Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Tiểu Luận Tình hình khai thác , sử dụng và quản lý nguồn năng lượng điện gió trên thế giới và Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.78 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
  




MÔN HỌC: QUẢN LÝ BỀN VỮNG CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG


BÀI TIỂU LUẬN:

TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ
NGUỒN NĂNG LƯỢNG ĐIỆN GIÓ



Giảng viên : GS.TS. Lê Chí Hiệp
Học viên : Lê Thu Hằng
MSHV : 1080100020







ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
VIỆN MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
  




MÔN HỌC: QUẢN LÝ BỀN VỮNG CÁC NGUỒN NĂNG LƯỢNG


BÀI TIỂU LUẬN:

TÌNH HÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG VÀ
QUẢN LÝ NGUỒN NĂNG LƯỢNG ĐIỆN GIÓ



Giảng viên : GS.TS. Lê Chí Hiệp
Học viên : Lê Thu Hằng
MSHV : 1080100020








1


MỤC LỤC Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU 2

Chương I

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN NĂNG LƯỢNG GIÓ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM 3
1.1. TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG GIÓ TRÊN THẾ GIỚI 3
1.2. TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG GIÓ TẠI VIỆT NAM 6
1.2.1. Tổng quan về hiện trạng ngành điện tại Việt Nam 6
1.2.2. Tình hình khai thác năng lượng gió tại Việt Nam 7

Chương II
CẤU TẠO VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA 12
HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ 12
2.1. CẤU TẠO CỦA HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ 12
2.2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ 14

Chương III
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG ĐIỆN GIÓ TẠI VIỆT NAM . 15

Chương IV
ĐÁNH GIÁ CỦA BẢN THÂN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ
TẠI VIỆT NAM & CÁC ĐỀ XUẤT 19
4.1. ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG LỢI ÍCH CŨNG NHƯ HẠN CHẾ KHI PHÁT
TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VIỆT NAM 19
4.1.1.Lợi ích của việc lắp đặt điện gió ở Việt Nam 19
4.1.2. Các mặt hạn chế khi phát triển điện gió ở Việt Nam 22
4.2. CÁC ĐỀ XUẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VIỆT NAM 23

KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

2
MỞ ĐẦU


Trong vòng hai thập niên trở lại đây, loài người đã tiến bộ một cách nhanh
chóng với những phát minh của mình. Con người đã chế tạo ra nhiều máy móc,
thiết bị hiện đại để phục vụ nhu cầu sống của mình. Loài người cũng đã không
ngừng chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình và không ngừng khai
thác các nguồn tài nguyên sẵn có để làm cho cuộc sống của mình ngày càng hiện
đại hơn. Các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp mọc lên ngày càng nhiều, các
máy móc tiện nghi phục vụ cho nhu cầu của con người (như ti vi, tủ lạnh, máy
lạnh, máy giặt…) ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong các căn hộ. Tuy nhiên, con
người cũng đang phải trả giá cho những tiến bộ và tiện nghi của mình. Môi trường
sống của loài người đang bị hủy hoại, nguồn tài nguyên thiên nhiên hay tài nguyên
hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt trước sự khai thác ồ ạt của con người. Loài
người đang phải đối mặt với một loạt thách thức mang tính toàn cầu như: năng
lượng, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, bùng nổ dân số…. trong đó, vấn đề
năng lượng được xem là cấp thiết nhất. Nguồn năng lượng hóa thạch đang cạn kiệt
dần và không đủ cung cấp cho nhu cầu của con người. Bên cạnh đó, việc sử dụng
quá nhiều năng lượng hóa thạch cũng là một trong những nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu toàn cầu.
Do đó, để bảo vệ môi trường và đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng của
mình, con người đang nổ lực tìm tòi và phát minh ra các nguồn năng lượng tái
sinh để thay thế cho nguồn năng lượng hóa thạch. Hàng loạt các năng lượng tái tạo
đã được con người nghiên cứu và sử dụng ngày càng phổ biến, chẳng hạn như:
năng lượng mặt trời, năng lượng gió, địa nhiệt, năng lượng thủy triều, năng lượng
sinh khối….Trong đó, nguồn năng lượng gió là một trong những nguồn năng
lượng tái sinh quan trọng nhất vì nó đang và sẽ đóng góp rất lớn vào nhu cầu sử
dụng điện năng của cả thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì thế, trong bài
viết này, tác giả sẽ đề cập đến tổng quan tình hình nghiên cứu và phát triển điện
gió trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra những nhận định
cá nhân và các giải pháp.


3
Chương I
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG
NGUỒN NĂNG LƯỢNG GIÓ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI
VIỆT NAM

1.1. TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG GIÓ TRÊN THẾ GIỚI
Từ 5000 năm trước Thiên chúa (TC), loài người đã biết vận dụng gió để
làm lực đẩy cho các tàu trên sông Nile ở Ai Cập. Vào khoảng 200 năm trước TC,
người Trung Hoa đã biết dùng cánh quạt gió để dẫn thủy nhập điền. Trong lúc đó
người Ba Tư và các dân tộc vùng Trung Đông dùng quạt gió có trục đứng để xay
lúa mì và các loại hạt.
Từ thế kỷ 20 người ta đã sử dụng năng lượng hóa thạch, năng lượng hạt
nhân, bước đầu sử dụng năng lượng tái tạo để phát điện, nhằm phục vụ sản xuất và
cải thiện đời sống cho nhân loại. Vào thời điểm này, năng lượng gió đã trải qua
nhiều giai đoạn thăng trầm tùy theo tình hình thế giới cũng như nguồn cung cấp
dầu hỏa hay than đá. Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, giá dầu
hỏa sụt giảm mạnh do đó công nghệ gió hầu như bị ngưng trệ hoàn toàn. Nhưng
khi khủng hoảng dầu hỏa nổ ra vào thập niên 70, các turbine gió lại được chú ý
đến và công nghệ nghiên cứu và phát triển nguồn điện năng này lớn mạnh ngay
sau đó.
Ngày nay, trữ lượng than, dầu, khí đang ngày càng cạn kiệt. Mặt khác, nếu
sử dụng chúng để phát điện sẽ phát thải khí nhà kính vào khí quyển, làm cho trái
đất ngày càng nóng lên, gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Các tai họa như hạn hán,
bão lụt xảy ra trên toàn thể giới ngày càng trầm trọng. Do đó, ngay từ đầu thế kỷ
21 tổ chức năng lượng gió châu Âu (EWEA) đã đề xuất ưu tiên phát triển điện gió
trên thế giới trong giai đoạn đầu thế kỷ 21.
Kinh phí đầu tư cho 1 MW điện gió vào cuối thế kỷ 20 là 1 triệu USD.
Theo tổ chức năng lượng gió châu Âu, dự kiến đầu tư cho các năm 2001-2006
khoảng 688.000 USD/MW; từ 2007-2011: 571.000 USD; từ 2011-2017: 496.000

USD; từ 2018-2020: 455.000 USD. Trong năm 2003, tại Blue Canyon (Oklahoma
- Mỹ) chỉ có 840.000 USD/MW điện gió.

