MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Hệ thống Đoàn thanh niên ở cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong
việc tổ chức và vận động thanh niên thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát huy sức mạnh của thanh niên
Việt Nam để trở thành lực lượng xã hội hùng hậu, luôn đi đầu trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc, đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở là cầu nối trực tiếp giữa toàn
bộ hệ thống Đoàn thanh niên Việt Nam với đoàn viên thanh niên. Phẩm chất
đạo đức, trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ đoàn
cơ sở là yếu tố góp phần làm nên thành tựu chung của hệ thống Đoàn thanh
niên, góp phần làm nên thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
Nhận thức rõ vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở nói chung và đội ngũ
cán bộ đoàn cơ sở nói riêng. Trong những năm qua, Nghệ An đã thường
xuyên quan tâm xây dựng, củng cố, đào tạo đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở để
từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong thời gian qua, đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở cùng với các đoàn thể cơ sở đã tích cực thực hiện nhiệm vụ
và cùng với đoàn viên thanh niên đã đóng góp công sức của mình vào công
cuộc đổi mới của đất nước. Để đạt được điều đó, không thể không kể đến
công lao to lớn của đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở. Cán bộ đoàn cơ sở là những
người trực tiếp gần với đoàn viên thanh niên, trực tiếp giải quyết những
yêu cầu cũng như nắm được tâm tư nguyện vọng của đoàn viên thanh niên,
vì vậy nên họ là những người trực tiếp tổ chức và vận động đoàn viên
thanh niên trong việc thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, của địa phương cũng như các phong trào do các
cấp bộ đoàn triển khai.
1
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở của cả
nước nói chung, Nghệ An nói riêng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ. Trong đó có thể kể đến một trong những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng này đó là đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở chưa được chuẩn hóa, việc đào
tạo và sử dụng cán bộ đoàn chưa được quan tâm đúng mức nên trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở Nghệ An còn nhiều bất cập. Việc đào tạo
và quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở trong thời gian qua chưa phù
hợp với thực tế. Chế độ chính sách cho cán bộ đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế,
đào tạo đoàn viên làm nguồn cán bộ thiếu đồng bộ… Bên cạnh đó còn phải kể
đến một yếu tố nữa làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn cơ
sở đó là đặc thù về độ tuổi. Có thể nói đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh
hưởng trực tiếp đến trình độ năng lực đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở của tỉnh
Nghệ An đồng thời cũng là nguyên nhân làm cho việc đào tạo cán bộ đoàn cơ
sở của Nghệ An chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Nguyên
nhân sâu xa và quan trọng là công tác quản lý đối với công tác thanh niên nói
chung và cán bộ đoàn cơ sở nói riêng còn nhiều bất cập.
Vì vậy, việc đổi mới quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở ở Nghệ An là hết sức cần thiết và phù hợp với chủ trương của
Đảng, Nhà nước và các cấp bộ đoàn trong việc khẳng định vai trò nòng cốt và
tính xung kích, tham mưu, sáng tạo tổ chức nhiều phong trào lớn, tập hợp
thanh niên tham gia phát triển kinh tế xã hội, góp phần xây dựng đất nước của
hệ thống tổ chức đoàn. Tập hợp và động viên thanh niên tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đứng từ góc độ quản lý nhà nước; xuất phát từ sự quan tâm đối với đội
ngũ cán bộ đoàn cơ sở tại tỉnh Nghệ An; trên cơ sở nghiên cứu các chủ trương
của Đảng, văn bản pháp lý hiện hành; thu thập tài liệu và kế thừa các kết quả
nghiên cứu liên quan đã có trước đây, cũng như quá trình thực tế và tham
2
khảo ý kiến của các đơn vị chức năng cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực
liên quan, tôi đã lựa chọn thực hiện luận văn tốt nghiệp chương trình Thạc sỹ
Hành chính công với đề tài: “Đổi mới chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ
đoàn cơ sở tỉnh Nghệ An”.
Song, do nội dung của đề tài là khá mới nếu không muốn nói rằng trong
thời buổi kinh tế thị trường ít ai quan tâm đến đề tài này, mặt khác thời gian
và nguồn tư liệu nghiên cứu chưa nhiều, kinh nghiệm còn hạn chế nên luận
văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Tôi xin trân trọng các ý kiến
đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn độc giả nhằm bổ sung giúp cho luận
văn hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn Học viện Thanh thiếu niên Trung ương, Sở Nội
vụ tỉnh Nghệ An, Tỉnh đoàn Nghệ An đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành luận văn này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu của luận văn là đánh giá đúng thực trạng sử dụng đội ngũ cán
bộ đoàn cơ sở và việc triển khai thực hiện chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ
đoàn cơ sở của tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở phân tích rõ các nguyên nhân của
những ưu, nhược điểm và nhận thức những yêu cầu đặt ra đối với việc sử
dụng cán bộ đoàn cơ sở. Từ đó luận văn sẽ đưa ra các giải pháp phù hợp với
tình hình, đặc điểm của địa phương nhằm đổi mới chính sách sử dụng đội ngũ
cán bộ đoàn cơ sở ở tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện được mục tiêu này luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về cán bộ đoàn cơ sở và chính sách sử
dụng cán bộ đoàn cơ sở;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở và
công tác sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở của tỉnh Nghệ An.
