Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

nghiên cứu tính đa dạng thực vật trong một số thảm thực vật tự nhiên ở xã ký phú, huyện đại từ tỉnh thái nguyên làm cơ sở cho công tác bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.15 KB, 101 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN HỮU QUYỀN




NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT
SỐ TRẠNG THÁI THẢM THỰC VẬT TỰ NHIÊN Ở XÃ KÝ
PHÖ, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN LÀM CƠ SỞ
CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC











THÁI NGUYÊN – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





NGUYỄN HỮU QUYỀN




NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT TRONG MỘT
SỐ TRẠNG THÁI THẢM THỰC VẬT TỰ NHIÊN Ở XÃ KÝ
PHÚ, HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN LÀM CƠ SỞ
CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN

CHUYÊN NGÀNH: SINH THÁI HỌC
MÃ SỐ: 60.42.60

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC






Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ NGỌC CÔNG





THÁI NGUYÊN – 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lê Ngọc Công -
người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm
quý báu để em có thể hoàn thành luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo Khoa Sinh-
KTNN trường Đại học Sư phạm, khoa Sau Đại học - Đại học Thái Nguyên đã
nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại
trường.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn UBND xã Ký Phú, Chi cục Kiểm lâm
tỉnh Thái Nguyên, phòng Thống kê huyện Đại Từ!
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường THPT Lưu Nhân
Chú- Đại Từ và Trường PT Vùng Cao Việt Bắc – tỉnh Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học Cao học!
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua!
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về mặt thời gian,
kinh phí cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong nhận được những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà
khoa học, cùng bạn bè, đồng nghiệp!

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày 26 tháng 9 năm 2011
Tác giả

Nguyễn Hữu Quyền
Luận văn đã được chỉnh sửa theo góp ý của hội đồng bảo vệ luận văn
ngày 24/09/ năm 2011 tại Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên

Trƣởng khoa Sinh – KTNN



PGS. TS Lê Ngọc Công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa khọc: “Nghiên cứu
tính đa dạng thực vật trong một số trạng thái thảm thực vật tự nhiên
ở xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên làm cơ sở cho công
tác bảo tồn ” là hoàn toàn của tôi.























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt
Viết đầy đủ
CR
Loài rất nguy cấp
EN
Nguy cấp
VU
Sẽ nguy cấp
EX
Loài tuyệt chủng
IUCN

The International Union for Conservation of
Nature and Natural Resources - Tổ chức Bảo tồn
thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế
KVNC
Khu vực nghiên cứu
NXB
Nhà xuất bản
ODB
Ô dạng bản
OTC
Ô tiêu chuẩn
TĐT
Tuyến điều tra
TCN
Trước công nguyên
UBND
Uỷ ban nhân dân









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH


Bảng 2.1: Số hộ, số khẩu và các dân tộc trên địa bàn xã Ký Phú………….…… 29
Bảng 4.1: Số lượng và tỷ lệ (%) sự phân các taxon thực vật ở KVNC ………… 38
Bảng 4.2: Số lượng và tỷ lệ (%) các họ, chi, loài trong các trạng thái thảm thực vật
ở KVNC………………………………………………… ……………………….40
Bảng 4.3: Các chi có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật ở KVNC
……………………………………………… ………………… ……………… 41
Bảng 4.4: Các họ có từ 2 loài trở lên trong các trạng thái thảm thực vật ở KVNC
……………….…………………………………………………………………… 46
Bảng 4.5: Danh lục các loài thực vật điều tra được trong các trạng thái thảm thực
vật ở KVNC…………………….………………………………………………….48
Bảng 4.6: Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu……………… …….65
Bảng 4.7: Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật……….…….66
Bảng 4.8: Các loài thực vật có nguy cơ bị tuyệt chủng ở KVNC…………………72
Hình 4.1. Biểu đồ : Phân bố của các bậc taxon ở KVNC…………………….… 40
Hình 4.2. Biểu đồ : Tỷ lệ các họ, chi và loài trong các trạng thái thảm thực vật ở
KVNC …………………………………………………………………………… 41
Hình 4.3. Biểu đồ : Thành phần dạng sống trong khu vực nghiên cứu………… 66
Hình 4.4. Biểu đồ : Thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật… 67