4
Theo thống kê, tổng lượng công xuất sản xuất trên thế giới vào năm 2009 là
159.2 GW, với 340 TWh năng lượng, xác nhận mức tăng trưởng 31% mỗi năm,
một con số khá lớn giữa lúc nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khó khăn. Theo
thống kê trên thế giới, Đức, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Đan Mạch và Ấn Độ là những
quốc gia sử dụng năng lượng gió nhiều nhất trên thế giới. Chẳng hạn vào năm
2009, điện gió chiếm 8% tổng số điện sử dụng tại Đức; trong khi đó con số này lên
đến 14% ở Ailen và 11% tại Tây Ban Nha. Hoa Kỳ sản xuất nhiều điện gió nhất
thế giới với công xuất nhảy vọt từ 6 GW vào năm 2004 lên đến 35 GW vào 2009
và điện gió chiếm 2.4% tộng số điện tiêu dùng. Trung Quốc và Ấn Độ cũng phát
triển nhanh về nguồn năng lượng sạch này với 22.5 GW (Trung Quốc, 2009) và
10.9 25 GW (Ấn Độ , 2009).







\

Hình 1: Công xuất sản xuất từ điện gió trên thế giới trong khoảng thời gian
từ 1996 đến 2008.
Trong số 20 thị trường lớn nhất trên thế giới, riêng ở châu Âu đã có 13
nước với Đức là nước dẫn đầu về công suất của các nhà máy dùng năng lượng gió
với khoảng cách xa so với các nước còn lại. Tại Đức, Đan Mạch và Tây Ban Nha,
năng lượng gió phát triển liên tục trong nhiều năm qua là nhờ sự nâng đỡ của

chính phủ sở tại. Nhờ vào đó mà một ngành công nghiệp mới đã phát triển tại 3
quốc gia này. Công nghệ Đức (bên cạnh các phát triển mới từ Đan Mạch và Tây
Ban Nha) đã được sử dụng trên thị trường nhiều hơn trong những năm vừa qua.
Công suất định mức của các nhà máy sản xuất điện gió vào năm 2007 được nâng
lên 94.112 MW. Công suất này thay đổi dựa trên sức gió qua các năm, các nước,
các vùng như chúng ta có thể thấy trong bảng sau:

5
STT
Quốc gia
Công suất (MW)
01
Đức
22.247
02
Hoa Kỳ
16.818
03
Tây Ban Nha
15.145
04
Ấn Độ
8.000
05
Trung Quốc
6.050
06
Đan Mạch
3.125
07

Ý
2.726
08
Pháp
2.454
09
Anh
2.389
10
Bồ Đào Nha
2.150
11
Canada
1.846
12
Hà Lan
1.746
13
Nhật
1.538
14
Áo
982
15
Hy Lạp
871
16
Úc
824
17

Ai Len
805
18
Thụy Điển
788
19
Na Uy
333
20
Niu Di Lân
322
21
Những nước khác
2.953
22
Thế giới
94.112
Bảng 1: Công suất định mức năng lượng gió của các nước trên thế giới
năm 2007.
Và cho đến hôm nay, công nghệ gió đã tiến đến mức độ là giá thành của
loại điện năng này tương đương với giá thành của các nguồn điện năng khác như

6
than đá, khí đốt, v.v Và đây cũng là nguồn hy vọng của thế giới trong tương lai
trước vấn nạn hâm nóng toàn cầu.
1.2. TÌNH HÌNH NĂNG LƯỢNG GIÓ TẠI VIỆT NAM
1.2.1. Tổng quan về hiện trạng ngành điện tại Việt Nam
Trong vòng hai thập niên qua, Việt Nam đã chứng kiến những gia tăng
nhanh chóng về nhu cầu sử dụng điện trong khi cung luôn gặp căng thẳng để bắt
kịp với cầu. Từ con số khiêm tốn 8,7 triệu MWh vào năm 1990, sản lượng điện đã

tăng lên 26,7 triệu MWh vào năm 2000 và dự kiến sẽ đạt 77,2 triệu MWh vào năm
2008. Với nhiều bất trắc tiềm ẩn trong nền kinh tế toàn cầu và nội địa, khó có thể
dự đoán được liệu tốc độ tăng trưởng cao ở mức 14%/năm kể từ 2000 sẽ tiếp tục
được duy trì hay không. Tuy nhiên, với mức tiêu thụ điện bình quân đầu người vẫn
còn thấp hơn 2/5 của Thái Lan, khả năng tiếp tục tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ rõ
ràng là rất lớn. Bên cạnh đó, tình trạng cắt điện luôn phiên ở Việt Nam đã trở
thành điều phổ biến, đặc biệt là vào mùa khô. Hai nguyên nhân có thể được nêu ra
để giải thích cho tình trạng này. Thứ nhất là tỷ lệ phụ tải đỉnh /ngoài đỉnh là rất
cao. Nhu cầu phụ tải đỉnh là 11.500 MW trong khi phụ tải ngoài đỉnh chỉ còn
6.800 MW. Sự chênh lệch lớn giữa nhu cầu trong và ngoài giờ cao điểm đòi hỏi
phải đầu tư nhiều cho công suất phát điện mà hiếm khi cần đến. Để đạt công suất
phát điện này, nếu sử dụng dầu diesel, sẽ rất tốn kém với giá dầu cao như hiện
nay. Giải pháp khác là sử dụng tua-bin khí chu trình đơn với chi phí đầu tư thấp.
Nhà máy điện chạy khí chu trình hỗn hợp có chi phí đầu tư cao hơn, nhưng lại
hiệu quả hơn về nhiên liệu, và được sử dụng nhiều hơn để cung cấp công suất phụ
tải nền (base load) và tải trung bình (intermediate load). Hệ thống điện cũng bị lệ
thuộc nặng nề vào thủy điện, hiện đang chiếm 40% về công suất và 25% về sản
lượng. Các nhà máy thủy điện hiện có khả năng trữ nước hạn chế - với nguồn cung
từ vài ngày đến một tuần ở mức hoạt động bình thường. Do vậy, trong mùa khô,
khi lượng nước chảy vào hồ chứa chỉ bằng một tỷ lệ nhỏ so với mùa mưa, sản
lượng thủy điện ở công suất tối đa là không thể đạt được. Vấn đề này có thể và
trên thực tế là đã được giải quyết bằng việc đầu tư nhiệt điện dự phòng. Tuy nhiên,
những nhà đầu tư vào các nhà máy nhiệt điện này sẽ yêu cầu suất sinh lợi tương
đương với các nhà máy nhiệt điện khí chu trình hỗn hợp hay nhà máy nhiệt điện
than thường được sử dụng để chạy phụ tải nền (gần như toàn bộ thời gian) và tải
trung bình ở các nước khác. Nhưng vì EVN (tập đoàn điện lực nhà nước) thiên về
sử dụng thủy điện khi có đủ công suất do chi phí biên của thủy điện gần như bằng
không, nên rất khó để các nhà đầu tư nhà máy điện độc lập và EVN đạt được thỏa

