật và kỹ năng quản lý; Góp phần nâng cao tính thanh khoản, tạo
cơ chế truyền dẫn chính sách hiệu quả hơn, nâng cao khả năng điều tiết của NHTW; Tăng
khả năng cạnh tranh
Tác động tiêu cực: Gây sức ép tăng giá nội tệ; Gia tăng tổng phương tiện thanh toán; Tăng
áp lực lạm phát, tăng mức đô la hóa, nợ nước ngoài; Gây khó khăn cho việc điều hành chính
sách tiền tệ; Dẫn đến khủng hoảng kinh tế nếu rủi ro rút vốn đột ngột cao; Gây bất ổn cho
thị trường tiền tệ và ngoại hối.
XU HƯỚNG DÒNG VỐN QUỐC TẾ
1. Xu hướng FDI
Dữ liệu từ báo cáo mới nhất của Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD) cho thấy dòng vốn FDI trong năm 2013 đã chạm mức tương đương với mức
trung bình của thời trước khủng hoảng, cụ thể, tăng 11%.
Dòng vốn FDI- bao gồm các dự án đầu tư mới, cũng như các dự án sát nhập và mua lại
và đầu tư chứng khoán ước tính đạt 1.460 tỷ USD trong năm 2013. Ngưỡng này xấp xỉ với
mức vốn FDI trung bình từ năm 2005 đến 2007, tức là khoảng 1.494 tỷ USD (UNCTAD,
2013)
Sự phục hồi của FDI toàn cầu chủ yếu là nhờ vai trò ngày càng tăng của các nước
đang phát triển trong việc thu hút FDI. Chỉ riêng trong năm vừa qua, 759 tỷ USD đã được
đầu tư vào các nền kinh tế đang nổi, đánh dấu mức đầu tư cao nhất từ trước đến nay và
chiếm 52% tổng vốn FDI toàn cầu.
Châu Á hiện vẫn đang là khu vực thu hút vốn FDI lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên
dòng vốn giữa các nước trong khu vực bị chững lại trong năm 2013. Trong khi đó, đầu tư ở
châu Phi, châu Mỹ Latin, và khu vực Ca-ri-bê lại có sự gia tăng. Vốn FDI vào các nền kinh
tế chuyển đổi như khu vực Đông Nam Châu Âu và Cộng đồng các quốc gia độc lập, cũng
tăng lên đáng kể, chạm mốc kỷ lục với ước tính khoảng 126 tỷ USD.
Đầu tư vào các nền kinh tế phát triển tăng 12%, tuy nhiên 579 tỷ USD được đầu tư vào
khu vực này chỉ chiểm 44% so với mức đạt được trong năm 2007, thời điểm mà vốn đầu tư
vào các nền kinh tế phát triển đạt mức cao nhất. Tỷ lệ vốn FDI vào các nước phát triển chỉ
chiểm 39% vốn FDI toàn cầu- thấp nhất trong lịch sử (UNCTAD, 2013).
Dòng vốn FDI được dự báo sẽ tăng dần trong năm 2014 và 2015, đạt lần lượt 1.600 tỷ

USD và 1.800 tỷ USD cho từng năm.
2. Xu hướng ODA
2.1. Trong tổng cơ cấu tổng ODA của thế giới, tỷ trọng ODA song phương có xu hướng tăng
lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi.
Xu hướng này hình thành dưới tác động chủ yếu của 2 nhân tố sau:
- Quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã tạo điều kiện cho quan
hệ ODA trực tiếp giữa các quốc gia.
- Hiệu quả hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà
tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Trong tổng số ODA của thế giới thì tỷ trọng
viện trợ song phương đã tăng rất đáng kể trong khi đó tỷ trọng viện trợ đa phương giảm đi.
2.2. Mức độ cạnh tranh thu hút ODA đang tăng lên giữa các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển cần một lượng vốn đầu tư rất lớn để đáp ứng nhu cầu đầu tư,
tập trung cho cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn ODA được đánh giá là chiếm khoảng 40% tổng vốn
đầu tư của toàn xã hội cho cơ sở hạ tầng. Đây là lĩnh vực có nhu cầu đầu tư lớn, song khả
năng sinh lời thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư FDI. Với mục đích là tìm kiếm lợi
nhuận, các nhà đầu tư FDI sẽ quan tâm đến những nước có môi trường đầu tư thuận lợi
nhằm giảm chi phí. Vì vậy, cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu kém, môi trường chính sách không
thông thoáng, không ổn định sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư.
Một quốc gia ĐPT nhận được nhiều và sử dụng có hiệu quả vốn ODA đồng nghĩa với
việc xây dựng được môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ tạo điều kiện cho các nguồn vốn khác
như vốn FDI và vốn đầu tư trong nước phát huy hiệu quả.
Do đó, các nước đang phát triển đang ngày một cạnh tranh nhau, trong việc thu hút
vốn ODA.
3. Vốn FPI/FII
Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn vốn FII
vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FII vào Việt Nam có xu hướng
tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động
tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ nhỏ
hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá
thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FII/FDI trong khoảng 30-40%).