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 1
1. Đặt vấn đề……………………………………………………………………… 1
2. Mục tiêu nghiên cứu……………………………………… …………………….2
3. Phạm vi nghiên cứu…………………………………… ……………………… 3
4. Đóng góp mới của luận văn……………………………… …………………… 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU……………………… ……………… 4
1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và Việt Nam 4
1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật…………………………………… … 4
1.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật……………………………… ………… 7
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu trúc… …9
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài………………………… ……………9
1.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống……………….……………… 14
1.2.3. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng…………………………….………… 17
1.3. Những nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng… 20
1.4. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ở Thái Nguyên và khu
vực nghiên cứu………………………………………………………………….….22
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU… ….24
2.1. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu………………………… ………………24
2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới 24
2.1.2. Địa hình 24
2.1.3. Đất đai 25
2.1.4. Khí hậu, thủy văn 25
2.1.5. Tài nguyên khoáng sản 27
2.1.6. Tài nguyên rừng 28
2.2. Điều kiện xã hội vùng nghiên cứu………………………………… ……… 28
2.2.1. Dân số, dân tộc 28
2.2.2. Hoạt động nông lâm nghiệp 30
2.2.3. Giao thông, thủy lợi 31
2.2.4. Văn hóa, giáo dục, y tế 31
2.2.5. Điện, nước sạch 31

Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU… …………33
3.1. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………….………… 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3.2. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………….…………….33
3.2.1. Phương pháp tuyến điều tra (TĐT) và ô tiêu chuẩn (OTC) 33
3.2.2. Phương pháp thu thập số liệu 34
3.2.3. Phương pháp phân tích mẫu thực vật 34
3.2.4. Phương pháp điều tra trong nhân dân 35
3.2.5. Phương pháp kế thừa 35
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU…………………… ………………… 36
4.1. Đa dạng các trạng thái thảm thực vật ở KVNC…………… ……………… 36
4.1.1. Trạng thái thảm cỏ…………………………………… ……………………36
4.1.2. Trạng thái thảm cây bụi……………………………………… ……………36
4.1.3. Trạng thái rừng thứ sinh nhân tác 37
4.1.4. Trạng thái rừng trồng 37
4.1.5. Trạng thái cây nông nghiệp 37
4.2. Đa dạng về hệ thực vật trong KVNC………………………… …………… 37
4.2.1. Đa dạng các bậc taxon trong các trạng thái thảm thực vật ở KVNC……… 38
4.2.2. Đa dạng về số chi và số họ trong các trạng thái thảm thực vật…………… 40
4.2.3. Đa dạng thành phần dạng sống trong các trạng thái thảm thực vật…………65
4.2.4. Đa dạng tài nguyên cây có ích trong các trạng thái thảm thực vật………….71
4.2.5. Các loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng trong KVNC ……………… … 72
4.3. Các nguy cơ gây suy giảm đa dạng sinh học ở KVNC…………… ……… 73
4.3.1. Khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trái phép…………………………………74
4.3.2. Sự suy giảm do cháy rừng……………………………………….………… 76
4.3.3. Sự suy giảm do gia tăng dân số………………………………….………… 77
4.3.4. Sự suy giảm do đói nghèo của các cộng đồng dân cư sinh sống trong
khu vực nghiên cứu……………………………….……………………………… 78
4.4. Đề xuất một số biện pháp nhằm bảo tồn các trạng thái thảm thực vật ở

