Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
==========
ĐẶNG MINH TUẤN
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỘNG
ĐỊA PHƯƠNG TRONG VÙNG ĐỆM ĐẾN TÀI
NGUYÊN RỪNG ĐẶC DỤNG HỮU LIÊN, HỮU
LŨNG, LẠNH SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện và hoàn thành theo chương trình đào tạo
Thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp của Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, tác giả bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS.Vũ Nhâm - người đã bồi dưỡng kiến thức quý báu và đã dành tình
cảm tốt đẹp cho tác giả từ khi hình thành, phát triển ý tưởng, xây dựng đề
cương, tổ chức triển khai và hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn tập thể cán bộ Phòng Khoa học Công nghệ và
Hợp tác Quốc tế, Ban Chủ nhiệm Khoa Đào tạo Sau Đại học, các thầy cô đã
tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Đối với địa phương, tác giả chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn; Ủy ban nhân dân các huyện Hữu Lũng,
Văn Quan, Chi Lăng; Ban quản lý rừng đặc dụng nhiên Hữu Liên; Hạt kiểm
lâm Hữu Lũng; UBND các xã Hữu Liên, Yên thịnh, Hòa Bình, Hữu Lễ, Văn
Quan và bà con các dân tộc ở địa phương - nơi tác giả đã đến thu thập số liệu
để thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các cán bộ, công nhân viên ban quản lý rừng đặc dụng
Hữu Liên đã tư vấn, giúp đỡ và hỗ trợ tác giả thu thập số liệu tại hiện trường.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã khuyến khích, giúp đỡ tác giả
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã làm việc nghiêm túc với tất cả nỗ lực, nhưng do trình độ và
thời gian hạn chế, nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất
định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các
Thầy, Cô giáo, các nhà khoa học, các bạn bè đồng nghiệp và xin chân thành
tiếp thu các ý kiến đóng góp đó./.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1
Thành phần dân tộc các điểm nghiên cứu trong vùng đệm RĐD
Hữu Liên
Bảng 3.1
Dân số - lao động - nhân khẩu trong khu vực
Bảng 3.2
Hiện trạng sử dụng đất khu vực nghiên cứu
Bảng 3.3
Hiện trạng các loại rừng trong rừng đặc dụng
Bảng 3.4
Diện tích, năng suất các loài cây nông nghiệp chính
Bảng 4.1
Những công việc BQL RĐD Hữu Liên làm được trong 3 năm
(2007-2009)
Bảng 4.2
Hình thức sử dụng đất rừng
Bảng 4.3
Các sản phẩm khai thác ở rừng tự nhiên
Bảng 4.4
Số lượng gia súc chăn thả trên rừng và đất rừng RĐD Hữu
Liên
Bảng 4.5
Biểu thống kê diện tích thiệt hại do cháy rừng từ năm 2005 -
2009 tại rừng đặc dụng Hữu Liên
Bảng 4.6
Đối tượng nhận giao khoán đất và rừng của RĐD Hữu Liên
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1
Thành phần dân tộc khu vực vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.1
Đánh giá của người dân về việc trồng sắn, ngô trên đất rừng
Biểu đồ 4.2
Đánh giá của người dân về sự thay đổi độ màu mỡ đất rừng
Biểu đồ 4.3
Số hộ tác động TNR bằng các phế thải
Biểu đồ 4.4
Cơ cấu đất canh tác của CĐĐP vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.5
Cơ cấu thu nhập của cộng đồng vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.6
Nhu cầu và khả năng tự đáp ứng lương thực bình quân hộ gia
đình tại vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.7
Nhu cầu và khả năng đáp ứng tiền mặt bình quân HGĐ tại
vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.8
So sánh tổng thu nhập và thu nhập từ TNR bình quân HGĐ
vùng đệm RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.9
Cơ cấu thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp của cộng đồng vùng
đệm RĐD Hữu Liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Biểu đồ 4.10
So sánh tỷ lệ củi rừng và củi khác của cộng đồng vùng đệm
RĐD Hữu Liên
Biểu đồ 4.11
Các sản phẩm hàng hoá của người dân vùng đệm rừng đặc
dụng Hữu Liên
Biểu đồ 4.12
Ý kiến của người dân về việc giao khoán đất và rừng từ BQL
RĐD Hữu Liên và BQL thôn.
Biểu đồ 4.13
Đánh giá của người dân về lợi ích của BQL RĐD Hữu Liên
đối với CĐĐP vùng đệm
Biểu đồ 4.14
Ý kiến của người dân về việc nhận biết chính xác ranh giới
giữa RĐD và thôn bản.
Biểu đồ 4.15
Nhận thức của người dân về sự cần thiết của trồng cây lâm
nghiệp và những tác động bất lợi tới TNR
Biểu đồ 4.16
Sự phát triển may cưa xăng tại xa Hữu Liên
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.2
Tháp sinh thái nhân văn cho nghiên cứu sự tác động của
CĐĐP vùng đệm đến TNR.