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, đầu tư FII vào Việt Nam trong thời gian gần đây
cũng đã tăng rất mạnh. Biểu hiện rõ nhất là việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các
tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006,
khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính
thức.
Theo các nhà đầu tư, lý do để họ hướng về Việt Nam là Chính phủ đã khẳng định vai
trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế, tính chuyên nghiệp
hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự thành công của những nhà đầu tư hiện hữu. Bên
cạnh đó, phải kể đến những bước tiến mới trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm:
việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); quá trình cổ phần hoá đang diễn
ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh; tăng cường đầu tư cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách khung pháp lý dành cho các nhà đầu
tư nước ngoài.
Tuy nhiên, để có thể thu hút thêm nguồn vốn FII tương xứng với tiềm năng của nền
kinh tế và thị trường, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cải thiện môi trường đầu
tư, đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách lược phát triển thị trường chứng khoán
PHÂN TÍCH LỢI ÍCH
1. Vốn FDI
1.1. Những thành tựu:
FDI đã có những đóng góp quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp
phần đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng GDP. Vốn FDI là nguồn bổ
sung quan trọng cho đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Tỷ trọng vốn
FDI trong tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh qua các thời kỳ: từ 24,32% giai đoạn 1991 -
2000 lên 22,75% giai đoạn 2001 - 2011 và 23,3% năm 2012.
Vốn FDI còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất
công nghiệp. Năm 2011, công nghiệp - dịch vụ chiếm 78% tỷ trọng kinh tế. Khu vực FDI
tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp và có tốc độ tăng khá cao, giai đoạn 2001 -
2010 tăng 17,4%/năm trong khi toàn ngành công nghiệp tăng 16,3%/năm.
Trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực FDI chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu

thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở
thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh,
từ 57,8 tỷ USD giai đoạn 2001 - 2005, lên 154,9 tỷ USD giai đoạn 2006 - 2010 (tăng 2,67
lần, tương đương với 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, kể cả dầu thô) và chiếm
khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012.
Với sự phát triển năng động, khu vực FDI đã có những đóng góp vào tăng trưởng GDP
chung của cả nước, với tỷ lệ tăng dần theo thời gian, từ 2% GDP (1992), lên 12,7% GDP
(2000), 16,98% GDP (2006) và 18,97% GDP (2011).
Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế, như
khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia
súc; cũng như góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng,
Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho
thuê Lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã du nhập
phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng
cao của các tầng lớp dân cư.
FDI cũng dần trở thành kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần nâng
cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Từ năm 1993 đến nay, cả nước có 951 hợp đồng
chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh
nghiệp FDI, chiếm 63,6%. Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực FDI đã
góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công
nghệ trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế biến, chế
tạo đạt hiệu quả cao nhất.
Một thành tựu khác, tính đến cuối năm 2011, khu vực FDI tạo ra hơn 2,3 triệu
việc làm trực tiếp và hàng triệu việc làm gián tiếp, trong đó có hàng vạn kỹ sư, nhà quản
lý trình độ cao, đội ngũ công nhân lành nghề, với thu nhập ngày càng tăng, du nhập phương
thức lao động, kinh doanh và quản lý tiên tiến.
Những hạn chế trong thu hút và tổ chức hoạt động của FDI ở Việt Nam.
1. Về chuyển giao công nghệ và chia sẻ kinh nghiệm quản lý
1.1. Phần lớn máy móc, thiết bị được đưa vào Việt Nam là lạc hậu, đã qua sử
dụng, tiêu hao nhiều năng lượng.