KVNC………………………………………………… ………………………….79
4.4.1. Các biện pháp về chính sách……………………………… ……………….79
4.4.2. Các biện pháp về quản lý, bảo vệ và phục hồi thảm thực vật…………… 80
4.4.3. Các biện pháp về kỹ thuật…………………………… …………………….81
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ…………………………………… ……………… 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO.………………………… …84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Rừng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với con người. Nếu không có
rừng thì xã hội loài người sẽ không thể tồn tại được. Trong vài thập kỷ gần
đây do sự tàn phá của chiến tranh, do những sai lầm trong công cuộc “ phát
triển nhanh” của đất nước làm cho rừng của nước ta bị suy thoái nặng nề, độ
che phủ giảm sút đến mức báo động, chất lượng của rừng cũng bị hạ thấp quá
mức. Những sự mất mát về rừng là khó có thể bù đắp được và đã gây nhiều
tổn thất lớn về kinh tế, về công ăn việc làm và cả về phát triển kinh tế xã hội
một cách lâu dài. Loài người đã và đang phải hứng chịu những tổn thất do
việc mất rừng gây ra.
Hiện nay khi dân số tăng nhanh, nhu cầu cải thiện đời sống con người
ngày càng được nâng cao, sự phát triển mạnh của công nghiệp đã dẫn tới khai
thác quá mức tài nguyên rừng, thu hẹp diện tích đất rừng… gây hậu quả nghiêm
trọng cho các vùng sinh thái trên thế giới. Ban đầu diện tích rừng chiếm 6 tỉ ha
trên bề mặt trái đất, diện tích này còn 4,4 tỉ ha năm 1958 đến năm 1973 còn 3,8 tỉ
ha. Hiện nay diện tích rừng còn khoảng 2,9 tỉ ha. Các nhà khoa học đã dự báo
rằng hàng năm trên thế giới bị mất 16,7 triệu ha rừng. Nếu tiếp tục đà này trong
vòng 166 năm nữa, trên trái đất sẽ không còn rừng [60]
Ở Việt Nam, theo P.Maurand thì năm 1943 có 14,352 triệu ha rừng

chiếm 43% diện tích đất nước [60]
Từ năm 1945 – 1975 nước ta mất 3 triệu ha, tỉ lệ che phủ của rừng giảm
từ 43% (1943) xuống còn 38% (1975). Từ năm 1975 – 1995 tỉ lệ che phủ của
rừng giảm xuống còn 28% (1995), cả nước chỉ còn khoảng 9,3 triệu ha rừng
( trong đó có 1 triệu ha rừng trồng) [9]. Hiện nay diện tích rừng bị giảm ước
tính vào khoảng 200.000 ha/năm trong đó 60.000 ha bị chặt để chuyển thành
đất nông nghiệp ngoài kế hoạch, 50.000 ha bị cháy và 90.000 ha bị khai thác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
làm gỗ củi. Trong khi đó tốc độ trồng rừng khoảng 50.000 – 100.000 ha/năm
không thể bù lại tốc độ mất rừng [52].
Chính vì vậy, những năm gần đây Đảng và nhà nước ta hết sức chú trọng vấn
đề bảo vệ, phát triển và phục hồi rừng nói riêng và thảm thực vật nói chung.
Thảm thực vật là đối tượng chịu tác động không ngừng của các nhân tố vô
sinh và hữu sinh, đồng thời còn là nơi xảy ra quá trình diễn thế, quá trình
phục hồi và suy thoái rừng. Để xây dựng kế hoạch trong việc bảo vệ, phục hồi
và khai thác có hiệu quả tài nguyên rừng cũng như nắm vững quy luật phát
triển của nó, chúng ta cần hiểu biết về tính đa dạng thực vật.
Đại Từ là huyện trung du miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái
Nguyên và nằm ở sườn Đông của dãy núi Tam Đảo, có diện tích tự nhiên
57.790 ha, trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 28.021 ha với diện tích rừng tự
nhiên 16.022 ha, rừng trồng 11.999 ha [37]. Xã Ký Phú nằm ở phía Nam
huyện Đại Từ, phía Bắc giáp xã Lục Ba, Đông giáp xã Vạn Thọ, Tây giáp xã
Văn Yên và phía Nam giáp xã Cát Nê. Với diện tích đất tự nhiên 1.949,62 ha
trong đó có 693,24 ha là đất lâm nghiệp. Đây là một xã có nhiều rừng của
huyện Đại Từ rất thuận lợi cho nghiên cứu tính đa dạng thực vật làm cơ sở
cho công tác bảo tồn . Vì vậy chúng tôi chọn đề tài “ Nghiên cứu tính đa
dạng thực vật trong một số thảm thực vật tự nhiên ở xã Ký Phú, huyện Đại