7

thuận về các điều khoản mua điện từ nguồn chạy than hay chạy khí. Cung cấp điện
với chí phí thấp và ổn định đòi hỏi phải kết hợp nhiệt điện và thủy điện một cách
hiệu quả. Nếu nhiệt điện phục vụ phụ tải cơ sở không được xây dựng thì phải quay
lại giải pháp lắp đặt nhà máy phát điện chạy diesel hay tua-bia khí chu trình đơn.
Máy phát điện diesel hiện đại có thể sản xuất 4 kWh trên 1 lít dầu (tuy nhiên hầu
hết các nhà máy ở Việt Nam có hiệu suất thấp hơn), nhưng mặc dù chi phí đầu tư
ban đầu thấp, giải pháp này ngày càng trở nên tốn kém do giá dầu leo thang. Chi
phí sản xuất điện của một tổ máy phát điện diesel quy mô nhỏ có thể dễ dàng lên
trên 30 xen/kWh, trong khi mức giá thương phẩm của EVN là 5-6 xen/kWh. Dù gì
đi nữa, việc doanh nghiệp phải đầu tư máy phát điện dự phòng, kho chứa nhiên
liệu và tự lo về hoạt động, bảo trì sẽ là gánh nặng không mong muốn. Tính cạnh
tranh của Việt Nam sẽ phụ thuộc một phần vào khả năng cung cấp điện ổn định ở
mức giá không cao hơn (nếu không muốn nói là phải thấp hơn) so với các nước
láng giềng.
1.2.2. Tình hình khai thác năng lượng gió tại Việt Nam
Chính những nguyên nhân vừa nêu trên mà chính phủ của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có cả Việt Nam đang dốc tiền của, nhân lực vào việc nghiên
cứu và đưa vào sử dụng thực tiễn các nguồn năng lượng tái tạo để giúp giảm bớt
sự căng thẳng năng lượng ở các nước.
Ngoài ánh sáng mặt trời, gió cũng là một năng lượng thiên nhiên mà loài
người đang nhắm đến cho nhu cầu năng lượng trên thế giới trong tương lai. Hiện
nay, năng lượng gió đã mang đến nhiều hứa hẹn cho ngành điện của Việt Nam nói
chung và thế giới nói riêng. Tiềm năng gió của Việt Nam rất lớn, vì thế việc
nghiên cứu phát triển năng lượng gió là một công việc cần thiết. Theo bản đồ phân
bố các cấp tốc độ gió của tổ chức Khí tượng thế giới (1981) và bản đồ phân bố các
cấp tốc độ gió của khu vực Đông Nam Á, do tổ chức True Wind Solutions LLC
(Mỹ) lập theo yêu cầu của Ngân hàng Thế giới, xuất bản năm 2001, cho thấy: Khu
vục ven biển từ Bình Định đến Bình Thuận, Tây Nguyên, dãy Trường Sơn phía
Bắc Trung bộ, nhiều nơi có tốc độ gió đạt từ 7.0; 8.0 và 9.0 m/giây, có thể phát
điện với công suất lớn (nối lưới điện quốc gia), hầu hết ven biển còn lại trên lãnh

thổ, một số nơi, vùng núi trong đất liền tốc độ gió đạt từ 5.0 đến 6.0 m/giây, có
thể khai thác gió kết hợp diezen để tạo nguồn điện độc lập cung cấp cho hải đảo,
vùng sâu, vùng xa.

8
Và cũng theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, trên lãnh thổ Việt Nam,
hai vùng giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió là Sơn Hải (Ninh
Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây Hàm Tiến đến Mũi Né (Bình
Thuận). Gió vùng này không những có vận tốc trung bình lớn, mà còn có một
thuận lợi khác, đó là số lượng các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định.
Đây là những điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong những
tháng có gió mùa, tỷ lệ gió Nam và Đông Nam lên đến 98% với vận tốc trung bình
6-7m/s, tức là vận tốc có thể xây dựng các trạm điện gió công suất 3 - 3,5 MW.
Ngoài ra, các vùng đảo ngoài khơi như Bạch Long V, đảo Phú Quý, Trường Sa
là những địa điểm gió có vận tốc trung bình cao, tiềm năng năng lượng gió tốt, có
thể xây dựng các trạm phát điện gió công suất lớn để cung cấp năng lượng điện
cho dân cư trên đảo.
Sự nghiên cứu triển khai năng lượng gió ở Việt Nam đã đi được những
bước đầu tiên. Nhưng cơ bản sự phát triển năng lượng gió trong nước còn nhỏ lẻ,
còn khá khiêm tốn so với tiềm năng to lớn của Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam có
tất cả 20 dự án điện gió với dự kiến sản xụất 20 GW. Nguồn điện gió này sẽ kết
nối với hệ thống điện lưới quốc gia và sẽ được phân phối và quản lý bởi Tổng
Công Ty Điện Lực Việt Nam. Vào tháng 4 năm 2004, Việt Nam đã lắp đặt trạm
năng lượng gió công suất 858KW trên đảo Bạch Long V do chính phủ tài trợ và
các tổ máy được chế tạo bởi hãng Technology SA (Tây Ban Nha). Ngoài ra Trung
Tâm Năng Lượng Tái Tạo và Thiết Bị Nhiệt (RECTARE) Đại học Bách Khoa TP
Hồ Chí Minh đã lắp đặt trên 800 tuốc bin gió trong hơn 40 tỉnh thành với sự tài trợ
của Hiệp hội Việt Nam – Thụy S tập trung nhiều nhất gần Nha Trang, trong đó có
gần 140 tuốc bin gió đã hoạt động. Ở Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh với sự hỗ
trợ của Pháp cũng đã lắp đặt được 50 tuốc bin gió. Tuy nhiên những tuốc bin gió

trên đều có công suất nhỏ khoảng vài KW mức độ thành công không cao vì không
được bảo dưỡng thường xuyên theo đúng yêu cầu nên hiện nay đã ngừng hoạt
động.
Tháng 8-2008 Fuhrlaender AG, một tập đoàn sản xuất tuốc bin gió hàng
đầu của Đức đã bàn giao 5 tổ máy (cánh quạt gió) sản xuất điện gió đầu tiên cho
dự án điện gió tại Tuy Phong, Bình Thuận với mỗi tổ máy có công suất 1.5MW
(Tốc độ gió trung bình ở đây là 6.7 m/s). Tổ máy đầu tiên được lắp đặt vào tháng
11-2008 và chính thức hoàn thành kết nối vào điện lưới quốc gia vào tháng 8 năm
2009.