Một là, các nhà ĐTNN bao giờ cũng đặt mục tiêu lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn
nhanh lên hàng đầu, nên nhiều doanh nghiệp chuyển những thiết bị mà họ thấy phù hợp với
trình độ và phát huy được hiệu quả ở VN mặt khác đôi khi các nhà ĐTNN cũng không
muốn chuyển giao hết công nghệ cho nước khác.
Hai là, mặt bằng công nghệ và trình độ của lao động trên VN chưa tương xứng để có
thể tiếp cận công nghệ mới.
Ba là, các doanh nghiệp FDI đầu tư tại VN có tới 87,37% là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, đây là một hình thức khép kín và hầu như không có sự chuyển giao công nghệ
ra bên ngoài.
1.2. Nhiều doanh nghiệp FDI chủ yếu là gia công, lắp ráp nên tạo ra giá trị gia
tăng thấp trong khi đó lại là những ngành dễ bị tổn thương trước những biến động của
nền kinh tế thế giới.
Các dự án FDI ở Viê‚ Nam phần lớn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tuy nhiên chủ
yếu là gia công, lắp ráp xe máy, ôtô, các linh kiện điện tử, hàng may mặc, giày da… Đây
chủ yếu là những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp do các doanh nghiệp FDI nhập nguyên
vật liệu từ nước ngoài và chủ yếu là gia công, lắp ráp ở Việt Nam, góp rất ít giá trị vào sản
phẩm cuối cùng trước khi xuất khẩu ra nước khác.
1.3. Nhiều doanh nghiệp FDI chưa tuân thủ đúng luật bảo vệ môi trường.
Nhiều doanh nghiệp FDI đã không chấp hành nghiêm túc Luật bảo vệ môi trường
như: không tổ chức lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, không cam kết hoặc không
thực hiện đúng cam kết về bảo vệ môi trường, không đầu tư hệ thống xử lý chất thải hoặc có
đầu tư nhưng xử lý không có hiệu quả, vi phạm các tiêu chuẩn môi trường làm ảnh hưởng
đến đời sống nhân dân.
2. Vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam.
Chuyển giá là những giao dịch về giá ẩn bên trong các TNCs hay nói cách khác là giao
dịch giữa các công ty mẹ và các chi nhánh công ty con. Toàn bộ quá trình từ đưa máy móc
vào - cung ứng nguyên liệu - tổ chức sản xuất, gia công đến thu xếp đầu ra đều được khép
kín, phía nước nhận đầu tư hầu như không kiểm soát được. Doanh nghiệp FDI thực hiện thủ
pháp nâng giá vật tư, máy móc để nâng giá trị dự án và tăng tỷ lệ góp vốn trong liên doanh,
khai khống giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tạo giá thành ảo, tạo ra tình trạng “lỗ giả, lãi

thật’’ và sử dụng nó như một biện pháp để tránh đánh thuế chuyển lợi nhuận, thuế nhập
khẩu và kiểm soát tỷ giá. Hiện tượng chuyển giá hầu như đều xảy ra đối với các công ty đa
quốc gia. Tại Việt Nam, hiện tượng chuyển giá đã xuất hiện và ngày càng phổ biến tại các
doanh nghiệp FDI.
3. Mâu thuẫn giữa chủ doanh nghiệp với người lao động
Thời gian qua, xu hướng phản ứng của tập thể lao động ngày càng tăng cả về số vụ và
quy mô. Từ năm 1994 đến nay có nhiều vụ thu hút cả tập thể lao động của doanh nghiệp
cùng tham gia. Số người tham gia từ vài chục đã lên đến hàng nghìn người. Cần phải xác
định rằng mâu thuẫn chính trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay là mâu
thuẫn giữa hai đối tượng làm thuê là người lao động Việt Nam và cán bộ quản lý người
nước ngoài. Mục tiêu của các vụ phản ứng chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền lương, tiền
thưởng. Một số ít vụ phản ứng xảy ra do nguyên nhân người lao động bị đối xử thô bạo, bị
xúc phạm nhân phẩm, danh dự,
4. Doanh nghiệp FDI bỏ trốn, xù nợ
Chạy theo thành tích thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng mọi giá; ngân hàng
dễ dãi cho các ông chủ ngoại vay tiền bằng tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay Những
nguyên nhân đó, đang khiến nhiều ngân hàng, nhiều tỉnh ăn quả đắng, do nhiều ông chủ đến
từ Đài Loan và Hàn Quốc phá sản, trốn về nước bỏ lại đống nợ hàng chục triệu USD.
5. Thành lập quá nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế gây tình trạng lãng phí đất
đai.
Nhìn chung, chính sách của các địa phương hiện nay quá chú trọng ưu đãi về miễn
giảm thuế cho nhà đầu tư (miễn, giảm tiền thuê đất, thuế thu nhập doanh nghiệp), như áp
dụng như nhau đối với các nhà đầu tư là không hợp lý. Có tính lạm dụng ưu đãi để thu hút
đầu tư bằng mọi giá, thậm chí cả vay tiền nhà đầu tư để chi trả đền bù, giải phóng mặt bằng
mà không cần biết dự án đi vào hoạt động thì thu ngân sách địa phương có đảm bảo hoàn lại
được không? Các doanh nghiệp nhỏ thì coi trọng ưu đãi thuế, nhưng các doanh nghiệp lớn
lại quan tâm nhiều hơn đến môi trường pháp lý minh bạch, ổn định ít rủi ro, hạ tầng cơ sở
ổn định, nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi đây là những “nút thắt cổ chai” nhiều
năm ta chưa cải thiện được.
6. Thu hút FDI trong thời gian qua đã có kết quả nhưng chưa tương xứng với tiềm