Từ tỉnh Thái Nguyên làm cơ sở cho công tác bảo tồn”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tính đa dạng của hệ thực vật và thảm thực vật ở khu vực
nghiên cứu.
- Đề xuất các biện pháp cụ thể để bảo tồn đa dạng thực vật ở khu vực
nghiên cứu.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện từ năm 2010 đến năm 2011 tại khu vực xã Ký
Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu, xác định tính đa dạng ở mức độ ngành, chi, họ , đa dạng về thành
phần dạng sống, tài nguyên cây có ích, quý hiếm, các nguy cơ suy giảm đa
dạng sinh học của một số trạng thái thảm thực vật tại xã Ký Phú làm cơ sở
đưa ra một số giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu đã xác định được tính đa dạng ở mức độ ngành, chi, họ, loài,
thành phần dạng sống , tài nguyên cây có ích, các nguy cơ suy giảm đa dạng sinh học
của 3 trạng thái thảm thực vật ở xã Ký Phú, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được một số loài thực vật quý hiếm theo Sách đỏ Việt Nam
(2007), Danh lục đỏ IUCN (2007).
- Đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên
thực vật tại địa phương.













Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật và hệ thực vật trên thế giới và
Việt Nam.
1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
1.1.1.1. Khái niệm về thảm thực vật
Thảm thực vật (vegetation) là khái niệm rất quen thuộc, có nhiều nhà khoa học
trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau. Theo J.Schmithusen (1959)
thì thảm thực vật là lớp thực bì của trái đất và các bộ phận cấu thành khác nhau của
nó. Thái Văn Trừng (1978) [51] cho rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ
trên mặt đất như một tấm thảm xanh. Trần Đình Lý (1998) [29] cho rằng thảm thực
vật là toàn bộ lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật
trên toàn bộ bề mặt trái đất. Thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối
tượng cụ thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như:
thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn.
1.1.1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện

đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á nhiệt
đới, ôn đới và núi cao.
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ
và loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ
rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền núi;
loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [31].
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm
thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và
vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [60].
1.1.1.3. Những nghiên cứu về thảm thực vật Việt Nam

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Những công trình nghiên cứu về thảm thực vật Việt Nam đến nay còn ít.
Chevalier (1918) là người đầu tiên đã đưa ra một bảng phân loại thảm thực
vật rừng Bắc bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật
rừng nhiệt đới Châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng phân loại này rừng ở
Miền bắc Việt Nam được chia thành 10 kiểu [57].
Năm 1953 ở Miền nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật
rừng Miền nam của Maurand khi ông tổng kết về các công trình nghiên cứu
các quần thể rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực
vật rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng
(1960). Theo bảng phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia
làm 4 loại hình lớn:
Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng cỏ và cây bụi, trên loại này cần
phải trồng rừng.
Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc tỉa
thưa.

Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo
kiệt tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ mỏ, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái
sinh, tu bổ, cải tạo.
Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa
bị phá hoại, cần khai thác hợp lý.
Thomasius (1965) đưa ra bảng phân loại các kiểu lập quần vùng Quảng Ninh
dựa trên các điều kiện địa hình, đất đai, đá mẹ, khí hậu và các loài cây ưu thế.
Phan Nguyên Hồng (1970) [20], phân chia kiểu thảm thực vật ven bờ biển
Miền bắc Việt Nam thành rừng ngập mặn, rừng gỗ ven biển và thực vật bãi cát trống.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Trần Ngũ Phương (1970) [33] đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền bắc
Việt Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai
rừng á nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao.
Thái Văn Trừng (1978) [47] đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân
gỗ kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân cỏ kín rậm; quần lạc thân cỏ
thưa và những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật.
Năm 1975, trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại
hội nghị thực vật học quốc tế lần thứ XII (Leningrat), ông đưa ra bảng phân
loại thảm thực vật rừng Việt Nam theo quan điểm sinh thái, đây được xem là
bảng phân loại thảm thực vật rừng ở Việt Nam phù hợp nhất theo quan điểm
sinh thái cho đến nay [49].
Phan Kế Lộc (1985) [28] dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973, cũng
đã xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15
dưới lớp, 32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn Nghĩa Thìn (1994-
1996) cũng đã áp dụng cách phân loại này trong những nghiên cứu của ông.
Nguyễn Hải Tuất (1991) [50] nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về
sinh thái của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu

rừng cơ bản: kiểu rừng hỗn giao ẩm á nhiệt đới; kiểu rừng kín hỗn giao ẩm á
nhiệt đới núi cao; kiểu rừng kín hỗn giao cây hạt kín và hạt trần.
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [24] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự hình
thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào mối quan
hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác nhau: kiểu rừng
rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh; kiểu rừng
rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô nhiệt đới gió mùa khô rụng lá;
kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới
khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng
nhiệt đới trên đất phèn; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
rừng rậm á nhiệt đới ẩm hỗn giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu
rừng rêu á nhiệt đới mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Thái Văn Trừng (1998) [48] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Việt Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm
cấu trúc ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu
tố hệ thực vật làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5
kiểu thảm (5 nhóm quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ). Bảng phân loại
này của ông từ bậc quần hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống phân loại của
UNESCO (1973).
Nguyễn Thế Hưng (2003) [23] cũng dựa trên nguyên tắc phân loại UNESCO
(1973) đã xây dựng được 8 trạng thái thảm thực vật khác nhau đặc trưng cho loại
hình thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh).
Lê Ngọc Công (2004) [11] cũng dựa theo khung phân loại của
UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành
4 lớp quần hệ: rừng rậm; rừng thưa; trảng cây bụi và trảng cỏ. Ở đây,
những trạng thái thứ sinh (được hình thành do tác động của con người

như: khai thác gỗ, củi, chặt đốt rừng làm nương rẫy…) bao gồm: trảng cỏ;
trảng cây bụi và rừng thưa.
Ngô Tiến Dũng (2004) [15] dựa theo phương pháp phân loại thảm
thực vật của UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật Vườn quốc gia
Yok Don thành: kiểu rừng kín thường xanh; kiểu rừng thưa nửa rụng lá và
kiểu rừng thưa cây lá rộng rụng lá gồm 6 quần xã khác nhau.
1.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật
1.1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới
Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa
cụ thể, tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
thực vật học dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng
500.000 – 600.000 loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng: 300.000
loài thực vật hạt kín; 5.000 – 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 – 10.000 loài
quyết thực vật; 14.000 – 18.000 loài rêu; 19.000 – 40.000 loài tảo; 15.000 –
20.000 loài địa y; 85.000 – 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp
khác.
Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín
phân bố ở các châu lục như sau:
Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ + Canada:
25.000 loài; Mehico + Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài;
Đất lửa + Nam cực: 1.000 loài.
Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài;
Nam Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm: 15.500
loài; Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri, Ma Rốc

và các vùng phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi và Ai cập:
2.000 loài; Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài; các
khu vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông thuộc
Liên bang Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria thuộc
Liên bang Nga, Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài; Tây Nam
Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Tây tây lan: 4.500 loài [58].
1.1.2.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Ở nước ta, trong thực vật chí Đại cương Đông Dương và các tập bổ sung
tiếp theo đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
vật bậc cao có mạch [64]. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán
con số đó có thể lên tới 10.000 đến 12.000 loài. Trên cơ sở những thông tin
mới nhất và những căn cứ chắc chắn, năm 1997, Nguyễn Tiến Bân đã giới
thiệu khái quát những đặc điểm cơ bản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc
ngành hạt kín ở nước ta [3]. Gần đây, Phan Kế Lộc (1998) đã kiểm kê và ghi
nhận đến nay trong hệ thực vật Việt Nam đã biết được 9.653 loài thực vật bậc
cao có mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi và 291 họ. Nếu kể cả khoảng 733
loài cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài thực vật bậc cao có mạch biết
được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và 305 họ, chiếm
khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn thế giới.
Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ thực vật nước
ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt đới ẩm
Indonesia – Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới
nam Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn Độ - Trung và Nam Tiểu Á [30].
Nhìn chung, những nghiên cứu về thảm thực vật của các tác giả hầu hết