9








Hình 1.1: Cụm tua-bin và cánh quạt nặng 85 tấn tại nhà máy phong điện
Tuy Phong – Bình Thuận










Hình 1.2: Cụm 5 tua-bin phong điện tại Tuy Phong – Bình Thuận. Chiều cao của
mỗi cái tháp là 103.75 m và đường kính của cánh quạt là 37.5 m.
Toàn bộ thiết bị của 15 tổ máy còn lại của giai đoạn 1 sẽ được hoàn thành
trong thời gian sắp tới để hoàn tất việc lắp đặt toàn bộ 20 tổ máy cho giai đoạn 1.
Tổng công suất của nhà máy điện gió tại Bình Thuận trong giai đoạn này là
1130MW do Công Ty Cổ Phần Năng Lượng Tái Tạo Việt Nam (REVN) làm chủ
đầu tư. Thời gian hoạt động của dự án là 49 năm. Nhà máy được xây dựng trên
diện tích 328ha. Theo kế hoạch, giai đoạn 2 sẽ mở rộng sau đó với công suất lên
đến 120MW.

10
Tháng 10-2008 tại Hà Nội đã diễn ra lễ ký kết giữa Tổng Công Ty Điện
Lực Dầu Khí Việt Nam (PV Power) thuộc Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và Tập
Đoàn Luyện Kim của Argentina Industrias Metallurgica Pescamona S.A.I.yF
(IMPSA) thỏa thuận chi tiết về việc sản suất và phát triển các dự án điện gió và
thủy điện tại Việt Nam. Hai bên đã đồng ý góp vốn để kinh doanh và thương mại
hóa tuốc bin gió, phát triển và quản lý các dự án điện gió, cung cấp các dịch vụ
bảo trì, sửa chữa các thiết bị điện gió ở Việt Nam. Hai bên cũng đã kí thỏa thuận
hợp tác triển khai nhà máy điện gió công suất 1 GW trên diện tích 10.000 ha nằm
cách xã Hòa Thắng huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận khoảng 6 km về hướng Đông
Bắc. Nhà máy sẽ được lắp đặt tuốc bin gió IMPESA Unipower IWP –Class II
công suất 2,1MW các tổ máy gồm nhiều tuốc bin gió cho phép sản xuất
5,5Gwh/năm. Dự kiến tổng vốn đầu tư cho dự án là 2,35 tỷ USD trong 5 năm. Hai
bên cũng thỏa thuận về dự án sản suất tuốc bin gió công suất 2MW có sải cánh
quạt dài 80m cho Việt Nam và cho xuất khẩu.
Dự án nhà máy điện gió Bạc Liêu do Công ty TNHH Xây dựng-Thương
mại-Du lịch Công Lý (Cà Mau) làm chủ đầu tư, được xây dựng tại khu vực ven
biển thuộc ấp Biển Đông A, xã Vnh Trạch Đông, thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
Dự án được xây dựng trên diện tích 500 ha, công suất thiết kế 99 MW, điện năng

sản xuất 310 triệu KWh/năm, vốn đầu tư 4.500 tỷ đồng.
Những đề án khác chẳng hạn như: (i) Phương Mai - Quy-Nhơn với công
xuất 2.5 MW do chuyên viên tập đoàn Avantis Energy Group; (ii) hai đề án với
công xuất 150 MW & 80 MW tại tỉnh Lâm Đồng đang được tích cực triễn khai;
Công ty Thụy S Aerogie Plus Solution AG lắp đặt nhà máy điện gió có công xuất
7.5 MW kết hợp với động cơ diesel tại Côn Đảo , tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
Từ đầu năm 2010 đến nay, do tình hình cung điện ngày càng đáng lo ngại,
tỉnh Ninh Thuận đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho 5 dự án điện gió trên
địa bàn. Tổng công suất của 5 dự án này là 344 MW, có vốn đầu tư khoảng gần 12
ngàn tỷ đồng và dự kiến khởi công trong năm 2011, 2012. Bên cạnh đó, tỉnh cũng
đã chấp thuận đầu tư cho 2 dự án khác với công suất trên 187 MW, trong đó có
một dự án có vốn đầu tư trên 4,5 ngàn tỷ đồng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
có chỉ đạo cho EVN nghiên cứu hoàn thiện đề cương dự án thí điểm về sản xuất
điện gió tại tỉnh Ninh Thuận. Thời điểm giữa tháng 9/ 2010, dự án nhà máy điện
gió 200 MW lớn đầu tiên đã được xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận, nơi được xem là
hội tụ nhiều lợi thế về vị trí địa lý do Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Trung
Nam khảo sát. Dự án có tổng vốn đầu tư vào khoảng 500 triệu đô la Mỹ. Theo

11
cam kết với UBND tỉnh, sau khi hoàn thành xong dự án, Trung Nam sẽ tiếp tục
đầu tư xây dựng một nhà máy sản xuất thiết bị điện gió tại 2 xã Lợi Hải và Bắc
Phong.
Tuy nhiên, hiện nay ngành điện nước ta đang phụ thuộc nhiều vào thủy
điện, với hơn 34% lượng điện được sản xuất ở Việt Nam là từ các nguồn thủy điện
(lớn và trung bình). Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc thiếu điện trong mùa
khô khi các hồ thủy điện giảm mức nước đáng kể, nhiều hồ còn bị xuống tới gần
mức chết. Hy vọng rằng các dự án phong điện nói trên và các dự án sắp tới, sẽ góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, làm nền tảng cho phát triển kinh tế
bền vững.





















12
Chương II
CẤU TẠO VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA
HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ

2.1. CẤU TẠO CỦA HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ
Những bộ phận chính trong tuốc bin gió gồm có: động cơ điện một chiều,
cánh quạt gió, đuôi lái gió, trụ và cột , bộ phận đổi điện cho thích hợp với bình ắc
qui và máy đổi điện (inverter) để đổi sang dòng điện xoay chiều. Phần lớn điện từ
máy phát điện gió được hòa nhập vào mang điện chung (grid line) vừa giản tiện,
vừa giảm giá điện. Tuy nhiên điện từ máy phát điện gió cũng có thể tồn trữ trong

bình ắc quy để sử dụng trong phạm vi nhỏ cho những nơi xa thành phố. Tuốc bin
gió có hai lọai chính: loại trục ngang (Horizontal Axis Wind Turbine hay gọi nôm
na HAWT - là lọai truyền thống hiện đang thịnh hành nhiều nơi trên thế giới) và
loại trục thẳng (Vertical Axis Design) - là lọai công nghệ mới có lợi điểm là cánh
quạt luôn quay ổn định với mọi chiều gió).