Hình 3.1
Rừng đặc dụng Hữu Liên
Hình 3.2
Thực trạng sản xuất nông nghiệp
Hình 3.3
Canh tác Ngô
Hình 3.4
Hiện trạng chăn nuôi
Hình 3.5
Hiện trạng sản xuất Lâm nghiệp
Hình 3.6
Đèo Bụt xã Yên Thịnh
Hình 3.7
Làng Cóc xã Hữu Liên
Hình 4.1
Sử dụng đất rừng trồng cây ăn quả
Hình 4.2
Sử dụng đất trồng sắn
Hình 4.3
Khai thác lâm sản
Hình 4.4
Vận chuyển lâm sản
Hình 4.5
Củi trong sinh hoạt hàng ngày
Hình 4.6
Săn bắt buôn bán động vật hoang dã
Hình 4.7
Khai thác, sử dụng LSNG
Hình 4.8
Chăn thả gia súc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Hình 4.9
Nấu rượu theo kiểu truyền thống
Hình 4.10
Lấy củi phục vụ cho nhu cầu chất đốt
Hình 4.11
Bảng nội quy BVR
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1
Những yếu tố chi phối những tác động bất lợi của CĐĐP vùng
đệm tới TNR
Sơ đồ 2.3
Các bước thực hiện nghiên cứu
Sơ đồ 4.1
Các nguyên nhân dẫn tới sự tác động bất lợi của các CĐĐP tới
TNR RĐD Hữu Liên
Sơ đồ 4.2
Hệ thống tổ chức BQL rừng đặc dụng Hữu Liên
So đồ 4.3
Giải pháp mục tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BQL:
Ban quan lý
CĐĐP:
Cộng đồng địa phương
HGĐ:
Hộ gia đình
KBTTN:
Khu bảo tồn thiên nhiên
LN:
Lâm nghiệp
LSNG:
Lâm sản ngoài gỗ
NN:
Nông nghiệp
RĐD:
Rừng đặc dụng
TNR:
Tài nguyên rừng
UBND:
Uỷ ban nhân dân
VQG:
Vườn quốc gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều thập kỷ qua, toàn thế giới đã nhận thấy rằng các khu bảo
tồn thiên nhiên (KBTTN) và vƣờn quốc gia (VQG) có vai trò quan trọng
trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Các
khu bảo tồn là nơi lƣu trữ các vật liệu thiên nhiên cho sự phát triển của các
ngành y tế, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp, đồng thời gìn giữ các
chức năng tự nhiên của hệ sinh thái, bảo vệ đất đai, điều hoà khí hậu, giúp con
ngƣời đƣợc sống trong bầu khí quyển trong lành. Mặc dù các khu bảo tồn có
tầm quan trọng nhƣ vậy, nhƣng quản lý các khu bảo tồn đã và đang gặp rất
nhiều khó khăn từ phía các cộng đồng địa phƣơng (CĐĐP), đặc biệt đối với
các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam [21, trang 15-20].
Là một nƣớc nhiệt đới với 3/4 diện tích đất đai là đồi núi, Việt Nam rất
giàu có về đa dạng sinh học. Cho tới nay đã có gần 12.000 loài thực vật và
7.000 loài động vật đã đƣợc ghi nhận có ở Việt Nam. Nguồn tài nguyên này
không những có vai trò quan trọng đối với toàn xã hội, có ý nghĩa quốc gia,
khu vực, toàn thế giới mà còn là nguồn sinh kế chủ yếu của con ngƣời, đặc
biệt đối với các cộng đồng sống trong và gần rừng. Từ năm 1962 đến nay,
Việt Nam đã thành lập một hệ thống các khu rừng đặc dụng, trong đó có 105
KBTTN và VQG. Hầu hết các KBTTN và VQG này nằm ở vùng núi và là nơi
có các cộng đồng dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy để ngăn chặn những tác
động bất lợi tới TNR đồng thời huy động ngƣời dân tham gia vào bảo tồn đa
dạng sinh học của KBTTN và VQG phải có vùng đệm.
Đối với CĐĐP trong các vùng đệm, việc thành lập các KBTTN và
VQG luôn có xu hƣớng làm thay đổi lớn tới cuộc sống của họ. Bắt đầu từ
những thay đổi về vị trí nhà ở, về thói quen chiếm hữu đất đai trong canh tác,
nguồn sản phẩm sẵn có ở rừng, dẫn tới nhiều thay đổi khác về tập quán canh
tác, sinh kế, văn hoá Tài nguyên rừng (TNR) - nguồn sống chủ yếu của
ngƣời dân vùng núi bao đời nay dƣờng nhƣ đã không còn là của họ. Trong khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác chƣa bù lại đƣợc sự thiếu hụt lớn lao
này. Chính vì vậy đã gây ra mâu thuẫn giữa KBTTN và VQG với CĐĐP.
Khi chƣa tìm đƣợc tiếng nói chung đối với việc bảo tồn TNR thì việc tồn tại
những tác động bất lợi của ngƣời dân vào TNR là một tất yếu.
Rừng đặc dụng RĐD Hữu Liên nằm trong vùng núi đá vôi Cao Bằng -
Lạng Sơn, đây là hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi có giá trị cao về mặt sinh
học với nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm. Thực vật có 7 loài đặc hữu,
quý hiếm nhƣ: Hoàng đàn, Nghiến, Trai lý, Cây một lá, Đinh, Thiên tuế
Động vật có 15 loài nhƣ: Hƣơu Xạ, Voọc đen má trắng, Voọc đen tuyền, Gấu
ngựa, Trăn đất Tuy nhiên hiện nay, thành phần và số lƣợng các loài động,
thực vật, vi sinh vật rừng đã giảm đi nhiều một số loại đứng trƣớc nguy cơ
tuyệt chủng do việc khai thác quá mức của con ngƣời.
Vùng đệm RĐD Hữu Liên trải rộng trên địa bàn 5 xã của 3 huyện thuộc
tỉnh Lạng Sơn với tổng diện tích tự nhiên là 26.326,6 ha. Tại đây có 5 dân tộc
Kinh, Tầy, Nùng, Dao, Mông sinh sống, với tổng số 18.447 nhân khẩu. Địa
hình vùng đệm biến đổi đa dạng do những ngọn đồi thấp nhấp nhô dƣới chân
núi. Diện tích đất canh tác của ngƣời dân không lớn, đất có độ dốc cao, có
nhiều đá lẫn và đã đƣợc khai thác và sử dụng trong nhiều năm.
Thực tế là các hoạt động sử dụng đất và khai thác TNR vùng RĐD Hữu
Liên trong những thập kỷ gần đây đã làm cạn kiệt nguồn TNR, hiện tƣợng xói
mòn đất nghiêm trọng ở nhiều nơi và các khu đất màu mỡ bị mất đi đã làm
suy giảm năng suất cây trồng. Từ khi ban quản lý (BQL) RĐD Hữu Liên
đƣợc thành lập đến nay, mặc dù diện tích đất và rừng thuộc quyền quản lý của
BQL, nhƣng việc sử dụng đất và khai thác TNR bởi các CĐĐP vẫn còn đang
diễn ra và tiếp tục làm suy giảm TNR.