chỉ tập trung nghiên cứu ở một vùng cụ thể và phần lớn các tác giả đều dựa
vào khung phân loại của UNESCO (1973) trong nghiên cứu của mình.
Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới và ở Việt Nam: hầu hết
các tác giả đều mới chỉ đưa ra con số dự đoán về hệ thực vật ở một châu lục,
một quốc gia, hoặc một khu vực cụ thể. Những số liệu này chưa được nghiên
cứu và điều tra đầy đủ. Vì vậy, số loài thực vật hiện có chắc chắn còn dao
động và cao hơn nhiều.
1.2. Những nghiên cứu về thành phần loài, thành phần dạng sống và cấu trúc
1.2.1. Những nghiên cứu về thành phần loài
Những nghiên cứu về thành phần loài là một trong những nghiên cứu
được tiến hành từ lâu trên thế giới. Ở Liên Xô (cũ) có nhiều công trình nghiên
cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin (1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Creepva (1978)…Nói chung theo các tác giả thì mỗi vùng sinh thái sẽ hình
thành thảm thực vật đặc trưng, sự khác biệt của thảm này so với thảm khác
biểu thị bởi thành phần loài, thành phần dạng sống, cấu trúc và động thái của
nó. Vì vậy, việc nghiên cứu thành phần loài, thành phần dạng sống là chỉ tiêu
quan trọng trong phân loại loại hình thảm thực vật [31].
Ramakrishman (1981 – 1992) nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở vùng
Tây bắc Ấn Độ đã khẳng định: chỉ số đa dạng loài rất thấp, chỉ số loài ưu thế đạt
cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá.
Longchun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh thái
nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét: khi nương
rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ,
134 chi và 167 loài [44].
Ở Việt Nam, Phan Kế Lộc (1978) đã xác định hệ thực vật miền bắc Việt
Nam có 5609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ [28].

Khi nghiên cứu về thành phần loài, Hoàng Hữu Hiếu (1970) đã đề nghị
áp dụng công thức đánh giá tổ thành loài rừng nhiệt đới.

a
N
X 
(
X
: Trị số trung bình cá thể của một loài
N: Số cây điều tra
a: Số loài điều tra)
Một số loài được gọi là thành phần chính của loại hình phải có số lượng
cá thể bằng hoặc lớn hơn
X
[31].
Nguyễn Đăng Khôi (1971) đã bổ sung thêm 26 loài không được F.
Gagnepain ghi nhận ở Miền bắc Việt Nam trong “Thực vật chí đại cương
Đông Dương” .
Nguyễn Đăng Khôi và Nguyễn Văn Phú (1975) đã thống kê 39 loài cây
bộ Đậu thân bò và thân leo làm thức ăn giàu protein cho gia súc Miền Bắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Việt Nam. Thái Văn Trừng (1975) thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7004
loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1850 chi, 289 họ [46].
Phan Kế Lộc (1978) điều tra phát hiện 20 loài cây có tannin thuộc họ Trinh
nữ (Mimosaceae) và giới thiệu 4 loài khác mọc ở Việt Nam có tannin [28].
Hoàng Chung (1980) [6] khi nghiên cứu đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam
đã công bố thành phần loài thu được gồm 233 loài thuộc 54 họ và 44 bộ.

Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) trong “Cây cỏ Việt Nam” đã thống kê số
loài hiện có của hệ thực vật là 10.500 loài [19].
Phan Nguyên Hồng (1991) lập danh mục cùng với một số chỉ tiêu khác
(dạng sống, môi trường, khu phân bố) của 75 loài thuộc 2 nhóm loài cây ngập
mặn điển hình và cây gia nhập vào rừng ngập mặn [21].
Lê Mộng Chân (1994) điều tra tổ thành vùng núi cao Vườn quốc gia Ba
Vì đã phát hiện được 483 loài thuộc 323 chi, 136 họ thực vật bậc cao có mạch
trong đó gặp 7 loài được mô tả lần đầu tiên [4].
Đỗ Tất Lợi (1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 798 loài
thuộc 164 họ có ở hầu hết các tỉnh nước ta [27].
Trần Đình Đại (2001) căn cứ vào kết quả điều tra thực địa, mẫu vật lưu
giữ tại các phòng tiêu bản đã thống kê danh lục các loài thực vật tại vùng Tây
bắc bộ (Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) gồm 226 họ, 1050 chi và 3074 loài thuộc
6 ngành thực vật bậc cao có mạch [16].
Lê Ngọc Công và Hoàng Chung (1995) nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của sa van bụi và đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [9].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995) khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của sa van Quảng Ninh và các mô hình sử dụng
đã phát hiện được 60 họ thực vật khác nhau với 131 loài [22].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) đã thống kê thành phần loài của Vườn quốc gia
Tam Đảo có khoảng 2.000 loài thực vật, trong đó có 904 cây có ích thuộc 478
chi, 213 họ thuộc 3 ngành: Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín. Các loài này được xếp
thành 8 nhóm có giá trị khác nhau. Năm 1998, khi nghiên cứu về họ Thầu Dầu
(Euphorbiaceae) ở Việt Nam, ông thu được 156 loài trong tổng số 425 loài của
họ Thầu dầu ở Việt Nam chia làm 7 nhóm theo cách sử dụng [40].

