Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

PHÂN TÍCH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.32 KB, 28 trang )

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
VẤN ĐỀ THẢO LUẬN
PHÂN TÍCH ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY
Giáo viên hướng dẫn: BÙI THỌ QUANG
NHÓM 4 - LỚP 06
Thành viên nhóm:
Trương Thị Hà Trang
Trương Thị Phương Linh
Bùi Thị Trà
Hoàng Thị Thuý
Đồng Khánh Sơn
Trịnh Thị Dung
Hoàng Văn Long
Đặng Quang Đông
Phạm Đức Hưng
Lê công Huy
Uyên
Duyệt
Hồng Anh
Linh
Khánh
NỘI DUNG:
1. Phân tích đường lối xây dựng và phát triển văn
hoá trước năm 1986.
2. Đánh giá thực hiện đường lối trước đổi mới.
3. Phân tích đường lối xây dựng và phát triển văn
hoá từ năm 1986 đến nay.
a.Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và


phát triển nền văn hoá từ 1986 đến nay
b. Quan điểm chủ trương của Đảng về xây
dựng, phát triển văn hoá thời kỳ đổi mới
4. Đánh giá thực hiện đường lối trong thời kỳ đổi
mới.
1. Phân tích đường lối xây dựng và phát triển văn hoá trước năm
1986.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối
xây dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng
xây dựng nền văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính
chất xã hội chủ nghĩa. Văn hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là
mục tiêu bao trùm của sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời là động lực, nền tảng vững chắc nhất của cách mạng.
- Trong quá trrình vận động cách mạng giành chính quyền, năm 1943 Ban
thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La (Đông Anh, Phú Yên) đã thông
qua bản Đề cương văn hoá Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trực tiếp dự
thảo.
+ Đề cương văn hoá Việt Nam xác định văn hoá là một trong ba mặt trận: kinh
tế, chính trị, văn hoá của cách mạng Việt Nam.
+ Bản đề cương đề ra 3 nguyên tắc của nền văn hoá mới là Dân tộc - Khoa học -
Đại chúng.
+ Bản đề cương đã xác định khái niệm văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật
và nghệ thuật, những vấn đề cơ bản của đời sống tinh thần xã hội.
+ Bản đề cương khẳng định văn hoá mới Việt Nam có tính chất dân tộc về hình
thức và tân dân chủ về nội dung.
Có thể coi Đề cương chính là cương lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng
giải phóng dân tộc, là phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật
trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực
dân Pháp và cả những năm sau đó, khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền
Bắc, vừa kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

- Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá.
+ Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt.
+ Hai là, phải giáo dục lại tinh thần nhân dân.
Đây là hai nhiệm vụ hết sức khiêm tốn nhưng lại vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác
và tính thời sự của nó.
- Cuộc vận động thực hiện đời sống văn hoá mới. Đầu năm 1946 Ban Trung
ương vận động đời sống mới được thành lập với sự tham gia của nhiều nhân vật
có uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè , mà tổng thư ký
là nhà Văn Nguyễn Huy Tưởng. Đến tháng 3/1947 Hồ Chí Minh viết tài liệu đời
sống mới giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong chủ trương văn hoá
quan trọng này.
- Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc" ra ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng, trong bức thư
về "Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước
hiện nay" của đồng chí Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày
16/11/1946 và tại báo cáo "Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam" trình bày tại
Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948.
Đường lối đó gồm các nội dung:
+ Xác định mối quan hệ giữa văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động
văn hoá cứu quốc.
+ Xây dựng nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học,
đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là Dân tộc, Dân chủ.
+ Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo
tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ.
+ Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới.
+ Phát triển cái hay trong văn hoá dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại,
ngăn ngừa sức thâm nhập của văn hoá thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt
của văn hoá thế giới.

+ Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến
kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.
- Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền
văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến
hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng
khoa học kỹ thuật.
- Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá
mới xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc - khoa học - đại chúng tiếp tục
được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định "Xây dựng
con người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng
viên và quần chúng, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của
chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột".
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá
mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng
và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
vô sản. Đại hội V cũng trình bày rất đầy đủ về khái niệm "Con người mới xã hội
chủ nghĩa" và đưa ra phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá".
2. Đánh giá thực hiện đường lối trước đổi mới.
Như vậy, trước đổi mới, đường lối văn hoá của Đảng đã hình thành và phát triển
trên những nét cơ bản nhất: nêu ra quan niệm về văn hoá, cả theo nghĩa rộng là
tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá
trình lịch sử và theo nghĩa hẹp, gồm các giá trị văn hoá tinh thần, văn hoá văn
nghệ; mục tiêu của văn hoá là phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân làm rõ vị
trí của văn hoá là động lực và là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, đưa ra
những đặc trưng của nền văn hoá mới là dân tộc, khoa học và đại chúng, chỉ ra
sự cần thiết của công tác lãnh đạo văn hoá và các hình thức lãnh đạo văn hoá
của Đảng; xác định xây dựng nền văn hoá mới là một mặt trận

Nhờ được soi sáng bởi đường lối lãnh đạo phát triển văn hoá đúng đắn, văn hoá
cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn:
+ Khơi dậy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, kết hợp
với những giá trị tiến bộ và phù hợp của nhân loại và thời đại, tạo nên sức mạnh
vật chất và tinh thần đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc.
+ Định hình cơ bản những giá trị văn hoá mới của dân tộc gắn với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên
nhiều lĩnh vực văn hoá, đi sâu vào đời sống nhân dân.
+ Góp phần tích cực vào việc xoá bỏ những tàn dư của nền văn hoá thực dân
cùng với những hủ tục lạc hậu gây tổn hại tới bản chất của nền văn hoá mới.
+ Góp phần xây dựng đội ngũ trí thức hoạt động trên các lĩnh vực văn hoá, nghệ
thuật, không ngừng nâng cao về trình độ, chất lượng sáng tác.
+ Trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối
sống mới đã trở thành phổ biến, con người sống có nghĩa, có tình, có tấm lòng
hậu phương vì tiền tuyến, có tinh thần xả thân vì tổ quốc.
+ Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ là
thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ
nghĩa yêu nước và những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam.
 Hạn chế, nguyên nhân
+ Công tác tư tưởng văn hoá thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu. Việc xây dựng
thể chế văn hoá còn chậm, sự suy thoái về đạo đức lối sống có chiều hướng phát
triển. Đời sống văn hoá nghệ thuật còn nhiều bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh
cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Một
số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể truyền thống có giá trị không được
quan tâm bảo tồn, lưu giữ, thậm chí bị phá huỷ, mai một.
+ Đường lối xây dựng, phát triển văn hoá giai đoạn 1955 - 1986 bị chi phối bởi
tư duy chính trị "nắm vững chuyên chính vô sản" mà thực chất là nhấn mạnh
đấu tranh giai cấp, đấu tranh "ai thắng ai" giữa hai con đường, đấu tranh hai phe,
đấu tranh ý thức hệ.
+ Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá giai đoạn này cũng bị

quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để
xoá bỏ tư hữu, xoá bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực
lượng sản xuất.
+ Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao
cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hoá,
giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo.
3. Phân tích đường lối xây dựng và phát triển văn hoá từ năm
1986 đến nay.
a) Quá trình đổi mới tư duy về xây dựng và phát triển nền văn hoá từ
1986 đến nay.
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức
mới, quan điểm mới về văn hoá. Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá,
đối với con người thực chất là trở về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ
sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về văn hoá của Đảng.
Xác định khoa học - kỹ thuật là một động lực to lớn đẩy mạnh quá trình phát
triển kinh tế - xã hội; có vị trí then chốt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng nào
có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người".
Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có
đặc trưng tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hoá mới, tạo ra đời sống tinh thần
cao đẹp, phong phú, đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ, khẳng
định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái
mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời thấp kém.
+ Cương lĩnh khẳng định tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy

những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả cấc dân tộc trong nước, tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.
+ Cương lĩnh xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu.
- Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung ương tiếp theo đã xác
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong đó:
+ Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa học
và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn,
lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Do đó phải coi sự nghiệp giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để phát
huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.
+ Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII (7/1998) nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ
đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn
hoá trong thời kỳ mới.
* Năm quan điểm chỉ đạo:
1. Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ thì
không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế
phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát
triển toàn diện.
2. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

- Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (01/2004): xác định phát triển văn hóa đồng
bộ với phát triển kinh tế.
- Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX (7/2004): đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết
giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa – nền tảng tinh thần của xã
hội. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vị trí của
văn hóa và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác khác.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX nhận định về sự biến đổi của văn hóa trong
quá trình đổi mới: cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế làm thay đổi mối quan
hệ giữa cá nhân và cộng đồng, thúc đẩy dân chủ hóa đời sống xã hội, đa dạng
hóa thị hiếu và phương thức sinh hoạt văn hóa; do đó, phạm vi, vai trò của dân
chủ hóa – xã hội hóa văn hóa và của cá nhân ngày càng tăng và mở rộng là
những thách thức mới đối với sự lãnh đạo và quản lý công tác văn hóa của Đảng
và Nhà nước.
Do đó, từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đến Đại hội Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ X đã hình thành từng bước nhận thức mới về đặc trưng,
vai trò, vị trí của nền văn hóa mới trong phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hóa,
chỉ đạo hoạch định các chính sách văn hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
b) Quan điểm chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hoá thời
kỳ đổi mới
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
- Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một

hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.
- Là nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con
người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các
thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội
của từng dân tộc; đồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư
tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn
hóa.
Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó
làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để
phát triển.
Chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội,
trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng
con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy
lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ.
Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa,
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
- Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo
ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên
cội nguồn bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia
dân tộc là văn hóa.
- Động lực của sự phát triển kinh tế một phần quan trọng nằm trong những
giá trị văn hóa đang được phát huy (hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực
của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế
- xã hội càng hiện thực và bền vững bấy nhiêu).
- Trong nền kinh tế thị trường, một mặt, văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy
người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay
nghề, mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,

của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái
tiền tệ,
- Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan
trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh
tế thế giới.
- Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp
hạn chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của "xã hội tiêu thụ", dẫn
đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái.
- Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa, nó
đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự
phát triển bền vững của hiện tại và tương lai.
Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
- Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh" chính là mục tiêu văn hóa.
- Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, Đảng ta xác định:
"Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con
người". Đồng thời, nêu rõ yêu cầu "tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến
bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường". Phát triển
hướng tới mục tiêu văn hóa - xã hội mới bảo đảm phát triển bền vững,
trường tồn.
- Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển,
chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
với phát triển kinh tế - xã hội.
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy
nhân tố con người và xây dựng xã hội mới:
- Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực, trong đó, tri thức
của con người là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không
bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả
nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc
- Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm mục tiêu vì con người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu
hiện và các phương tiện chuyển tải nội dung.
- Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp trong quá trình dựng nước
và giữ nước.
o Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống,
Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính
dân tộc độc đáo.
o Là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc
về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ được
tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán trong quá trình phát
triển
là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên
tự ý thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh
tranh và hợp tác để tồn tại và phát triển.
o Thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng được
thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của
nền văn hóa.
o Phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế - xã hội - chính trị
của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế
thế giới, giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích
cực văn hóa, văn minh nhân loại.
o Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được

thấm đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, sao cho
trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa hiện
đại, vừa mang sắc thái Việt Nam.
Trong thời kỳ kinh tế thị trường, nước ta mở rộng giao lưu quốc tế; thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cần tiếp thu những tinh hoa của nhân
loại, song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam
- Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng,
là sự hòa quyện bình đẳng, và sự phát triển độc lập của văn hóa các dân
tộc sống trên cùng lãnh thổ Việt Nam.
- Mỗi dân tộc trên đất nước đều có truyền thống và bản sắc văn hóa riêng
của mình, Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền
văn hóa Việt Nam thồng nhất và củng cố sự thống nhất dân tộc.
Cả cộng đồng dân tộc Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất
bao hàm cả tính đa dạng - đa dạng trong sự thống nhất. Không có sự đồng
hóa hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
- Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hóa nước nhà.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân. Giai cấp
công nhân, nông dân, trí thức là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong xây
dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân
dân lao động, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện
phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp phát triển
của nền văn hóa dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.

- Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục - đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
- Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) khẳng định: cùng với giáo dục
- đào tạo, khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là động
lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất
cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
củng cố quốc phòng và an ninh, là nền tảng và là động lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
- Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân.
Năm là, giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ được coi là quốc sách
hàng đầu.
Văn hóa theo nghĩa rộng thì bao hàm cả giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ.
Đại hội VI (năm 1986), Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII ( T12-1996) khẳng
định: cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghiệp là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế - XH, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc
lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH. Khoa học và công nghệ là nội dung
then chốt trong mọi hoạt động cảu tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng cố quốc phòng – an ninh.
 Chủ trương:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế
quản lí, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiên “chuẩn hóa, hiện đại
hóa, XH hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” , chấn hưng nền giáo dục
VN.
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô
hình XH học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông
giữa các bậc học, ngành học; tạo nhiều khả năng , cơ hội khác nhau cho

người học, bảo đảm sự công bằng XH trong giáo dục.
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non và phổ thông. Chuẩn bị tích cực để
từ sau năm 2015 thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
- Phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử
dụng, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia
đầu ngành. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
- Bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các
cấp học, bậc học. Cải tiến nội dung và phương pháp thi cử nhằm đánh giá
đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập.
- Thực hiện XH hóa giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của
XH tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra,
giám sát các hoạt động giáo dục.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo
- Phát triển khoa học XH, tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí
luận về con đường đi lên chủ nghĩa XH ở nước ta.
- Phát triển khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ, tập trung nghiên cứu
cơ bản đinh hướng ứng dụng, đặc biệt các lĩnh vực VN có nhu cầu và thế
mạnh.
- Đổi mới cơ chế quản lí khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc
tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Sáu là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Văn hoá là một mặt trận của cách mạng VN, quan trọng và gian khổ không kém
mặt trận kinh tế, mặt trận chính trị. Hoạt động xây và chống trong văn hoá là
quá trình cách mạng lâu dài khó khăn phức tạp và cần có ý chí cách mạng có
tính chiến đấu tính kiên trì thận trọng, đòi hỏi nhiều thơi gian.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm cho những
giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ, văn minh
là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp.

Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với
việc giữ gìn và phát huy những di sản quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp những giá trị mới, phải kiên trì đấu tranh bài trừ
các hủ tục, các thói hư tật xấu, chống âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện
“diễn biến hòa bình”.
4. Đánh giá thực hiện đường lối trong thời kỳ đổi mới.
Trải qua chặng đường dài ¼ thế kỷ, công cuộc đổi mới ở nước ta đã thu được
những thành tựu mang ý nghĩa lịch sử, song bên cạnh đó vẫn không thể tránh
khỏi những mặt hạn chế nhất định trong việc thực hiện đường lối xây dựng và
phát triển nền văn hóa.
Những thành tựu chủ yếu về văn hoá trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua:
1. Nhiều nhân tố mới, giá trị mới về văn hoá đã xuất hiện, được công nhận, bổ
sung cho những giá trị truyền thống; văn hoá đã tham gia có hiệu quả vào phát
triển con người Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Trước những tác động rất phức tạp từ sự chao đảo của các khuynh hướng tư
tưởng và chính trị trên thế giới, ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp tục được khẳng định là nền tảng tư tưởng, mà còn
được phát triển với một số kết quả nghiên cứu mới về những giá trị phương
pháp luận, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối đổi mới và phát triển đất
nước. Nhiều giá trị văn hoá, đạo đức được cộng đồng xã hội đề cao, các phong
trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, “lá lành đùm lá rách”… diễn
ra sôi động và ngày càng có tác dụng thiết thực. Tính năng động, tính tích cực
của công dân, năng lực của cá nhân được khuyến khích phát triển. Con người
Việt Nam đã trở nên năng động hơn, có khả năng sáng tạo rõ hơn trong môi
trường kinh tế thị trường và hội nhập với thế giới; nhu cầu tinh thần, vật chất,
sinh hoạt đã thực sự thay đổi; những giá trị nhân văn theo chuẩn mực mới, lành
mạnh hơn được thừa nhận, từng bước có tác dụng định hướng cho hoạt động của
các cá thể và cộng đồng xã hội…
2. Cuộc vận động xây dựng môi trường văn hoá tiến bộ, lành mạnh đã và đang
trở thành phong trào xã hội rộng lớn, thu hút sự tham gia của các tổ chức trong