Trƣớc tình hình đó, Nhà nƣớc ta đã triển khai một số chƣơng trình, dự
án hỗ trợ cho vùng đệm với số tiền không nhỏ, tuy nhiên các dự án này chƣa
thực sự có tác dụng ngăn chặn những tác động bất lợi của các CĐĐP tới TNR
tại RĐD Hữu Liên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Vậy vấn đề đặt ra là tại sao lại nhƣ vậy và có thể có giải pháp nào làm
giảm thiểu đƣợc những tác động bất lợi của các CĐĐP vùng đệm tới TNR
RĐD Hữu Liên Chính vì câu hỏi này, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:
Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương trong vùng đệm đến tài
nguyên rừng rừng đặc dụng Hữu Liên, Hữu Lũng, Lạng Sơn.
Để giải quyết vấn đề trên, chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu cần
thiết phải trả lời đƣợc các câu hỏi: CĐĐP vùng đệm RĐD Hữu Liên tác động
bất lợi tới TNR bằng những hình thức nào? Những nguyên nhân nào dẫn đến
sự tác động bất lợi của các CĐĐP vùng đệm RĐD Hữu Liên tới TNR? Qua
đây nhằm đề xuất một số giải pháp làm giảm thiểu sự tác động bất lợi của
CĐĐP tới TNR và đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Chƣơng 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về CĐĐP và vùng đệm.
1.1.1. Khái niệm CĐĐP (Local Community)
Khái niệm về cộng đồng đƣợc sử dụng nhiều trong các nghiên cứu, tuy
nhiên chƣa có sự thống nhất chung về mặt từ ngữ.
Theo Darcy Davis Case (1990), cộng đồng địa phƣơng là nhóm ngƣời
sống trên cùng một khu vực, thƣờng cùng nhau chia sẻ các mục tiêu chung,
các luật lệ xã hội chung và/hoặc có quan hệ gia đình với nhau [23, trang 50].
Một khái niệm khác đƣợc Phạm Xuân Phƣơng (2001) sử dụng trong
báo cáo tại Hội thảo quốc gia “Khuôn khổ chính sách hỗ trợ quản lý rừng
cộng đồng ở Việt Nam” đƣợc tổ chức tại Hà Nội từ ngày 14-15/11/2001 là
“cộng đồng bao gồm toàn thể những ngƣời sống thành một xã hội có những
điểm tƣơng đồng về mặt văn hoá truyền thống, có mối quan hệ sản xuất và
đời sống gắn bó với nhau và thƣờng có ranh giới không gian trong một làng
bản” [19, trang 1-8].
Trong bài phát biểu của Giáo sƣ Lê Quý An về “Quan hệ đồng tác trên
cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia” tại hội
thảo “Vùng đệm các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam”, cộng đồng đƣợc
định nghĩa là nhóm ngƣời sống tại cùng một địa phƣơng hoặc dƣới sự quản lý
của cùng một chính quyền địa phƣơng [31].
Nhƣ vậy, cộng đồng có thể là cộng đồng dân cƣ thôn, làng, bản, cộng
đồng các dòng họ, các nhóm ngƣời có những đặc điểm và lợi ích chung
Trong phạm vi nghiên cứu này, cộng đồng đƣợc hiểu theo nghĩa CĐĐP và là
thôn xóm.
1.1.2. Khái niệm vùng đệm (Buffer Zone)
Quan niệm về vùng đệm bắt đầu đƣợc đề cập vào khoảng năm 1950.
Khi Khu bảo tồn Nerfu ở Zambia Luangua gặp phải thách thức trƣớc nhu cầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
cuộc sống và tập quán của ngƣời dân địa phƣơng, họ đã quan tâm đến việc
cho phép các CĐĐP đƣợc săn bắn theo phƣơng thức truyền thống. Ở Vƣờn
quốc gia Corbet ở Ấn Độ, ngƣời dân địa phƣơng cũng đƣợc quyền thu hoạch
và khai thác các sản phẩm không phải là gỗ trong một số khu rừng bán tự
nhiên. Tại hội nghị về khu bảo tồn và VQG lần thứ III do IUCN tổ chức tại
Bali năm 1982 đã đề cập đến việc đáp ứng nhu cầu của ngƣời dân địa phƣơng
thông qua việc xây dựng các vùng đệm. Vấn đề này đã đƣợc thảo luận nhiều
hơn trong Hội nghị MAB/UNESCO về Chƣơng trình hành động cho các khu
bảo tồn sinh quyển, đƣợc tổ chức tại Minsk (Liên Xô cũ) năm 1984. Trên cơ
sở đó, có rất nhiều khái niệm về vùng đệm đƣợc đƣa ra [14].
Theo Jeffey Sayer (1991) thì “Vùng đệm là vùng đất nằm xung quanh
vƣờn quốc gia hay khu bảo tồn mà ở đó việc sử dụng các tài nguyên thiên
nhiên có hạn chế, hay ở đó các biện pháp quản lý đặc biệt về phát triển nhằm
nâng cao hiệu quả của công việc bảo vệ”.
Michael Brow Barbara Uryckoff - Baird (1994) cho rằng: “Vùng đệm
là vùng nằm trong hoặc tiếp giáp với khu bảo tồn, tại đó mối quan hệ hài hoà
giữa môi trƣờng tự nhiên và con ngƣời đƣợc chú trọng, mục tiêu của việc
quản lý vùng đệm là tối ƣu hoá những giá trị văn hoá, xã hội, sinh thái và tài
nguyên thông qua việc quản lý tích cực, thích ứng, công bằng với tất cả các
nhóm và cho phép thay đổi giá trị đối với thời gian”.
GTZ (1996) thì quan niệm rằng: “Vùng đệm và vùng chuyển tiếp là
những vùng đất nằm ngoài hay trong khu bảo tồn. Các vùng này có chức năng
tạo thuận lợi cho khu bảo tồn và cho cuộc sống của dân cƣ ở đây. Dân cƣ sinh
sống ở đây luôn là tiềm năng trực tiếp ảnh hƣởng đến khu bảo tồn”.