năng, yêu cầu của chiến lược phát triển KT-XH, cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành
và địa bàn còn biểu hiện sự mất cân đối.
Cơ cấu phân bố và sử dụng vốn theo ngành và theo vùng chưa đáp ứng được đúng yêu
cầu, định hướng trong chiến lược phát triển KT-XH. Các dự án FDI đầu tư chủ yếu vào lĩnh
vực công nghiệp, ít đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp. Do việc lựa chọn ngành
nghề, địa bàn đầu tư có nhiều ưu thế, khả năng chi phí thấp, thu lợi cao, ít rủi ro… là các
tiêu chí mà các nhà đầu tư nước ngoài đều quan tâm. Vì vậy, lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, thời
gian thu hồi vốn dài như ngành nông nghiệp đã không hấp dẫn các nhà ĐTNN, ngành dịch
vụ có tiềm năng nhưng cũng chưa có nhiều dự án FDI đầu tư.
2. Vốn ODA
2.1. Tích cực
Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Các chương trình và dự án ODA
đã góp phần cải thiện và phát triển sản xuất nông nghiệp, thay đổi bộ mặt nông thôn Việt
Nam, như: các chương trình phát triển thủy lợi, giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn… Các dự án hỗ trợ phát triển hạ tầng
nông thôn đã góp phần cải thiện đời sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo
dục , góp phần quan trọng vào công tác xoá đói giảm nghèo tại các vùng nông thôn. Bên
cạnh đó, các chương trình, dự án ODA cũng đã hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học, công
nghệ nông nghiệp giúp nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp, tăng sức cạnh
tranh của sản phẩm.
- Về năng lượng: Nhờ có ODA, Việt Nam đã xây dựng hàng loạt các dự án nguồn thuỷ
điện, nhiệt điện và năng lượng tái tạo, lưới điện và trạm phân phối góp phần nâng cao
năng lực sản xuất, truyền tải, phân phối, quản lý hệ thống điện, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng
phụ tải cao với tốc độ 15%-17%/năm.
- Về giao thông vận tải: Đây là ngành tiếp nhận vốn ODA nhiều nhất. Trong thời kỳ
1990-2013, ngành Giao thông Vận tải đã hoàn thành và đang thực hiện 132 dự án với tổng
vốn ODA hơn 17 tỷ USD, trong đó đã hoàn thành 83 dự án với vốn ODA đạt 5 tỷ USD và
đang thực hiện 49 dự án với số vốn ODA khoảng 12 tỷ USD. Các chương trình, dự án ODA
trong lĩnh vực này đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống giao thông quốc gia