hệ thống chính trị, các lực lượng xã hội, và của đông đảo các tầng lớp nhân
dân.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã được triển khai
rộng khắp, bắt đầu từ mỗi gia đình, làng bản, đơn vị, cơ quan, trường học… đã
có tác dụng động viên ý thức tự giác của mỗi người, thúc đẩy quá trình nhập
thân văn hoá của mỗi người. Cuộc vận động xây dựng gia đình văn hoá đạt được
những kết quả nhất định cả về chất lượng và số lượng. Nếp sống văn minh trong
đời sống cá thể và trong cưới xin, ma chay, lễ hội được chú trọng. Các lễ hội cổ
truyền được khôi phục, phát triển, có tác dụng tích cực trong việc kết nối quá
khứ với hiện tại…
3. Văn học, nghệ thuật đã có những bước phát triển mới. Sáng tác và hoạt động
phổ biến văn hoá, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng. Số lượng các tác
phẩm văn học, nghệ thuật tăng lên đáng kể, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thẩm mỹ
ngày càng tăng của nhân dân.
Từ năm 1986 đến nay, lĩnh vực văn học, nghệ thuật Việt Nam đã có những biến
đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Nhiều nhân tố, khuynh hướng tìm tòi mới xuất hiện. Đời
sống xã hội và cuộc sống của con người với các chiều cạnh đa dạng đã được
phản ánh, phát hiện trong nhiều loại hình văn học, nghệ thuật. Các tác phẩm văn
hoá về đề tài cách mạng, kháng chiến tiếp tục được duy trì, có chiều hướng tăng
lên, có những phát hiện mới, góp phần nâng cao giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Đề tài lịch sử dân tộc tiếp tục được tái hiện, đặc biệt là ở nhiều loại hình
nghệ thuật, trong đó có một số tác phẩm được đầu tư khá công phu. Hoạt động
nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản các công trình về sử thi, ca dao, dân ca và nhạc cổ
truyền được đẩy mạnh. Sân khấu tiếp tục có những tìm tòi, tìm được những
hướng đi mới kết hợp giữa truyền thống với hiện đại. Hàng năm, số lượng và thể
loại điện ảnh được đầu tư và ra mắt công chúng tăng khá đều. Hoạt động sáng
tác mỹ thuật có nhiều tìm tòi về cách thức biểu đạt ngôn ngữ riêng, về phong
cách và đã tổ chức được nhiều cuộc triển lãm, mở rộng giao lưu văn hoá trong
nước và với nhiều nước trên thế giới. Sinh hoạt âm nhạc và thị trường các sản
phẩm âm nhạc sôi động, thu hút sự quan tâm của lớp trẻ. Các ngành nghệ thuật