Lê Ngọc Công (1998) khi nghiên cứu tác dụng cải tạo môi trường của
một số mô hình rừng trồng ở một số tỉnh miền núi đã công bố thành phần loài
gồm 211 loài thuộc 64 họ [10].
Thái Văn Trừng (1998) khi nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam đã có
nhận xét về tổ thành loài thực vật của tầng cây bụi như sau: trong các trạng
thái thảm khác nhau của rừng nhiệt đới Việt Nam, tổ thành loài của tầng cây
bụi chủ yếu có sự đóng góp của các chi Psychotria, Prismatomeris, Pavetta
(họ Cà phê – Rubiaceae); chi Tabermontana (họ Trúc đào – Apocynaceae);
chi Ardisia, Maesa (họ Đơn nem – Myrsinaceae) [48].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1998) khi tổng kết các công trình nghiên cứu về
khu hệ thực vật ở Việt Nam đã ghi nhận có 2393 loài thực vật bậc thấp và
1373 loài thực vật bậc cao thuộc 2524 chi, 378 họ [40],[41].
Lê Trọng Cúc, Phạm Hồng Ban (2000) nghiên cứu sự biến động thành phần
loài thực vật sau nương rẫy ở huyện Con Cuông, Nghệ An nhận xét rằng: do ảnh
hưởng của canh tác nương rẫy nên thành phần loài và số lượng cây gỗ trên một
đơn vị diện tích có xu hướng giảm dần, đơn giản hoá để tái ổn định [13].
Lê Đồng Tấn (2000) khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng tự nhiên sau
nương rẫy ở Sơn La đã kết luận: mật độ cây giảm khi độ dốc tăng, mật độ cây
giảm từ chân lên đỉnh đồi, mức độ thoái hoá đất ảnh hưởng đến mật độ, số
lượng loài cây và tổ thành loài cây. Kết quả cho thấy ở tuổi 4 có 41 loài; tuổi
10 có 56 loài; tuổi 14 có 53 loài [38].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Đặng Kim Vui (2002) [51] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy để làm cơ sở đề xuất giải pháp khoanh nuôi, làm giàu rừng ở
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã kết luận: giai đoạn phục hồi 1 – 2 tuổi,
thành phần loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ, trong đó họ Hoà thảo có số
lượng lớn nhất là 10 loài, tiếp đến là họ Thầu dầu (6 loài)…; giai đoạn 3 – 5

tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai đoạn 5 – 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai
đoạn 11 – 15 tuổi có 57 loài thuộc 31 họ.
Nguyễn Thế Hưng (2003) đã thống kê trong các trạng thái thảm thực vật
nghiên cứu ở Huyện Hoành Bồ, Thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh) có 324 loài
thuộc 251 chi và 93 họ của 3 ngành thực vật bậc cao có mạch [23].
Phạm Ngọc Thường (2003) khi nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh tự
nhiên sau nương rẫy ở Bắc Kạn kết luận: quá trình phục hồi sau nương rẫy chịu
tác động tổng hợp của các nhóm nhân tố sinh thái như nguồn giống, địa hình,
thoái hoá đất, con người. Mật độ cây giảm dần theo thời gian phục hồi của thảm
thực vật cây gỗ, trên đất tốt nhiều nhất 11 – 25 loài, trên đất xấu 8 – 12 loài [44].
Lê Ngọc Công (2004) nghiên cứu hệ thực vật tỉnh Thái Nguyên đã thống
kê các loài thực vật bậc cao có mạch của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi,
654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý
như: Lim, Dẻ, Trai, Nghiến…[11]
Vũ Thị Liên (2005) khi nghiên cứu một số kiểu thảm thực vật ở Sơn La
đã thu được 452 loài thuộc 326 chi, 153 họ [26].
Thái Văn Thụy, Nguyễn Phúc Nguyên (2005) nghiên cứu về thảm thực
vật Vườn quốc gia Ba Vì đã xác định ở đây có 11 kiểu quần xã thực vật khác
nhau. Trong quần xã cây bụi thứ sinh thường xanh, lá rộng thành phần chủ
yếu là cây gỗ dạng bụi cao từ 2 – 5m [43].