Hình 2.1: Mô hình các bộ phận của một tuốc bin gió loại trục ngang

13
 Anemoneter: Bộ đo lường tốc độ gió và truyền dữ liệu tốc độ gió tới
bộ điều khiển
 Blades: Cánh quạt gió được làm bằng hợp kim nhẹ hay một loại
composite hữu cơ.
 Brake: Bộ hãm. Dùng để dừng roto trong tình trạng khẩn cấp hay cần
bảo trì bằng điện, bằng sức nước hoặc bằng động cơ.
 Controller: Bộ điều khiển, bộ điều khiển sẽ khởi động động cơ ở tốc độ
gió khoảng 8 đến 16 dặm/ 1 giờ và tắt động cơ khi vận tốc gió khoảng
65 dặm/ 1 giờ vì với vận tốc nầy sẽ làm nóng và có thể làm hư máy phát
điện.
 Gear box: Hộp bánh răng - có nguyên tắc giống như hộp số xe hơi.
Bánh răng được nối trục có tốc độ thấp với trục có tốc độ cao với mục
đích làm tăng tốc độ quay từ 30 – 60 vòng/phút tới 1200-1500
vòng/phút để có khả năng phát ra điện. Đây là phần chính yếu của
turbine gió và giá thành của bộ phận nầy chiếm 75% già thành của toàn
hệ thống turbine.
 Generator: Máy phát điện để dự trữ điện năng từ hệ thống turbine gio
phát ra.
 Hight speed shaft: Trục truyền động tốc độ cao
 Low speed shaft: Trục quay tốc độ thấp
 Nacelle: Vỏ, gồm Roto và vỏ bọc ngoài, toàn bộ được đặt trên đỉnh

trụ. Dùng bảo vệ các thành phần trong vỏ.
 Pitch: Bước răng. Cánh được làm nghiêng một ít để giữ cho Roto quay
trong gió không quá cao hay quá thấp để tạo ra điện
 Rotor: Bao gồm các cánh quạt và trục
 Tower: Trụ đỡ. Được làm từ thép hình trụ hoặc lưới thép
 Wind direction: Hướng gió
 Wind vane: Chong chóng gió để xử lý hướng gió và liên lạc với Yaw
drive để định hướng Tuabin
 Yaw drive: Dùng để giữ Roto luôn luôn hướng về hướng gió khi có sự
thay đổi hướng gió

14
 Yaw motor: Động cơ cung cấp cho Yaw drive định hướng gió
2.2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NĂNG LƯỢNG GIÓ
Turbine gió biến động năng (kinetic energy) thành cơ năng (mechanical
energy). Chính cơ năng này sẽ được chuyển thành điện năng qua máy phát điện. .
Gió làm các cánh quạt xoay tròn và chuyển động này tạo ra điện nhờ một máy
phát điện. Từ đó điện năng được chuyển tải đi cùng khắp.

Hình 2.2: Mô hình cấu tạo của một hệ thống năng lượng gió








15
Chương III

TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG ĐIỆN GIÓ TẠI
VIỆT NAM

Như chúng ta đã biết, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với cơ sở
vật chất thiếu thốn, nguồn vốn hạn chế và các nghiên cứu khoa học chưa được
hoàn chỉnh. Hiện nay, nguồn cung sản xuất điện chủ yếu là thủy điện và nhiệt điện
dựa vào các nhiên liệu hữu hạn trong tự nhiên như: than, dầu, khí gas tự nhiên hay
Hydro. Một phần nhỏ còn lại là nhập khẩu điện và các nguồn năng lượng tái tạo.
Chính vì sự phụ thuộc lớn vào các yếu tố hữu hạn và liên quan tới thời tiết nên
nguồn cung cấp điện của Việt Nam chưa thật sự phong phú, các nguồn năng lượng
cung cấp điện bị giới hạn. Một nền kinh tế phát triển phải gắn với sự phát triển của
ngành năng lượng quốc gia, nhằm đảm bảo cung cấp đủ nguồn điện cho các hoạt
động sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy luật đó, khi ngành điện luôn được coi là một ngành then chốt, trọng điểm và
nhận được rất nhiều sự quan tâm của Nhà nước. Trong những năm vừa qua, sau
khi thực hiện cải cách kinh tế theo lối mở cửa thị trường thì cơ cấu kinh tế của
nước ta đã có những thay đổi cơ bản từ nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa.
Do đó, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ điện của Việt Nam cũng ngày càng cao và có xu
hướng gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP, điều đó cho thấy VN đang trên đà phát
triển ngày càng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng cao cũng đặt ra bài toán cần có một chiến lược
lâu dài ổn định. Các chính sách đưa ra cần nâng cao hiệu quả sử dụng điện năng,
giảm thiểu tác hại đến môi trường nhằm tránh đi ngược lại với xu hướng của thế
giới. Mỹ và Trung Quốc, 2 quốc gia có lượng thải CO
2
lớn nhất thế giới, đều cho
rằng cần phải tập trung giải bài toán năng lượng, nguyên nhân sâu xa của những
bất ổn kinh tế - tài chính.
Nhìn vào cơ cấu đóng góp trong ngành điện thì Thủy điện đóng góp tới
37% tổng nguồn điện cung cấp, có thể nói đây là tỷ trọng rất lớn. Đối với các nhà

máy thủy điện, sản lượng điện sản xuất phụ thuộc vào lượng nước đổ vào các hồ
chứa, do đó thời tiết là yếu tố khách quan ảnh hưởng trực tiếp tới việc cung cấp
điện năng. Hơn nữa, do những tác động xấu của con người đến môi trường trong
những năm gần đây đã dẫn đến biến đổi về khí hậu trên phạm vi toàn cầu, mùa

16
mưa và mùa khô của Việt Nam cũng diễn ra phức tạp hơn. Trái đất đang ngày
càng nóng lên làm cho mùa khô ở VN cũng kéo dài hơn, các nhà máy thủy điện
gặp khó khăn lớn khi khô hạn chưa từng thấy trong vòng 100 năm qua. Các hồ
thủy điện đều gần như cạn kiệt, nước ở gần mực nước chết. Tổng lượng nước về
các hồ thủy điện cả nước đã hụt 33,3 tỷ m
3
so với trung bình nhiều năm, tương
ứng sản lượng thủy điện thiếu hụt khoảng 5,94 tỷ kWh. Nhưng vào thời điểm giữa
tháng 10, trận bão lịch sử đổ bộ vào miền Trung đã khiến gần như cả khu vực
ngập trong nước. Tuy nhiên, mực nước tại các hồ thủy điện miền Bắc, Trung, Nam
đều thấp hơn năm 2009 và trung bình nhiều năm khác. Tình hình biến động bất
thường của thời tiết chắc chắn sẽ khiến sản lượng từ thủy điện bị ảnh hưởng.
Đối với các nhà máy nhiệt điện, áp lực từ phía nhà cung cấp là chi phí sản
xuất đầu vào tăng, mà cụ thể là giá than. Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam
(TKV), đơn vị duy nhất được phép khai thác than Việt Nam đã đề nghị tăng giá
than theo lộ trình 2 bước trong năm 2010. Theo đó, giá than đã tăng 28% lần thứ
nhất vào ngày 01/03/2010 khiến giá điện cũng tăng 6,8%. Tuy nhiên, theo TKV
mặc dù tăng nhưng giá than hiện tại vẫn chỉ bằng 36-40% giá than xuất khẩu cùng
chất lượng và đang tiếp tục đề xuất đợt tăng giá mới. Mặt khác, sản lượng than
khai thác cũng đang dần cạn kiệt và dự kiến VN sẽ phải nhập khẩu than từ năm
2012. Với việc giá than nhập khẩu hiện đắt hơn khoảng 50% giá than trong nước,
trong tương lai, chi phí sản xuất điện từ than sẽ tăng lên rất nhiều và khả năng áp
đặt giá là rất lớn.
Cũng theo như dự báo của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, nếu tốc độ