múa, nhiếp ảnh, kiến trúc, văn nghệ dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ. Các hội
văn học nghệ thuật có sự gia tăng về số lượng và đã tổ chức được nhiều hình
thức hoạt động mới, có tác dụng tích cực đối với đời sống xã hội…
4. Trong quá trình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
đổi mới và phát triển văn hoá, đại bộ phận trong nhân dân ta ngày càng ý thức
sâu sắc hơn về một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng – một nhân tố cơ bản
và sống còn của văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hơn 20 năm qua, văn hoá của 54 dân tộc có điều kiện phát triển thuận lợi hơn
hẳn so với thời kỳ trước đổi mới trong một quốc gia thống nhất. Văn hoá truyền
thống của đồng bào các dân tộc thiểu số được coi trọng. Nhiều giá trị văn hoá
được phát huy, được đặt trong các kế hoạch bảo tồn, do vậy đã góp phần quan
trọng vào việc củng cố, nâng cao tinh thần đoàn kết và bình đẳng giữa các dân
tộc. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá (bắt đầu được thực hiện từ năm
1997) đã dành nhiều dự án cho việc duy tu, bảo tồn, nâng cấp các di sản văn hoá
của các dân tộc thiểu số. Các tài sản văn hoá vật thể và phi vật thể của đất nước,
ở nhiều vùng, miền được tìm tòi, có những phát hiện mới mang lại những giá trị
bổ ích về tinh thần và phục vụ thiết thực cho phát triển ngành du lịch. Mức
hưởng thụ và đời sống văn hoá của nhân dân ta nói chung, và của đồng bào các
dân tộc được cải thiện, nâng cao. Hoạt động giao lưu văn hoá - nghệ thuật giữa
các dân tộc được tổ chức với các hình thức ngày càng đa dạng, sinh động ở
những quy mô khác nhau, đã có ảnh hưởng tích cực đến tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển…
5. Bản sắc văn hoá dân tộc được chú trọng gìn giữ; đồng thời các hoạt động
giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá được mở rộng, phát triển.
Kho tàng văn hoá nghệ thuật truyền thống được bảo tồn. Văn học chữ viết của
các thế hệ trước được sưu tầm, biên tập, chú giải, nghiên cứu chu đáo, cẩn thận.
Nhiều di sản của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới (Cố
đô Huế, Khu phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ Sơn, Động Phong
Nha-Kẻ Bàng…) và một số di sản được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di
sản văn hoá phi vật thể của nhân loại (Nhã nhạc Cung đình Huế…). Hàng trăm

di tích cách mạng và kháng chiến, nhiều di tích kiến trúc – nghệ thuật đã được
Nhà nước cấp kinh phí để bảo tồn, trùng tu, nâng cấp. Việc xã hội hoá hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị các di tích văn hoá đã được mở rộng, có nhiều kết
quả thiết thực. Nhiều di tích khảo cổ đã được tổ chức khai quật, có những phát
hiện mới có giá trị lớn về lịch sử – văn hoá (điển hình như Hoàng Thành Thăng
Long, di tích Lung Leng -KonTum…).
Trước 1986, Việt Nam mới chỉ có quan hệ hợp tác, trao đổi văn hoá với khoảng
20 nước trên thế giới (chủ yếu là những nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Cuba…). Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua,
quan hệ trong lĩnh vực này đã được mở rộng đáng kể, với khoảng 50-60 nước ở
khắp các châu lục, và đã có khoảng 50 hiệp định, chương trình hợp tác về văn
hoá giữa Việt Nam với các nước được ký kết. Việt Nam cũng tham gia hầu hết
các tổ chức quốc tế quan trọng về văn hoá như UNESCO, ACCU, ICOM,
FIAF…; đã và đang trở thành một địa chỉ giao lưu văn hoá có uy tín ở khu vực
và quốc tế.
6. Yếu tố văn hoá trong các tôn giáo, tín ngưỡng đã được chú trọng kế thừa,
phát huy, góp phần nâng cao ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện, ổn định
chính trị – xã hội.
Nhiều hoạt động văn hoá của các tôn giáo đã được hoà đồng với văn hoá chung
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tạo nên sự đoàn kết trong các địa bàn dân
cư; có tác dụng động viên nhân dân cùng nhau xây dựng kinh tế, xoá đói, giảm
nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần theo phương châm “gắn
bó dân tộc với đạo pháp”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”, “sống
phúc âm trong lòng dân tộc”, “đạo pháp, dân tộc và CNXH”…
7. Cơ sở vật chất cho hoạt động văn hoá thông tin được đầu tư và phát triển.
Hệ thống nhà văn hoá được quan tâm xây dựng từ Trung ương đến các thôn,
xóm, làng, bản. Hệ thống thư viện được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới ở hầu
khắp các tỉnh, thành phố, ở nhiều huyện, thị xã. Các thư viện lớn đều đã áp dụng
công nghệ thông tin để phục vụ bạn đọc. Hệ thống bảo tàng cũng phát triển khá
mạnh. Hệ thống công nghiệp điện ảnh được mở rộng, với khoảng trên 30 hãng