Tại Hội thảo quốc gia về sự tham gia của CĐĐP trong quản lý các khu
bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đƣợc tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh từ
ngày 17-18 tháng 12 năm 1997, khái niệm vùng đệm đã đƣợc đƣa ra thảo
luận. Một số khái niệm đƣợc đề cập tới trong hội thảo là [21]:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Vùng đệm là “Vùng đất nằm ngoài khu bảo tồn hay vƣờn quốc gia, tại
đó việc sử dụng đất đã phần nào đƣợc hạn chế, nhằm tạo thành một vành đai
bảo vệ bổ sung cho khu bảo tồn, đồng thời giúp cho nhân dân sinh sống trong
vung đƣợc bù đắp phần nào những thiệt thòi do việc thành lập các khu bảo
tồn đó gây ra” (Mackinnon, 1981, 1986).
“Vùng đệm là vùng tiếp giáp với khu bảo vệ bao quanh toàn bộ hay
một phần của khu bảo vệ, vùng đệm nằm ngoài diện tích khu bảo vệ và không
thuộc quyền quản lý sử dụng của ban quản lý bảo vệ” (Quyết định số 1586
LN/KL ngày 13/7/1993).
“Vùng đệm là vùng rừng hoặc đất đai có dân cƣ sinh sống bao quanh
hoặc nằm sát ranh giới các khu rừng đặc dụng hoặc khu bảo tồn thiên nhiên.
Việc thành lập vùng đệm nhằm làm giảm áp lực của dân địa phƣơng đối với
khu vực cần bảo vệ” [27].
Gilmour, D.A và Nguyễn Văn Sản đã định nghĩa vùng đệm là “những
vùng đƣợc xác định ranh giới rõ ràng, có hoặc không có tài nguyên rừng, nằm
ngoài ranh giới của khu bảo tồn và đƣợc quản lý để nâng cao việc bảo tồn của
khu bảo tồn và chính vùng đệm đồng thời mang lại lợi ích cho nhân dân sống
quanh khu bảo tồn. Điều này đƣợc thực hiện bằng cách áp dụng các hoạt động
phát triển đặc biệt góp phần vào việc nâng cao đời sống kinh tế - xã hội của
cƣ dân sống trong vùng đệm” [6].
Theo điều 8 của “Quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và
rừng sản xuất là rừng tự nhiên” ban hành theo quyết định số 08/2001/QĐ-TTg
ngày 11 tháng 01 năm 2001 thì “vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng
đất có mặt nƣớc nằm sát ranh giới của các VQG và KBTTN; có tác động
ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động
trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và
bảo vệ khu rừng đặc dụng; hạn chế di dân từ bên ngoài vào vùng đệm; cấm
săn bắn, bẫy các loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối
tƣợng bảo vệ” [26].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Nhiều khái niệm đƣợc đƣa ra, nhƣng khó có thể thống nhất các khái
niệm trên đƣợc. Tuy nhiên có thế tìm thấy một số điểm chung cơ bản nhƣ sau:
- Vùng đệm là vùng đất nằm bao quanh khu bảo tồn, nhƣng không tính
vào diện tích của khu bảo tồn.
- Vùng đệm có cƣ dân sinh sống và diễn ra các hoạt động kinh tế - dân
sinh và chịu sự quản lý của chính quyền địa phƣơng.
- Các hoạt động ở vùng đệm nhằm hỗ trợ cho công tác bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng.
Nhƣ vậy, mục đích của việc phải có các vùng đệm là để ngăn chặn
những tác động có hại đối với tài nguyên tại các KBTTN và VQG.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu trên thế giới
Năm 1872, Vƣờn quốc gia đầu tiên trên thế giới đƣợc thành lập ở Mỹ,
đó là vƣờn quốc gia Yellowstone. VQG này nằm trên vùng đất do ngƣời
Crow và ngƣời Shoshone sinh sống trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc hai
cộng đồng tộc ngƣời này phải rời bỏ mảnh đất của họ. Nhiều KBTTN và
VQG đƣợc thành lập sau đó ở các nƣớc khác nhau trên thế giới và cũng sử
dụng phƣơng thức quản lý theo mô hình này, có nghĩa là ngăn cấm ngƣời dân
địa phƣơng thâm nhập và tiếp cận tài nguyên trong KBTTN và VQG. Điều đó
dẫn đến những hiệu quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa CĐĐP
và KBT và mục đích bảo tồn tài nguyên đã không đạt đƣợc [24].
Trên thế giới, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực
làm thay đổi chiến lƣợc bảo tồn từ đầu thập kỷ 1980. Một chiến lƣợc bảo tồn
mới dần đƣợc hình thành và khẳng định tính ƣu việt, đó là liên kết quản lý
KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của các CĐĐP, cần thiết có sự
tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong
quá trình xây dựng các quyết định.
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của
các KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô
hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của CĐĐP. Ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
VQG Kakadu (Australia), những ngƣời thổ dân chẳng những đƣợc chung
sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn đƣợc thừa nhận là chủ hợp pháp
của VQG và đƣợc tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong
ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc
sống gắn với săn bắn cổ truyền [11, tr 25].
Ở Thái lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới
60%, nhƣng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%. Hơn 170.000 km
2
rừng bị
tàn phá. Năm 1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái lan (The Royal
Forest Department) thành lập khu bảo tồn để bảo vệ diện tích rừng còn lại.
Điều này dẫn tới xung đột giữa các CĐĐP sống trong vùng đệm. Một thử
nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác”
(Sustainable Forest Management through Collaborative effortsProject) thực
hiện tại Phu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở miền Đông-Bắc
Thái lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là
phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả
phát triển CĐĐP bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [32].
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã
trở thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong
những năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về
Môi trƣờng và Phát triển bền vững (UNCED) ở Rio de janeiro, vấn đề này đã
chính thức đƣợc công nhận [14].