cũng như giao thông vùng và tại các tỉnh, thành.
Trong giáo dục và đào tạo: Tất cả các cấp học đều nhận được sự hỗ trợ thông qua các
chương trình và dự án ODA, giúp tăng cường năng lực dạy và học, hỗ trợ trẻ em bị thiệt
thòi được đến trường, đẩy mạnh giáo dục cho tất cả mọi người. Bên cạnh đó, còn phải kể
đến các dự án hỗ trợ kỹ thuật, chủ yếu bằng viện trợ không hoàn lại, đã đào tạo và đào tạo
lại cho hàng vạn cán bộ Việt Nam ở các cấp về nhiều lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, quản lý kinh tế, tài chính ngân hàng, quản trị công Các chương trình và dự án ODA
đưa tới Việt Nam những chuyên gia quốc tế từ khu vực và thế giới, thông qua đó, cán bộ
Việt Nam đã học hỏi được không những về chuyên môn mà còn phong cách làm việc
chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao.
- Về y tế: các chương trình, dự án ODA đã tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho
công tác khám và chữa bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, xây dựng cơ sở sản xuất
kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia Ngoài ra, nhiều chương trình mục tiêu quốc
gia về y tế, phòng chống HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm được thực hiện bằng vốn
ODA đã đem lại hiệu quả tích cực. Sự hỗ trợ của ODA đối với ngành y tế trong thời gian
qua đã góp phần vào những tiến bộ đạt được trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ (MDG) liên quan tới y tế.
- Trong phát triển đô thị và bảo vệ môi trường: Từ nguồn vốn ODA, hầu hết các thành
phố, thị xã, thị trấn đã được xây dựng mới, cải tạo hoặc mở rộng hệ thống cung cấp nước
sinh hoạt, thoát nước và một số nhà máy xử lý nước thải. Nhiều thành phố ở Việt Nam đã
được cải thiện về môi trường bằng các dự án vốn ODA, điển hình thành công là dự án kênh
Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở thành phố Hồ Chí Minh, với sự hỗ trợ vốn vay của Ngân hàng Thế
giới (WB), dòng kênh tưởng như đã chết này lại hồi sinh, trở thành con kênh xanh, sạch,
đẹp.
- Trong lĩnh vực khoa học, công nghệ: Nhiều kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến
được chuyển giao cho các cơ quan, các trung tâm nghiên cứu, cũng như các bộ, ngành và
địa phương với sự hỗ trợ của các chương trình, dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ xây
dựng Dự án phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu
Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một thí dụ điển hình.

- Về xây dựng thể chế: Thông qua việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, Việt Nam đã học
hỏi được những kiến thức, kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện môi trường thể chế, pháp lý
trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế và khu vực, nhất
là quá trình chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhiều dự thảo luật và
văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đã được xây dựng với sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA,
như: Luật Xây dựng, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Doanh
nghiệp…
2.2. Các phí tổn
- Nghĩa vụ trả nợ: Do ODA là một nguồn vốn vay với lãi suất thấp và thời hạn vay dài. Đây
là một ưu điểm của nguồn vốn vay quốc tế, nhưng đi vay sẽ kèm với nghĩa vụ trả nợ và do
thời hạn vay dài nên sẽ dẫn tới gánh nặng nợ cho tương lai. Đây là một rủi ro tiềm ẩn đối
với khả năng thanh toán của một quốc gia, và Việt Nam cũng đang phải đối mặt với rủi ro
này.
- Điều kiện của các chủ đầu tư: Các nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận những điều kiện của
các quốc gia cho vay ODA.
Đó là những điều kiện về mở rộng hàng rào thuế quan, sự phụ thuộc về thương mại
quốc tế. Nguồn vốn ODA còn được gắn với các điểu khoản mậu dịch, đặc biệt là nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Ví dụ như nước cấp ODA buộc nước nhận ODA phải chấp nhận
một phần ODA là hàng hóa, dịch vụ do họ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền
quản lý, sử dụng ODA nhưng thông thường các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thỏa
thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù họ không trực tiếp điều hành nhưng họ có thể tham gia
gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia…
3. Vốn FPI/FII
3.1. Những tác động tích cực:
- Góp phần làm tăng vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phí vốn thông qua đa
dạng hóa rủi ro: nếu vốn FII được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động đầu tư mới thì đây là
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn nội địa mà các nước đang phát triển đang có
nhu cầu mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, FII còn cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội chia sẻ rủi ro của mình với các nhà đầu tư nội địa. FII
khiến cho thị trường vốn nội địa trở nên có tính thanh khoản cao hơn và theo đó là việc đa