tăng trưởng GDP trung bình tiếp tục được duy trì ở mức 7,1% /năm thì nhu cầu
điện sản xuất của Việt Nam vào năm 2020 sẽ là khoảng 200.000 GWh, vào năm
2030 là 327.000 GWh. Trong khi đó, ngay cả khi huy động tối đa các nguồn điện
truyền thống thì sản lượng điện nội địa của Việt Nam cũng chỉ đạt mức tương ứng
là 165.000 GWh (năm 2020) và 208.000 GWh (năm 2030). Chính những điều đó
đã khiến cho nền kinh tế sẽ bị thiếu hụt điện một cách nghiêm trọng, và tỷ lệ thiếu
hụt có thể lên tới 20-30% mỗi năm.
Về thành phần điện sử dụng hiện tại: 58 % thuộc từ năng lượng hóa 13
thạch, 4% nhập cảng và 37 % thuộc về năng lượng tái sinh (thủy điện : 6.304 MW,
biomass: 150 MW, điện gió: 10.5 MW, điện mặt trời : 1.25 MW).
Trong cuộc hội thảo mới đây đánh giá về những tác động của ngành năng
lượng Việt Nam sau khi gia nhập WTO, số liệu đưa ra cho thấy: Nếu như Nhà

17
máy Thủy điện Sơn La với 6 tổ máy, tổng công suất thiết kế là 2400 MW, được dự
kiến xây dựng trong 7 năm, với tổng mức đầu tư là 2,4 tỷ USD. Giá thành khi phát
điện (chưa tính đến chi phí môi trường) là 70 USD/MWh. Như vậy, để có được 1
kW công suất cần đầu tư 1.000 USD trong 7 năm. Trong khi đó, theo thời giá năm
2003, đầu tư cho 1 kW điện gió ở nhiều nước châu Âu cũng vào khoảng 1.000
USD. Ðáng lưu ý là giá thành này giảm đều hàng năm do cải tiến công nghệ. Nếu
thời gian sử dụng trung bình của mỗi trạm điện gió là 20 năm thì chi phí khấu hao
cho một kWh điện gió sẽ là 14 USD. Cộng thêm chi phí thường xuyên thì tổng chi
phí quản lý và vận hành sẽ nằm trong khoảng 48 - 60 USD/MWh - tương đương
với thủy điện, vốn được coi là nguồn năng lượng rẻ và hiệu quả. Theo dự đoán,
đến năm 2020, giá thành đầu tư của điện gió sẽ giảm đáng kể, chỉ khoảng 600
USD/kW, khi ấy chi phí quản lý và vận hành sẽ giảm đáng kể, chỉ còn khoảng 30
USD/MWh.
Trong khi đó, sử dụng điện năng bằng sức gió (mượn sức gió để quay tua
bin phát ra điện, gọi tắt là phong điện) sẽ không lo hết nhiên liệu hay cạn kiệt
nguồn nước như thủy điện và nhiệt điện, và nhất là không gây những tác động

đáng kể đến môi trường. Hơn nữa, Việt Nam với hơn 3000 km bờ biển, đón gió
trực tiếp từ biển Ðông, nên có nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn năng
lượng này. Theo đánh giá tiềm năng năng lượng gió (NLG) khu vực Ðông Nam Á
của Tổ chức Khí tượng thế giới, Việt Nam là quốc gia có tiềm năng NLG tốt nhất.
Dựa trên cơ sở dữ liệu nhiều năm của hơn 300 trạm khí tượng thủy văn trên phạm
vi cả nước, các kết quả tính toán cho thấy bức tranh tổng quát về đặc điểm chế độ
gió và tiềm năng năng lượng gió tại Việt Nam như sau: Ở độ cao khoảng 12m, tốc
độ gió trung bình/năm khu vực ven biển là khoảng từ 4 đến 5 m/s; ở khu vực hải
đảo, tốc độ gió trung bình/năm ở khu vực này khoảng từ 5 đến 8 m/s. Trong khi
vùng núi phía bắc miền Trung, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc giáp Trung Quốc
, ở độ cao 65m, có tốc độ gió trung bình năm đạt từ 8 đến 9,5 m/s, có thể xây
dựng các nhà máy điện gió công suất lớn. Theo tính toán của tổ chức nói trên thì
tổng tiềm năng lý thuyết về NLG ở Việt Nam được đánh giá là trên 100.000 MW
(tính với tốc độ gió từ 7 m/s trở lên). Vùng lãnh thổ khai thác được NLG có tổng
diện tích chiếm gần 9% diện tích cả nước. Tuy nhiên, để khuyến khích đầu tư về
năng lượng gió, cần có các chính sách về năng lượng tái tạo, mạng lưới điện, đầu
tư… nhằm thu hút vốn cho các trạm điện gió. Trước mắt, nhất thiết phải tiến hành
ngay nhiệm vụ điều tra cơ bản đánh giá chế độ gió và tiềm năng NLG theo yêu
cầu của công nghệ điện gió công suất lớn.

18
Chính những nguyên nhân vừa kể trên và xét trên nhiều khía cạnh mà việc
phát triển năng lượng gió hiện là một công việc đúng đắn và hợp lý. Nó giải quyết
nhanh chóng vấn đề năng lượng trong thời gian ngắn và về lâu dài nó cũng đóng
góp không nhỏ cho nguồn năng lượng quốc gia nhất là ở Việt Nam với tiềm năng
về năng lượng gió thuộc vào hàng lớn nhất trên thế giới.