Các nghiên cứu trên thế giới mới chỉ có những phân tích định tính về
sự phụ thuộc của các cộng động dân cƣ vào tài nguyên và khẳng định cần
thiết phải có sự tham gia của ngƣời dân vào các hoạt động bảo tồn TNR. Tuy
nhiên chƣa có các nghiên cứu định lƣợng xác định những tác động của cộng
đồng vào TNR và nguyên nhân cụ thể dẫn tới tác động đó vào TNR.
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam
Cùng hoà nhịp sự quan tâm về bảo tồn TNR với cộng đồng thế giới,
năm 1962, VQG đầu tiên của Việt Nam đƣợc thành lập - VQG Cúc Phƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Nhƣng do chiến tranh nên cho tới năm 1983 công việc này mới lại đƣợc tiếp
tục và cho tới nay Việt Nam đã có 105 KBTTN và VQG.
Vùng đệm của các KBTTN và VQG đã chính thức đƣợc đề cập đến
ngay sau khi có Quyết định số 194 - CT ngày 9/8/1986 quy định danh mục 73
khu rừng cấm và quyết định số 1171/QĐ ngày 30/11/1986 của Bộ Lâm
nghiệp (nay là Bộ NN & PTNT) ban hành các loại quy chế rừng sản xuất,
rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và quy định về vùng đệm các VQG và
KBTTN, tuy nhiên cho đến nay việc thực hiện quản lý vùng đệm còn rất hạn
chế. Theo Ts. Nguyễn Bá Thụ, những khó khăn gặp phải trong việc quản lý
vùng đệm nói chung là [31]:
- Hầu hết các vùng đệm đều có đông dân cƣ sinh sống.
- Vùng đệm thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phƣơng (xã,
huyện, tỉnh) nhƣng thƣờng chính quyền địa phƣơng ít quan tâm đến KBTTN
và VQG vì họ không hiểu rõ tầm quan trọng của KBTTN và VQG đối với
địa phƣơng, và coi việc bảo vệ các khu rừng đặc dụng là việc của ban quản lý
các khu rừng đó.
- Đa số nhân dân địa phƣơng nghèo, dân trí thấp, dân số tăng nhanh, họ
cho rằng việc thành lập KBTTN và VQG không mang lại lợi ích cho họ.
- Hầu hết ban quản lý các KBTTN và VQG chƣa có giải pháp hữu hiệu
để lôi kéo ngƣời dân vùng đệm tham gia vào công tác bảo tồn.
- Tập quán canh tác của ngƣời dân trong vùng đệm ở một số nơi quá lạc
hậu, năng suất mùa màng thấp.
Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc
nâng cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát
triển. Đó là làm sao dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên và phát triển kinh tế - xã hội các CĐĐP . Một số nghiên cứu trong
những năm gần đây đƣợc trình bày dƣới đây.
Trong 2 năm (1998 - 1999), Bùi Minh Vũ đã tiến hành một nghiên cứu
lớn tại 2 KBTTN và 8 VQG. Đề tài đánh giá điều kiện tự nhiên, tính đa dạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
sinh học và kinh tế - xã hội của các điểm điều tra và đề xuất 3 tiêu chuẩn xác
định vùng đệm, đó là: Đƣờng ranh giới phía trong và phía ngoài vùng đệm tối
thiểu là 1km và tối đa là 10km; Quy mô đất đai của vùng đệm; Về dân số, lao
động và dân tộc. Các đề xuất và khuyến nghị của nghiên cứu mang tính
phƣơng hƣớng, chƣa cụ thể [32].
Năm 1999, D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản đã xuất bản cuốn sách
“Quản lý vùng đệm ở Việt Nam”. Đây là báo cáo về một nghiên cứu quản lý
vùng đệm, với 3 nghiên cứu điểm tại VQG Ba Vì, Bạch mã và Cát Tiên. Đây
là một nghiên cứu mang tính toàn diện. Nghiên cứu đã miêu tả thực trạng
vùng đệm và đặc biệt là mối quan hệ giữa các cộng đồng dân cƣ của vùng
đệm và tài nguyên ở trong vùng đệm và ở cả các VQG. Các kết luận và đề
xuất đƣa ra mới chỉ ở mức vạch ra phƣơng hƣớng ở tầm vĩ mô [6].
Trong 3 năm (1995 -1998), Trần Ngọc Lân và các đồng sự đã tiến hành
một nghiên cứu tại vùng đệm KBTTN Pù Mát và dựa trên nghiên cứu này
cuốn sách “Phát triển bền vững vùng đệm KBTTN và VQG đƣợc ra đời vào
năm 1999. Nghiên cứu đã đánh giá áp lực của vùng đệm lên khu bảo tồn và
hệ thống nông hộ tại vùng đệm Pù Mát. Tác giả kết luận rằng các nông hộ
trong vùng đệm Pù Mát có sự gắn bó chặt chẽ với rừng, nguồn thu nhập từ
khai thác lâm sản và canh tác nƣơng rẫy chiếm vị trí quan trọng trong tổng
thu nhập của mỗi nông hộ. Hiện tại, các nông hộ đang có sự chuyển đổi về
sinh kế, song mới chỉ rất ít ở các hộ có sự hiểu biết và có vốn đầu tƣ [14].
Năm 2001, Đỗ Anh Tuấn thực hiện một nghiên cứu điểm cũng tại
KBTTN Pù mát cho đề tài ảnh hƣởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐĐP
và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay
đổi sinh kế của ngƣời dân địa phƣơng do sự ảnh hƣởng của khu bảo tồn và
mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa
cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết ngƣời dân địa phƣơng
vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu,
trung bình, 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là
từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện
tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của ngƣời dân địa phƣơng. Mặc dù
đã có một vài chƣơng trình hỗ trợ đƣợc thực hiện tại KBTTN, nhƣng chúng
chƣa bù lại đƣợc những mất mát do thành lập KBTTN [36].
Vấn đề giảm đất đai canh tác của các cộng đồng do hình thành VQG là
một thực tế diễn ra ở nhiều nơi. Đỗ Thị Hà cho rằng sau khi thành lập VQG Tam
Đảo, đất của các hộ trong thôn bị mất đi, thu nhập về lâm nghiệp tập trung vào
một số chủ rừng, ảnh hƣởng tới sự phân công lao động trong hộ gia đình [8].