dạng hóa rủi ro sẽ trở nên dễ dàng hơn, với kết quả là nguồn vốn sẽ dồi dào hơn và các chi
phí vốn đối với các công ty giảm.
- Thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa: thông qua các kênh khác nhau:
+ TTTC nội địa sẽ hoạt động hiệu quả hơn do có tính thanh khoản cao hơn. Khi thị
trường có tính thanh khoản cao hơn, rộng hơn thì một loạt các dự án đầu tư khác sẽ được tài
trợ. Những công ty mới sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc thu hút được nguồn vốn tài trợ ban
đầu.
+ Thúc đẩy sự phát triển của các thị trường cổ phiếu cũng như quyền biểu quyết của
các cổ đông trong quá trình điều hành công ty. Một khi các công ty cạnh tranh nhau về
nguồn vốn tài trợ, thị trường sẽ ban thưởng cho những công ty có hiệu quả tốt hơn, có triển
vọng tốt hơn về hiệu quả và có trình độ điều hành tốt hơn. Khi tính thanh khoản cũng như
hoạt động của thị trường được cải tiến, cổ phiếu sẽ ngày càng phản ánh giá trị của công ty
và điều đó sẽ thúc đẩy sự phân bổ vốn một cách hiệu quả.
+ Giúp tăng cường tính kỷ luật đối với các thị trường vốn nội địa. Khi thị trường rộng
hơn, các nhà đầu tư sẽ có những cơ hội đầu tư mới đang xuất hiện. Các công ty cạnh tranh
nhau về nguồn tài trợ sẽ buộc các thể chế tài chính nội địa và các công ty nội địa phải áp
dụng những chuẩn mực kế toán quốc tế, thực hiện minh bạch hóa thông tin và cải tiến các
hình thức quản lý… Điều này khiến thị trường tài chính nội địa hoạt động có kỷ luật hơn và
có khả năng cạnh tranh cao hơn do giảm thiểu được những hiệu ứng bất lợi như lựa chọn
nghịch và rủi ro đạo đức.
- Thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính phủ. Tính
bất ổn định của vốn FII sẽ buộc các chính phủ phải thực hiện những chính sách kinh tế vĩ
mô lành mạnh nhằm giảm thâm hụt ngân sách, giảm lạm phát, cũng như các chính sách kinh
tế thân thiện với thị trường nói chung và các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng.
Những tác động tiêu cực:
- Sự gia tăng mạnh mẽ của vốn FII sẽ khiến cho nền kinh tế dễ rơi vào tình trạng quá
nóng (kinh tế bong bóng)
- Sự dịch chuyển quá mức của dòng vốn FII sẽ khiến hệ thống tài chính trong nước dễ
rơi vào khủng hoảng một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài
nền kinh tế.

- Làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá:
ĐÁNH GIÁ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU TIẾT
Nhằm đối phó với sự biến động của các dòng vốn nước ngoài vào, Việt Nam đã và
đang sử dụng các nhóm công cụ thuộc chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách thận trọng và
các công cụ kiểm soát vốn. Việc lựa chọn các công cụ điều tiết phù hợp thực sự là một bài
toán khó cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam.
1. Các chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại hối, chính sách trung
hòa hóa, chính sách tài khóa
• Chính sách tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết
cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu định trước của Nhà nước. Ở Việt Nam, chính
sách tỷ giá gần như trở thành một bộ phận không thể tách rời của chính sách tiền tệ. Do Việt
Nam có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn, dòng vốn nước ngoài gồm cả dòng vốn đầu tư trực
tiếp lẫn gián tiếp đổ vào nền kinh tế rất nhiều, lại thêm tình trạng đô la hóa diễn ra khá mạnh
nên việc duy trì ổn định tỷ giá có ý nghĩa rất lớn trong việc kiềm chế lạm phát, cải thiện cán
cân thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng dự trữ ngoại hối. Giai đoạn 2002 – 2007,
tỷ giá được duy trì ổn định với chỉ 2 lần mở rộng biên độ giao dịch tỷ giá. Sang giai đoạn
2006 – 2010, tỷ giá VND/USD được điều chỉnh biên độ nhiều lần, có thời điểm biên độ tăng
lên ± 5%
1
. TGHĐ danh nghĩa liên tục phá giá VND để giảm bớt áp lực lạm phát và ổn định
kinh tế vĩ mô. Giai đoạn 2012 – 2013, tỷ giá VND/USD được duy trì khá ổn định ở mức ±
1%. Điều này đã góp phần tích cực ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì sức mua đối ngoại của
đồng Việt Nam, trong bối cảnh sức mua đối nội cũng được khôi phục. Tuy nhiên, việc đồng
nội tệ bị định giá cao trong nhiều năm liên tiếp khiến cho việc sử dụng chính sách tỷ giá
nhằm điều tiết những tác động tiêu cực của dòng vốn vào gây ra cho Việt Năm gặp nhiều
khó khăn.
• Dự trữ ngoại hối: Giai đoạn 2000 – 2008 chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng của các dòng
vốn vào, dẫn đến dự trữ ngoại hối tăng cao, khoảng hơn 10 tỷ USD. Bước sang giai đoạn
2009 – 2010, dự trữ ngoại hối suy giảm do sự sụt giảm của tổng các dòng vốn vào. Sang
1 Đánh giá tác động của TGHĐ đến kết quả xuất nhập khẩu hàng dệt may VN, Nguyễn Mạnh Hùng, t/c Nghiên