phim, hàng chục rạp chiếu bóng, trong đó đáng kể là Trung tâm chiếu phim
quốc gia (ở Hà Nội) và các tỉnh, thành phố khác, và nhìn chung đều được đầu tư
hiện đại hoá. Hệ thống nhà hát cũng được mở rộng, nâng cấp. Hệ thống công
viên văn hoá, khu du lịch văn hoá - sinh thái và các tụ điểm vui chơi, giải trí
cũng được mở mang, phát triển. Đặc biệt, đã có hàng triệu hiện vật gốc là các di
vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được sưu tầm, bảo quản, trưng bày và giới
thiệu…
8. Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,7% GDP. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt cao. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010
tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình
quân đầu người đạt 1.168 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều
có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là
sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông thôn
và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lượng
cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp đã có tác
động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói, giảm nghèo. Sản phẩm
công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất
lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung
cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất
khẩu. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu
vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng có sự
chuyển dịch tích cực.
9. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá được chú trọng hơn;

đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.
Đổi mới giáo dục đạt một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo
dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã
hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp
tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt
40% tổng số lao động đang làm việc.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ được đẩy mạnh,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý khoa học, công nghệ có
đổi mới, thực hiện cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ.
Thị trường khoa học, công nghệ bước đầu hình thành. Đầu tư cho khoa học,
công nghệ được nâng lên.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng,
từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” từng bước đi vào
chiều sâu. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Chỉ số phát triển con người ngày càng tăng lên. Quyền và các lợi ích
hợp pháp của công dân được tôn trọng và bảo đảm.
 Ý nghĩa thực tiễn
Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền văn hóa mới đã bước
đầu được tạo dựng; quá trình đổi mới tư duy, xây dựng con người phát triển rõ
rết; hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng.
Giáo dục đào tạo có bước phát triển mới. Quy mô giáo dục mở rộng, chất lượng
có chuyển biến. Dân trí tiếp tục được nâng cao.
Khoa học và công nghệ phát triển hơn, phục vụ thiết thực hơn cho nhiệm vụ
phát triển kinh tế – xã hội.
Đời sống văn hóa và nếp sống văn minh có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong
cả nước.
Những thành tựu thực tiễn chứng tỏ đường lối, chính sách văn hóa của Đảng và

nhà nước đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho sự
phát triển đời sống văn hóa. Những thành tựu này cũng là kết quả của sự tham
gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực rất lớn của các lực lượng hoạt động
trên lĩnh vực văn hóa.
 Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, có thể rút
ra một số kinh nghiệm :
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường
lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở
rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức
trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng
hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực
trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh
tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu,
vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển
kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ
đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương;
giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, gắn bó

mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững
vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu
cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng
tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các
giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự
đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Những thành tựu và ảnh hưởng tích cực của phát triển văn hoá đến đời sống kinh tế –
xã hội của đất nước trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua là không thể phủ nhận; tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng còn những mặt hạn chế rất đáng lo ngại, đã và đang gây ra
những tác động rất bất lợi đến uy tín của Đảng, của Nhà nước và triển vọng phát triển
của đất nước.
Một là, kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước;
một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch.
Hai là, chưa tạo ra được những thiết chế xã hội, cơ chế chính sách và động lực
thực sự bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa con người với con người, giữa các
cộng đồng xã hội, giữa các chủ thể… vì sự phát triển.
Ba là, sự xuống cấp về văn hoá - đạo đức đã và đang diễn ra khá phổ biến ở một
bộ phận không nhỏ trong cộng đồng xã hội, trở thành một vấn nạn xã hội rất
nhức nhối, biểu hiện ở sự suy thoái về tư tưởng chính trị; sự gia tăng của lối
sống thực dụng; ở các tệ nạn tham nhũng, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, ăn chơi sa
đọa…
Bốn là, chất lượng của các tác phẩm văn hoá nghệ thuật, nhìn chung, chưa đáp
ứng được nhu cầu và trình độ ngày càng cao của nhân dân.
Năm là, không ít cán bộ lãnh đạo, quản lý vẫn không nhận thức đầy đủ về vai
trò của văn hoá đối với phát triển, trong suy nghĩ, chỉ đạo và điều hành thường

nghiêng về lợi ích kinh tế trước mắt, xem nhẹ văn hoá. Nhìn chung, đầu tư cho
phát triển văn hoá còn thấp; lúng túng trong việc tổ chức thực hiện xã hội hoá

×