Năm 2001, tại VQG Ba Vì, Hà Thị Minh Thu đã đánh giá hiện trạng sử
dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Nghiên cứu này mới chỉ thực hiện đối
với ngƣời Dao tại vùng đệm VQG Ba Vì. Tuy nhiên, tại vùng đệm có 3 dân
tộc sinh sống: Mƣờng, Kinh, Dao và ngƣời Dao chỉ chiếm 3,7% tổng dân số.
Vì vậy nghiên cứu chƣa bao trùm cho cả vùng đệm. Tác giả cho rằng, các
chƣơng trình thực hiện tại vùng đệm VQG Ba Vì chƣa hoạt động hiệu quả, đã
không cải thiện đƣợc cuộc sống của ngƣời dân và không hạn chế đƣợc sự tác
động của ngƣời dân vào TNR. Lý do chính là các chƣơng trình đó đã không
làm thoả mãn nhu cầu của ngƣời Dao [35].
Các nghiên cứu đã thực hiện chủ yếu đƣợc phân tích, đánh giá tác động
của KBTTN và VQG đối với CĐĐP. Nhƣng vấn đề ngƣợc lại, nhìn nhận từ
góc độ CĐĐP đối với các KBTTN và VQG còn chƣa đƣợc nghiên cứu.
Năm 2008, tại xã Hữu Liên, Nguyên Hữu Giang đã nghiên cứu một số
giải pháp quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Nghiên cứu này đã chỉ
rõ nguyên nhân chủ yếu làm suy giảm nguồn TNR ở Hữu Liên là đời sống
ngƣời dân gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng, giao thông, thị trƣờng kém phát
triển cùng với phong tục tập quán lạc hậu, công nghệ chế biến nông, lâm sản
chƣa phát triển, trình độ dân trí thấp và sự phối hợp chƣa chặt chẽ của các
thành phần tham gia bảo vệ TNR [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nhìn chung tại vùng đệm rừng đặc dụng Hữu Liên còn có một số
nghiên cứu khác, nhƣng chủ yếu là đánh giá về hiện trạng hệ động, thực vật
và các biện pháp bảo tồn loài, quy hoạch sử dụng đất, các nghiên cứu về cây
thuốc và tình hình khai thác sử dụng cây thuốc của một bộ phận đồng bào dân
tộc thiểu số.
Nhƣ vậy, tại RĐD Hữu Liên các đề tài nghiên cứu mới chỉ đề cập đến
một số vấn đề chính sách quản lý, sử dụng đất khu phục hồi sinh thái và vai
trò của LSNG đối với ngƣời dân. Sự tác động của cộng đồng vào VQG luôn
đƣợc xem là những vấn đề hiển nhiên, mang tính tất yếu. Chính vì vậy chƣa
có nghiên cứu nào đề cập một cách sâu sắc về vấn đề này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Chƣơng 2:
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Về lý luận
Nghiên cứu nhằm đóng góp cơ sở lý luận cho việc hình thành những
giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển ở vùng đệm các
KBTTN và VQG.
2.1.2. Về thực tiễn
Nghiên cứu nhằm đạt đƣợc các mục tiêu sau:
(1) Xác định đƣợc các hình thức tác động bất lợi của các CĐĐP trong vùng
đệm đối với TNR rừng đặc dụng Hữu Liên .
(2) Phân tích đƣợc các nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi
đó tới TNR.
(3) Trên cơ sở đó bƣớc đầu đề xuất đƣợc các giải pháp làm giảm thiểu sự
tác động bất lợi của CĐĐP trong vùng đệm đối với TNR, đồng thời hỗ trợ
phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những tác động bất lợi của các
CĐĐP trong vùng đệm tới TNR tại rừng đặc dụng Hữu Liên.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
2.3.1. Giới hạn về phạm vi nghiên cứu:
Do hạn chế về thời gian và kinh phí nghiên cứu nên đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu về sự tác động bất lợi của các CĐĐP sống gần rừng (vị trí tiếp
giáp với rừng đặc dụng Hữu Liên). Khoảng cách giữa các cộng đồng thôn
xóm tới rừng là yếu tố quan trọng ảnh hƣởng mạnh tới những tác động của
cộng đồng vào TNR. Những tác động này ở những cộng đồng gần rừng rõ rệt
hơn ở những cộng đồng có khoảng cách xa rừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
2.3.2. Giới hạn về nội dung nghiên cứu:
Tác động của các CĐĐP vùng đệm tới TNR bao gồm những tác động
có lợi và tác động bất lợi. Tuy nhiên, những tác động có lợi đã không ngăn
cản đƣợc sự suy giảm TNR do những tác động bất lợi của cộng đồng vùng
đệm gây ra, vì vậy đề tài này tập trung nghiên cứu những tác động bất lợi tới
TNR, phân tích nguyên nhân và đề xuất giảm thiểu tác động bất lợi của cộng
đồng vùng đệm tới TNR.
Sơ đồ 2.1: Những yếu tố chi phối những tác động bất lợi của
CĐĐP vùng đệm tới TNR
Tất cả những yếu tố về kinh tế, xã hội và công nghệ đều chi phối tới
những tác động bất lợi của các CĐĐP tới TNR. Đây là những yếu tố quyết
định tới những hình thức tác động bất lợi của các CĐĐP tới TNR. Vì vậy, đề
tài tập trung nghiên cứu các nguyên nhân và giải pháp về mặt kinh tế, xã hội
và khoa học công nghệ tại vùng đệm rừng đặc dụng Hữu Liên chi phối tới
những tác động bất lợi của các CĐĐP tới TNR.
2.4. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung thực hiện các nội dung sau:
1. Xác định các hình thức tác động bất lợi.
2. Phân tích các nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tác động bất lợi.
+ Các nguyên nhân về xã hội
+ Các nguyên nhân về kinh tế
Những tác động bất lợi
của CĐĐP vùng đệm tới TNR
Yếu tố kinh tế
Yếu tố xã hội
Yếu tố công nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
+ Các nguyên nhân về cộng nghệ
3. Đề xuất một số giải pháp kinh tế, xã hội và khoa học công nghệ nhằm
giảm thiểu các tác động bất lợi từ phía các CĐĐP trong vùng đệm tới TNR,
đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng.