cứu Kinh tế số 406-tháng 3/2012, tr 42-49
năm 2011, dự trữ tăng hơn 1 tỷ USD. Điều này cho thấy dự trữ ngoại hối được sử dụng như
một công cụ chính trong việc điều tiết và quản lý các dòng vốn vào.
• Các biện pháp trung hòa hóa: Giai đoạn 2007 – 2008, trước dòng vòng vào vốn lớn gây lạm
phát cao (12,6% năm 2007 và 20% năm 2008), NHNN đã sử dụng các chính sách can thiệp
vô hiệu để vô hiệu hóa tác động của dòng vốn vào đến lạm phát thông qua nghiệp vụ thị
trường mở và tăng dự trữ bắt buộc. tuy nhiên, hiệu quả của việc triển khai nghiệp vụ thị
trường mở vẫn chưa cao.
• Chính sách tài khóa: Giai đoạn 2007 – 2008, Việt Nam thực hiện chính sách tài khóa thắt
chặt: tiến hành rà soát việc chi ngân sách, yêu cầu các ngành, địa phương cắt giảm, đình
hoãn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án đầu tư không có hiệu quả; không
tăng chi ngoài dự án, dành nguồn kinh phí cho đảm bảo an sinh xã hội, điều chỉnh giảm mức
thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bình ổn thị trường, hạn chế nhập siêu. Năm 2009, trong bối
cảnh suy thoái toàn cầu lan rộng, chính phủ phải chuyển sang chính sách tài khóa mở rộng
với 2 gói kích cầu: gói kích cầu thứ nhất hỗ trợ lãi suất khoảng 17 nghìn tỷ đồng, gói kích
thích thứ hai là 8 tỷ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát
triển sản xuất. Chính sách tài khóa trong năm 2012 – 2013 vẫn tập trung vào việc tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tiếp tục đẩy mạnh vốn đầu tư xây
dựng hạ tầng cơ bản, khuyến khích thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư, đẩy nhanh tiến độ
giải ngân vốn đối với các dự án đầu tư trọng điểm, có hiệu quả, hoàn thiện hệ thống chính
sách thu ngân sách Nhà nước và hệ thống chính sách chi tiêu - quản lý ngân sách Nhà nước,
duy trì đảm bảo an sinh xã hội.
Thông qua việc phân tích nhóm chính sách kinh tế vĩ mô, có thể thấy việc sử dụng
nhóm chính sách này cho việc giảm thiểu tác động tiêu cực của dòng vốn vào gây ra cho
Việt Nam chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng.
2. Các chính sách thận trọng ở VN: các biện pháp thận trọng liên quan đến ngoại hối, các biện
pháp thận trọng khác.
Các rủi ro do các dòng vốn nước ngoài gây ra cho khu vực tài chính gồm rủi ro đi vay
trực tiếp nước ngoài và rủi ro bùng nổ tín dụng nội địa. Trong đó, rủi ro đi vay trực tiếp
nước ngoài của Việt Nam không cao, còn rủi ro bùng nổ tín dụng nội địa lại lớn.

• Chính vì vậy, Việt Nam đã lựa chọn thực hiện các biện pháp thận trọng liên quan đến ngoại
hối:
Hạn chế ngân hàng vay ngoại hối (thông qua việc quy định trạng thái ngoại tệ của các
tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối): Hiện nay, Chính phủ đang quyết liệt chỉ
đạo NHTW siết chặt cho vay ngoại tệ nhằm thực hiện mục tiêu chống đô la hóa nền kinh tế.
Với một loạt các giải pháp như tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ, đưa ra danh
mục không được phép cho vay ngoại tệ, giảm lãi suất huy động tiền gửi bằng ngoại tệ đối
với doanh nghiệp và cá nhân. Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2017 - 2018, trong hệ thống
ngân hàng thương mại sẽ không còn tiền gửi ngoại tệ và cho vay ngoại tệ.
Đồng thời, do dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm mạnh kể từ sau cuộc khủng hoảng
tài chính năm 2008, chạm mức đáy là 12,58 tỷ USD vào tháng 1/2011. Đến giai đoạn 2012
– 2013, nhờ thực hiện hàng loạt các biện pháp quyết liệt, thị trường ngoại hối đã dần tăng
trở lại, ước đạt khoảng 22 – 23 tỷ USD vào cuối năm 2012
2
. Khoản dự trữ này có thể đảm
bảo thanh toán nghĩa vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ trợ giá trị VND, khả
năng đảm bảo tài chính quốc gia góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước
ngoài, hạn chế sự tác động quá mức của tỷ giá hối đoái lên tiền đồng, đáp ứng nhu cầu của
nền kinh tế.
• Các biện pháp thận trọng khác:
Hạn chế tăng trưởng tín dụng trong nước và tập trung cho vay: Ngân hàng Nhà nước
đã yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng kế hoạch
và duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng thực tế dưới 20%; giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho
vay lĩnh vự phi sản xuất. Các quy định về dự trữ và phân loại tài sản, tiến hành dự phòng rủi
ro cho vay, tỷ lệ cho vay trên tổng giá trị tài sản tối đa đều được NHTM ban hành theo quy
định của NHNN và Luật các tổ chức tính dụng năm 2010.
Nhìn chung, các biện pháp thận trọng ở Việt Nam được đánh giá là khá đầy đủ song
lại chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến tình trạng lạm phát cao và khó khăn về thanh khoản của
các NHTM.
3. Các biện pháp kiểm soát vốn gồm kiểm soát trực tiếp (hành chính) lên tổng số lượng vốn