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.2.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Dạng sống của thực vật là sự biểu hiện về hình thái cấu trúc cơ thể thực
vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó, nên đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.

I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường
xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có
thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp
cây nhiều năm và lớp cây hàng năm [31].
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính
liên tục hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc lẻ; mọc thành vạt;
mọc thành dải nhỏ; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [1].
Cho đến nay, khi phân tích bản chất sinh thái của mỗi hệ thực vật, nhất là
hệ thực vật của các vùng ôn đới, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer
(1934) [9] để sắp xếp các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các
dạng sống đó. Cơ sở phân chia dạng sống của ông là sự khác nhau về khả
năng thích nghi của thực vật qua thời gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các
dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở
đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau
trên trái đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm

bảo tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên
những đặc điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo,
phương thức sống của thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu
tố môi trường tạo nên. Thuộc về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của
thực vật, đặc điểm qua đông, sinh sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh thái
học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu hình thái
sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều lần hay một lần
trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ. Trong bảng phân
loại này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng phân loại này ông còn
chia ra các đơn vị nhỏ hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và các dạng đặc thù.
Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần
dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ
khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây. Vì thế
việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho ta
đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi trường [7].
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn Ngọc
Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà
thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng
cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu
đồng cỏ sa van, thảo nguyên [6].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân
chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [47].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà Bình
cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp

của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số
dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác
giả không xếp phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản mà
chỉ coi đây là những dạng phụ [5].
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng cỏ vùng núi bắc
Việt Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây bụi, kiểu
cây bụi thân bò, kiểu cây bụi nhỏ, kiểu cây bụi nhỏ bò, kiểu nửa bụi, kiểu thực vật
có khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống lâu năm [7].
Phan Nguyên Hồng (1991) [23] khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật
rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây
bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B),
ký sinh (K), bì sinh (B).
Áp dụng theo nguyên tắc của Raunkiaer, Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc
Lan, Nguyễn Nghĩa Thìn (1995) đã xây dựng phổ dạng sống của hệ thực vật
Vườn quốc gia Cúc Phương [40] là:
SB = 57,8Ph + 10,5Ch + 12,4He + 8,3Cr + 11,0Th
Phạm Hồng Ban (1999) [2] nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh
thái tái sinh sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung phân loại
của Raunkiaer để phân chia dạng sống, phổ dạng sống là:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Đặng Kim Vui (2002) [51] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống
thực vật dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây cỏ, đồng thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
ông đã xác định được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi
(cây bụi; cây bụi thân bò; cây bụi nhỏ; cây bụi nhỏ thân bò; cây nửa bụi).
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các

trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây
chồi trên đất có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật;
nhóm cây chồi sát đất có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43
loài chiếm 13,27%; nhóm cây chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1
năm có 35 loài chiếm 10,80% [23].
Phạm Ngọc Thường (2003) [44] khi nghiên cứu thảm thực vật sau nương
rẫy ở Thái Nguyên và Bắc Kạn đã cho kết quả phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 56,37Ph + 12,73Ch + 14,23He +8,80Cr + 7,87Th
Lê Ngọc Công (2004) [11] khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực vật
thành các nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây cỏ và dây leo.
Ngô Tiến Dũng (2004) [15] nghiên cứu tính đa dạng thực vật ở Vườn
quốc gia Yok Don đã lập được phổ dạng sống của thực vật Yok Don là:
SB = 71,73Ph + 1,41Ch + 7,77He + 4,59Cr + 6Th
Vũ Thị Liên (2005) [26] phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực
vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết quả phổ
dạng sống như sau:
SB = 69,69Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th
Dương Hữu Thời (1961) đã lập phổ dạng sống của các quần xã cỏ trên
bãi cát sông Hồng [2]
1.2.3. Những nghiên cứu về cấu trúc rừng
Cấu trúc rừng là sự sắp xếp tổ chức nội bộ của các thành phần sinh vật
trọng hệ sinh thái rừng mà qua đó các loài có đặc điểm sinh thái khác nhau có
thể chung sống hài hoà và đạt tới sự ổn định tương đối trong một giai đoạn

×