2.5. phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phƣơng pháp luận
Nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên lý luận về lý thuyết hệ thống, quan
điểm sinh thái - nhân văn, quan điểm bảo tồn - phát triển và tiếp cận có sự
tham gia.
2.5.1.1. Vận dụng lý thuyết hệ thống.
Hệ thống đƣợc hiểu là một cấu trúc hoàn chỉnh của tự nhiên, nó bao
gồm nhiều bộ phận chức năng liên kết với nhau một cách có tổ chức và trật
tự, tồn tại và vận động theo những quy luật thống nhất (Hà Quang Khải,
2001). Một hệ thống luôn bao gồm những hệ thống thành phần (nhỏ hơn) hay
còn gọi là hệ thống phụ. Mọi sự vật, hiện tƣợng đều nằm trong hệ thống và
mỗi hệ thống lại nằm trong hệ thống lớn hơn.
Sự tác động của các CĐĐP đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh
tế xã hội và tác động tới hệ thống tự nhiên.
Sự tác động của các CĐĐP đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh
tế, bởi vì mức độ tác động của các CĐĐP gắn liền với các hoạt động kinh tế
của con ngƣời nhƣ sử dụng đất rừng canh tác, khai thác lâm sản, chăn thả gia
súc Sự tác động này cũng phụ thuộc vào sinh kế, mức sống, nhu cầu thị
trƣờng, khả năng đầu tƣ, lợi nhuận trƣớc mắt và hiệu quả kinh tế thƣờng
quyết định tới hình thức sử dụng TNR của các CĐĐP. Ngƣợc lại, mức độ
giàu có và đa dạng của TNR cũng tác động mạnh mẽ tới nguồn thu của các
CĐĐP. Chính vì mối quan hệ chặt chẽ giữa những tác động của các CĐĐP
đến TNR với các yếu tố kinh tế nên có thể làm giảm thiểu tác động bất lợi tới
TNR bằng cách tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do đề tài nghiên
cứu các nguyên nhân kinh tế dẫn tới những tác động bất lợi của các CĐĐP
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đến TNR và nghiên cứu đề xuất giải pháp kinh tế để giảm thiểu sự tác động
bất lợi này.
Sự tác động của CĐĐP đến TNR là hoạt động xã hội vì các hoạt động
này là của con ngƣời. Sự tác động này bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội nhƣ
nhận thức của ngƣời dân về tầm quan trọng của TNR, ý thức về luật pháp,
trách nhiệm của cộng đồng, những thói quen sử dụng TNR Sự tác động của
các CĐĐP đến TNR còn phụ thuộc vào những vấn đề về thể chế và chính
sách nhƣ chính sách đối với các CĐĐP vùng đệm, hệ thống quản lý TNR,
việc thực thi luật bảo vệ phát triển rừng Các tổ chức cộng đồng và những quy
định của cộng đồng cũng có ảnh hƣởng tới những tác động của CĐĐP vào
TNR. Sự hiện diện của chúng sẽ hỗ trợ Nhà nƣớc trong việc tuyên truyền các
chính sách, gắn kết ngƣời dân thành cộng đồng thống nhất trong việc thực thi
việc quản lý bảo vệ TNR. Những tác động của các CĐĐP đến TNR liên quan
chặt chẽ với các yếu tố xã hội, vì vậy đề tài tiến hành nghiên cứu các nguyên
nhân xã hội chi phối sự tác động của CĐĐP đến TNR và nghiên cứu đề xuất
giải pháp xã hội nhằm làm giảm thiểu những tác động bất lợi này.
TNR là một hệ thống tự nhiên, trong đó các thành phần có mối quan hệ
tƣơng tác chặt chẽ. Bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng dẫn
đến sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. TNR vốn tồn tại
khách quan và vận động theo những quy luật tự nhiên, vì vậy để bảo tồn
TNR, những tác động của con ngƣời phải phù hợp với quy luật tự nhiên và
giảm thiểu những tác động bất lợi tới nó.
2.5.1.2. Quan điểm sinh thái - nhân văn.
Thực tế cho thấy rằng, bất cứ hoạt động kinh tế xã hội trong cộng đồng
hay trong mỗi hộ gia đình đều rất đa dạng và phong phú. Nó phản ánh đặc
điểm sinh thái và mối quan hệ kinh tế - xã hội. Điều này chỉ ra rằng các hoạt
động trong cộng đồng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và có một yếu tố nào
đó giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng này vào thời điểm này nhƣng lại
không phải là nhƣ vậy trong thời điểm khác hoặc trong cộng đồng khác. Để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
nghiên cứu sự tác động bất lợi của các CĐĐP đến TNR, chúng tôi dựa theo
tháp sinh thái - nhân văn của Park đề xuất năm 1936.
Theo Teherani Kroenner (1992) và Nguyễn Bá Ngãi (2001), mô hình
sinh thái - nhân văn đƣợc Park thiết kế theo hình tháp dựa trên các hoạt động
xã hội của cộng đồng chịu sự chi phối của 4 bậc của các nhóm nhân tố theo
trình tự: Bậc sinh thái, bậc kinh tế, bậc thể chế chính sách và bậc đạo đức. Mô
hình này đề cập đến quan hệ giữa sắp xếp thứ bậc các nhóm nhân tố với các
hoạt động của cá nhân và sự bền vững (Hình 2.2) [18]. Dựa trên hình tháp này
có thể giải thích: Quan hệ giữa tác động bất lợi của cộng đồng đến TNR và
phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng - bảo tồn TNR là quan hệ có xu hƣớng
nghịch. Tức là khi kinh tế - xã hội địa phƣơng càng phát triển, điều kiện sống
về vật chất, tinh thần đƣợc đảm bảo và công tác bảo tồn TNR đƣợc thực hiện
tốt thì những tác động bất lợi tới TNR sẽ càng giảm. Sự tác động bất lợi của
các CĐĐP vào TNR đều có cơ sở sinh thái và chịu sự ảnh hƣởng của nhiều
yếu tố kinh tế - xã hội.