vào, đánh thuế vào các giao dịch ngoại hối, yêu cầu tỷ lệ dự trữ không được hưởng lãi suất,
các biện pháp kiểm soát khác.
Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình
thức khác nhau, để tác động (hạn chế) lên dòng vốn nước ngoài chảy vào và chảy ra khỏi
một quốc gia nhằm đạt mục tiêu nhất định của chính phủ. Có hai phương pháp kiểm soát
vốn:
Kiểm soát vốn trực tiếp (hành chính) là việc hạn chế những giao dịch vốn, những
khoản thanh toán liên quan đến giao dịch vốn và việc chuyển tiền bằng những quy định
mang tính hành chính. Kiểm soát hành chính tác động đến số lượng những giao dịch tài
chính từ nước này sang nước khác. Thông thường, loại kiểm soát này áp đặt những nghĩa
vụ hành chính lên hệ thống ngân hàng để kiểm tra dòng vốn.
Kiểm soát vốn gián tiếp là việc hạn chế những biến động của dòng vốn và các giao
dịch khác thông qua các biện pháp thị trường như hệ thống đa tỷ giá, đánh thuế ngầm và
biện pháp chủ yếu là đánh thuế vào các dòng vốn ngắn hạn và khuyến khích các dòng vốn
dài hạn.
• Kiểm soát trực tiếp lên tổng lượng vốn vào: Việt Nam không hạn chế tiền gửi ở ngân hàng
của những người không cư trú, không hạn chế các hoạt động tăng quỹ ở nước ngoài và các
giao dịch ngoại hối vãng lai, cho phép doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài, đưa ra hạn
mức cho người không cư trú mua chứng khoán nội địa.
• Quản lý hành chính đối với các dòng vốn: nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu
tư FDI bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép, người cư trú Việt Nam nếu muốn đầu
2 PGS.,TS. Lê Thị Tuấn Nghĩa và TS. Phạm Thị Hoàng Anh, “Quy mô và cơ cấu dự trữ ngoại hối của Việt Nam
thời kỳ hậu WTO”
tư ra nước ngoài phải được cấp giấy chứng nhận đầu tư theo quy định, nhà đầu tư gián tiếp
nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng
được phép, quản lý vốn đầu tư khác ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu thông qua chính
sách vay và trả nợ nước ngoài.
• Ngoài ra, các biện pháp kiểm soát vốn mà Việt Nam tiến hành bao gồm không đánh thuế
đối với các giao dịch kinh doanh ngoại hối, không yêu cầu tỷ lệ dự trữ không hưởng lãi suất
đối với các dòng vốn nước ngoài, quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng,

chi nhánh ngân hàng nước ngoài vào cuối ngày không vượt quá 20% vốn tự có của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
• Các biện pháp kiểm soát vốn khác: gồm các quy định về cấp giấy phép đối với các loại hình
đầu tư, quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài, quy định về đối xử
giữa công ty trong nước và công ty nước ngoài, quy định về việc chuyển lợi nhuận về nước,
quy định về khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Mặc dù đã có những biện pháp kiểm soát khá cụ thể song mức độ kiểm soát và điều
tiết các dòng vốn vào vẫn chưa cao.
Nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam nên lựa chọn công cụ điều
tiết phù hợp, nâng cao hiệu lực điều tiết của các chính sách kinh tế vĩ mô, tăng cường và
phát triển các biện pháp giám sát thận trọng đối với khu vực tài chính, thiết lập các biện
pháp kiểm soát vốn hiệu quả, phối hợp chính sách và các giải pháp hỗ trợ nhằm giữ ổn định
kinh tế vĩ mô và khu vực tài chính ở Việt Nam.

×