19
Chương IV
ĐÁNH GIÁ CỦA BẢN THÂN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN ĐIỆN

GIÓ TẠI VIỆT NAM & CÁC ĐỀ XUẤT

4.1. ĐÁNH GIÁ VỀ NHỮNG LỢI ÍCH CŨNG NHƯ HẠN CHẾ KHI PHÁT
TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VIỆT NAM
4.1.1.Lợi ích của việc lắp đặt điện gió ở Việt Nam
Với những phân tích nêu trên thì ta thấy Việt Nam hoàn toàn có thể phát
triển nguồn năng lượng điện gió để đáp ứng nhu cầu thiếu điện cho sinh hoạt và
sản xuất như hiện nay. So với các nguồn năng lượng khác thì điện gió có nhiều ưu
điểm nổi bật hơn cả. Như chúng ta đều biết, năng lượng hạt nhân là nguồn năng
lượng sạch, nhưng nó là một nguồn năng lượng tiềm tàng những hậu quả khôn
lường. Đầu tiên là về công nghệ, hiện nay con người cũng chỉ mới có kinh nghiệm
vài chục năm trong việc xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân. Đằng
sau việc vận hành sử dụng, thì việc xử lý, khai tử các nhà máy hạt nhân sau thời
gian sử dụng là một điều hoàn toàn mới mẻ. Các sự cố về hạt nhân cũng có thể xảy
ra và đem đến những hậu quả khôn lường. Vụ Chernobyl trước đây là một bài học
đắt giá của loài người và gần đây nhất là vụ nổ các nhà máy điện hạt nhân ở Nhật
do động đất đã làm cho chất phóng xạ lan truyền vào nước biển và không khí, gây
nguy hiểm cho các nước lân cận. Do đó, việc phát triển nhà máy điện hạt nhân tại
Việt Nam cần phải cân nhắc lại. Thứ hai là về mặt chính trị: con người đang sống
ngay trên kho vũ khí hạt nhân khổng lồ mà sức tàn phá của nó có thể phá hủy mấy
mươi lần trái đất. Vì thế sự nghi kỵ lẫn nhau của các quốc gia cũng là một hạn chế
ảnh hưởng đến sự phát triển một cách mạnh mẽ và chính thống của nguồn năng
lượng vô tận này. Bên cạnh đó các tổ chức khủng bố, phần tử quá khích luôn nhăm
nhe để trao đổi mua bán loại năng lượng có sức công phá khủng khiếp này. Nếu
khắc phục được những điều đó thì năng lượng hạt nhân là chính là nguồn năng
lượng to lớn nhất của loài người.
Kế đến, nhiệt điện là nguồn năng lượng chủ yếu của thế kỷ 20, là mạch máu
của các cuộc đại công nghiệp trong các thế kỷ vừa qua. Nguồn điện cung cấp cho
các nhu cầu ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới chủ yếu dựa vào
nguồn năng lượng này là chính. Nhưng giờ đây cũng đã đến lúc phải khai tử

nguồn năng lượng không tái sinh này. Việc sử dụng các nguồn năng lượng không

20
tái sinh đã làm cạn kiệt tài nguyên dẫn đến việc tranh giành, chi phối để tạo ảnh
hưởng với các nguồn tài nguyên còn lại, phá hủy môi trường, trái đất ấm lên, băng
tan ở hai cực, thiên tai tàn khốc hơn, môi trường sống bị hủy hoại phát sinh nhiều
bệnh tật,… Tất cả những điều đó tiềm ẩn về một thế giới hỗn loạn tranh chấp.
Năng lượng hóa thạch đã từng là đôi cánh cho nền kinh tế thế giới bay cao, nhưng
nếu tiếp tục sử dụng và phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch thì đến lúc sẽ
không còn gì để con người khai thác nữa, lúc đó sẽ không có gì nhanh hơn để chôn
vùi xã hội loài người bằng chính việc sử dụng năng lượng hoá thạch.
Còn đối với thủy điện, một ngành năng lượng đã từng được xem là cứu
cánh cho vấn đề thiếu hụt năng lượng trên thế giới, cho một loạt các vấn đề về xã
hội như nông nghiệp, chăn nuôi….và vẫn còn được sử dụng như 1 ngành năng
lượng chính để cung cấp điện năng cho nhiều nước hiện nay. Nhưng giờ đây con
người đã dần nhận ra rằng con người không phải sinh ra là để chinh phục thiên
nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ mình mà con người được sinh ra trong thiên nhiên
và phải biết học cách sống hòa hợp với thiên nhiên. Bất kỳ một hành động nào
theo chủ quan con người mà không đánh giá đến tác động của thiên nhiên đều là
những hành động sai lầm; những điều đó sẽ hủy hoại đời sống của con người. Qua
nhiều năm phát triển thủy điện một cách tràn lan giờ đây ta đang phải chịu đựng
những mặt trái của nó gây ra đối với môi trường. Đất canh tác bị thu hẹp, rừng bị
tàn phá, thay đổi dòng chảy của các sông, không còn rừng điều tiết nước làm cho
các dòng sông cạn vào mùa khô, lũ lụt về mùa mưa,… Tất cả những điều đó để
nói lên rằng phát triển thủy điện ở nước ta không còn mang nhiều ý ngha nữa nếu
xét một cách nghiêm túc những ảnh hưởng của nó đến môi trường. Có chăng việc
phát triển thủy điện chỉ còn ý ngha kinh tế đối với các tập đoàn kinh tế.
Tóm lại, sau khi phân tích những tác hại có thể có của các nguồn năng
lượng hóa thạch mà con người đã khai thác và sử dụng lâu nay thì chúng ta có thể
rút ra một nhận định đó là loài người cần phải có những thay đổi lớn trong việc sử

dụng năng lượng. Cụ thể là cần phải tìm ra 1 nguồn năng lượng bền vững và sạch,
ít gây ảnh hưởng đến môi trường để thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch nói
trên. Và chúng ta đã làm được điều đó. Tại Việt Nam, năng lượng mặt trời và năng
lượng gió chính là những nguồn năng lượng dồi dào và có thể nói là vô tận. Chúng
là những nguồn năng lượng có thể giải quyết tốt và nhanh chóng các vấn đề năng
lượng trong nước về hiện tại cũng như trong tương lai. Đánh giá đúng mực về
năng lượng gió, chúng ta có thể rút ra được mấy ưu điểm sau của năng lượng gió
mà các nguồn năng lượng khác khó có được áp dụng tại nước ta:

21
 Tận dụng được diện tích đồi trọc để xây các tuốc bin gió: Nước ta có
một dải đất duyên hải miền Trung nắng nóng, Tây Nguyên và vùng núi
phía Bắc giáp Trung Quốc là những nơi đất đai hoang hóa và thường bỏ
trống nên nếu xây dựng trạm điện gió tại đây sẽ tận dụng được diện tích
đất trống, đồi trọc.
 Ảnh hưởng đến đất canh tác không đáng kể: vì theo đánh giá của tổ
chức khí tượng thế giới thì phía bắc miền Trung, Tây Nguyên và vùng
núi phía Bắc giáp Trung Quốc có tiềm năng về gió lớn nhất nước, có thể
xây dựng các trạm điện gió công suất lớn, trong khi những vùng này lại
là những vùng đất đai kém màu mỡ, khì hậu khác nghiệt nên người dân
ít canh tác nông nghiệp. Hơn nữa, trên thực tế các trạm điện gió chiếm
diện tích không đáng kể, bình quân khoảng 1.000 mét vuông tính cho 1
MW công suất. Diện tích đất nằm giữa các cột gió vẫn có thể sử dụng
để canh tác nông nghiệp.
 Ảnh hưởng tới thiên nhiên nơi đặt các tuốc bin gió không đáng kể nếu
so sánh với nhà máy thủy điện, nhiệt điện, điện hạt nhân,… vì đây là
một nguồn năng lượng sạch, nguyên liệu được dùng là "gió". Nguồn
năng lượng này không làm ô nhiễm không khí như nguồn điện năng
phát xuất từ các nhà máy thủy điện và nhiệt điện từ than hay khí đốt.
Các turbine gió không tạo ra mưa acid do khí thải SO

2
, hay các khí nhà
kính, không tiềm ẩn nguy cơ rò r phóng xạ ra môi trường như các nhà
máy điện hạt nhân….
 Là nguồn năng lượng sạch và vô tận đối với thiên nhiên. Điều đó là điều
tiên quyết đem lại lợi thế của năng lượng gió so với các nguồn năng
lượng hóa thạch vốn có hạn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường. Với việc công nghệ ngày càng tiến bộ, và việc sử dụng năng
lượng gió ngày càng phổ biến hơn thì giá thành của năng lượng gió
ngày càng rẻ cộng với xu hướng ngày càng tăng lên của các nguồn năng
lượng hóa thạch phổ biến thì đây cũng là một lợi ích to lớn của năng
lượng gió.
Nhưng không phải năng lượng gió không có những mặt hạn chế của nó. Từ
tiềm năng đến việc cụ thể thành sản phẩm là một quá trình mà nếu ta không đánh
giá một cách toàn diện các mặt thì khó có thể biến tiềm năng trở thành hiện thực
được.

22
4.1.2. Các mặt hạn chế khi phát triển điện gió ở Việt Nam
 Điểm hạn chế nhất của nguồn năng lượng này là phụ thuộc hoàn toàn
vào thiên nhiên. Mặc dù tiềm năng về gió ở nước ta ở mức cao nhưng
tốc độ gió không ổn định và thường xuyên thay đổi. Vì vậy, nguồn điện
năng từ gió vẫn chưa được xem là nguồn cung cấp điện ổn định, nguồn
điện từ thủy điện vẫn chiếm ưu thế
 Gió đến từ thiên nhiên cho nên không đáp ứng được những nhu cầu cần
thiết của con người, vì con người không thể kiểm soát được nguồn gió
và nguồn điện năng này không thể giữ lại được nguồn điện dư thừa trừ
khi chuyển điện qua các bình điện dự trữ - như thế sẽ rất tốn kém và
không hiệu quả kinh tế.
 Nguồn gió nhiều và đều đặn thường ở khu vực xa thành phố, do đó

ngoài việc sử dụng tại chỗ, điện năng từ gió khó được chuyển về các
khu đông dân cư. Do đó, trước khi có những biện pháp nhằm giải quyết
các bất lợi trên, năng lượng từ gió có thể xem như một nguồn năng
lượng dự phòng ngoài các nguồn năng lượng chính yếu khác
 Dù công nghệ gió đang phát triển cao, và giá thành của một turbine gió
giảm dần từ hơn 10 năm qua, mức đầu tư ban đầu cho nguồn năng
lượng nầy vẫn còn cao hơn mức đầu tư các nguồn năng lượng cổ điển.
 Có thể làm thay đổi dòng không khí làm ảnh hưởng đến các loài chim di
trú.
 Thay đổi hoặc làm phá vỡ cảnh quan của vùng lắp đặt điện gió vì nếu
xây dựng đồng loạt nhiều trạm điện gió gần nhau có thể sẽ tạo ra tính
đơn điệu của phong cảnh.



Hình 4.1: Trại gió ở
nước ngoài.



23

 Tiếng ồn có thể ảnh hưởng đến các loài động vật hoặc con người sống
gần nơi đặt các trạm năng lượng gió (mặc dù độ ồn của các trạm điện
gió chỉ tương đương với độ ồn của đường phố và chỉ ở mức 50 dB và
trên khoảng cách đến trạm điện gió lớn hơn 300 mét sẽ không phân biệt
được tiếng ồn của trạm và tiếng ồn tự nhiên của gió) nhưng tiếng ồn tứ
những trạm điện gió này vẫn gây những ảnh hưởng ở mức độ khó chịu
cho những người tiếp xúc thường xuyên.
 Có thể ảnh hưởng đến các trạm thu phát sóng điện thoại, truyền

hình,…do làm thay đổi dòng không khí tại khu vực đặt các trạm điện
gió nên làm nhiễu xạ gây trở ngại cho việc phát tuyến trong truyền
thanh và truyền hình.
 Cánh quạt của tua bin gió dài và lớn, quay trong không gian thường hay
làm chết chim (mặc dù số lượng chim ở Việt Nam hiện nay không còn
nhiều).
 Do phải nhập toàn bộ máy móc thiết bị từ nước ngoài nên chi phí đầu tư
cho điện gió vẫn còn cao so với chi phí đầu tư cho thủy điện.
 Tài liệu thông tin và dữ liệu không đầy đủ về địa lý, tốc độ gió tại nhiều
vùng trong nước.
 Thiếu nguồn đầu tư, nhất là các nguồn đầu tư nước ngoài.
 Chính sách/ kế hoạch và các quy định trợ giá về điện gió của những cơ
quan liên hệ trong chính phủ không rõ rệt.
 Thiếu hạ tầng cơ sở và kỹ thuật.
Đó là một số mặt hạn chế của năng lượng gió, nhưng nếu xét về cơ bản thì
những ảnh hưởng đến môi trường của nguồn năng lượng này so với những ảnh
hưởng của các nguồn năng lượng hóa thạch thì điện gió vẫn có thể được xem là
nguồn năng lượng sạch và ít gây tác động đến môi trường.
4.2. CÁC ĐỀ XUẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐIỆN GIÓ Ở VIỆT NAM
Qua những đánh giá và phân tích trên thì nguồn lợi ích do điện gió mang lại
vẫn lớn hơn so với những mặt bất lợi mà nó gây ra đối với môi trường. Tuy nhiên,
cho đến nay các dự án đầu tư điện gió ở nước ta tuy có nhưng không nhiều và hiện
vẫn còn ở quy mô nhỏ, chưa cung cấp đủ công suất cho ngành điện. Điện năng từ

×