Cơ sở sinh thái đƣợc đƣợc giải thích bằng các yếu tố vật lý sinh học,
đƣợc chia làm 2 loại: Những yếu tố không thể kiểm soát đƣợc nhƣ khí hậu,
thuỷ văn, địa hình và những yếu tố có thể kiểm soát đƣợc hoặc hạn chế đƣợc
nhƣ: xói mòn, lũ lụt, sâu bệnh, lửa rừng, hạn hán Những yếu tố kiểm soát
hoặc hạn chế cần đƣợc nghiên cứu bằng các giải pháp khoa học công nghệ.
Các yếu tố kinh tế nhƣ: sinh kế, mức sống của các CĐĐP, nhu cầu thị
trƣờng Những nhân tố này rất có ý nghĩa đối với sự tác động của các CĐĐP
tới TNR.
Bậc thể chế đƣợc giải thích là các yếu tố về thể chế, chính sách, tổ chức
cộng đồng Ảnh hƣởng gián tiếp tới tác động của các CĐĐP đến TNR.
Bậc đạo đức đƣợc hiểu là tập quán, sự nhận thức hay ở mức cao hơn
nữa là văn hoá của các cộng đồng. Mọi tác động của các yếu tố khác đều có
thể làm thay đổi thái độ và nhận thức của cộng đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Hình 2.2: Tháp sinh thái nhân văn cho nghiên cứu sự tác động
của CĐĐP vùng đệm đến TNR.
Theo tháp sinh thái - nhân văn thì bất kỳ một giải pháp nào nhằm giảm
thiểu những tác động bất lợi tới TNR, bảo tồn rừng và phát triển vùng đệm
đều phải dựa trên cơ sở sinh thái và đảm bảo đƣợc các yếu tố về kinh tế và xã
hội của CĐĐP.
2.5.1.3.Quan điểm bảo tồn - phát triển.
Trong nhiều năm qua, khi gặp trở ngại trong việc quản lý các KBTTN và
VQG, đặc biệt là những KBTTN và VQG đƣợc thành lập tại những vùng có
mật độ dân cƣ cao, nhiều nƣớc trên thế giới đã quan tâm đến việc làm sao quản
lý đƣợc các KBTTN và VQG đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời dân địa
phƣơng. Đây là lý do dẫn đến sự hình thành các quan điểm bảo tồn - phát triển.
Theo Gilmour D.A và Nguyễn Văn Sản (1999), quan điểm bảo tồn và
phát triển là để liên kết việc bảo tồn tài nguyên và những nhu cầu phát triển
địa phƣơng, nói chung bao gồm 3 thành phần chính [6]:
Tác động
bất lợi của
cộng đồng
địa phƣơng
đến TNR
Bậc đạo đức
Bậc thể chế
Bậc kinh tế
Bậc sinh thái
Phát triển
kinh tế xã
hội địa
phƣơng và
bảo tồn
TNR
- Các yếu tố văn hóa
- Các yếu tố tổng
thể, chính sách
- Các yếu tố kinh tế
- Các yếu tố sinh thái
công nghệ
Ảnh hƣởng
Các nhân tố thích hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
- Thứ nhất: Nếu nhu cầu phát triển cộng đồng tại địa phƣơng đó có thể
đƣợc đáp ứng bởi các nguồn thay thế khác thì ảnh hƣởng của nó lên tài
nguyên sẽ đƣợc giảm bớt và tài nguyên đƣợc bảo tồn: Cách tiếp cận các giải
pháp thay thế sinh kế.
- Thứ hai: Nếu cộng đồng rất khó khăn về mặt kinh tế, không thể nào
quan tâm đến việc bảo tồn đƣợc vì những nhu cầu thiết yếu của cộng sống
vẫn còn chƣa đƣợc đáp ứng thì trƣớc hết cần phải nỗ lực cải thiện nền kinh tế
- xã hội của họ đủ tốt để họ có thể quan tâm hơn đến việc bảo tồn tài nguyên:
Cách tiếp cận phát triển kinh tế.
- Thứ ba: Cộng đồng địa phƣơng đó cũng đồng ý với việc bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên nếu nhƣ họ có thể đƣợc tham gia một cách tích cực vào
việc quy hoạch và quản lý sử dụng tài nguyên và đƣợc chia sẻ lợi nhuận từ tài
nguyên đó. Theo cách này tài nguyên có thể đƣợc bảo tồn trong khi ít nhất
một số nhu cầu cơ bản của ngƣời dân địa phƣơng có thể đƣợc đáp ứng thông
qua việc sử dụng và khai thác tài nguyên một cách hợp lý và bền vững: Cách
tiếp cận tham gia quy hoạch.
Những tác động của các CĐĐP vùng đệm ảnh hƣởng tiêu cực tới TNR.
Tuy nhiên với tình hình thực tế tại RĐD Hữu Liên, để cải thiện chất lƣợng
cuộc sống của ngƣời dân chƣa thể đề xuất các giải pháp làm triệt tiêu đƣợc
các tác động đó. Đồng thời cũng không thể nào không quan tâm tới nhiệm vụ
bảo tồn TNR của RĐD Hữu Liên. Mục tiêu của nghiên cứu này là đề xuất
đƣợc các giải pháp làm giảm thiểu đƣợc tác động bất lợi của các CĐĐP vùng
đệm vào TNR, đồng thời hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng. Vì vậy,
trong nghiên cứu này, cách tiếp cận thứ nhất và thứ ba đƣợc áp dụng để thực
hiện nội dung nghiên cứu.
2.5.1.4.Tiếp cận có sự tham gia trong nghiên cứu .
Sự tham gia đƣợc định nghĩa nhƣ là một quá trình, thông qua đó các
chủ thể cùng tác động và chia sẻ những sáng kiến phát triển và cùng quyết
định. Điều quan trọng là ngƣời dân địa phƣơng có khả năng trao đổi các triển