3
- Nghiên cứu, tổng hợp kinh nghiệm của một số địa phương trong nước
về công tác đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới chính sách sử dụng đội ngũ
cán bộ đoàn cơ sở tại Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cán bộ đoàn cơ sở của tỉnh Nghệ
An, phạm vi nghiên cứu của đề tài tại tỉnh Nghệ an trong 10 năm trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận và những nguyên lý cơ bản của
Chủ nghĩa Mác- Lênin, theo quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
cũng như chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà
nước Việt Nam. Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc nghiên cứu và triển khai đề
tài luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp như phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương
pháp chuyên gia, trao đổi …để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở lý luận và kết quả nghiên cứu thực tiến, luận văn sẽ đưa ra
các giải pháp nhằm sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở một cách có hiệu quả,
đáp ứng phần nào nhiệm vụ chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức theo quyết
định 04/BNV và các văn bản hướng dẫn của các cấp bộ đoàn.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, xây dựng chính sách quản lý, sử dụng,
phát triển đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở. Nội dung của luận văn cũng sẽ là tài
liệu nghiên cứu, tham khảo cho những người có quan tâm đến công tác Đoàn
và phong trào Thanh thiếu niên nói chung và đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở nói
riêng. Đặc biệt là những người làm công tác tổ chức, quản lý, sử dụng cán bộ
đoàn cơ sở và những người làm công tác quản lý, sử dụng đội ngũ này.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ VÀ CHÍNH SÁCH
SỬ DỤNG CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
1.1. Cán bộ đoàn cơ sở - đặc điểm và vai trò của cán bộ đoàn cơ sở
1.1.1 Khái niệm cán bộ đoàn cơ sở
a. Cán bộ: Là một danh từ xuất phát từ tiếng Pháp, được người Nhật sử
dụng đầu tiên, chuyển sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam. Nó được du nhập
vào nước ta từ thời kỳ chống Pháp, ban đầu được dùng trong quân đội để phân
biệt chiến sỹ với cán bộ, sau được dùng chỉ tất cả những người phục vụ kháng
chiến, thoát ly với nhân dân.
Nghĩa của từ cán bộ tựu trung có hai nghĩa chủ yếu:
Nghĩa thứ nhất là cái khung, cái khuôn;
Nghĩa thứ hai là người nòng cốt, người chỉ huy.
Trong một thời gian dài, ở nước ta từ cán bộ gần như được dùng thay thế
cho từ công chức.
Theo Mác, Ăng-ghen, cán bộ phải là những người: có trí tuệ một
chút và kiến thức rộng, đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng
và lẽ sống của giai cấp vô sản, họ không được mang theo họ bất cứ một tàn
tích của thiên kiến tư sản, tiểu tư sản nào mà phải toàn tâm toàn ý tiếp thu quan
điểm vô sản, họ không chỉ là những người giành được cương vị, có tín nhiệm
không chỉ bằng tài năng, bằng những kiến thức về lý luận. Họ là những người
đầy tớ luôn luôn có thể bị bãi miễn , luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát
của nhân dân
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời
5
đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành
công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Trong Từ điển Tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước,
đảng và đoàn thể; người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người không có chức vụ
Nói tóm lại: Cán bộ chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành góp phần
định hướng sự phát triển của tổ chức.
b. Cán bộ, công chức cấp xã
Theo Khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh cán bộ công chức ngày 29/04/2003, thì cán bộ, công chức cấp xã là:
Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ;
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã);
Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày
21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn đã quy định rõ cán bộ, công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
- Cán bộ chuyên trách cấp xã bao gồm :
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Thường trực Đảng ủy cấp xã (nơi không
có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng); Bí thư, Phó Bí thư Chi bộ xã (nơi
chưa thành lập Đảng ủy cấp xã);
6
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên
hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
- Công chức cấp xã bao gồm :
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng;
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa - Xã hội.
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008:
+ Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
+ Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
mà không phải là sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
7
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
+ Cán bộ xã, phường trị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội;
công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo Khoản 2, Khoản 3, Điều 61, Luật Cán bộ, công chức năm 2008
quy định các chức vụ, chức danh cán bộ công chức cấp xã như sau:
+ Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
1. Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
2. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
3. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
4. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
5. Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
6. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
7. Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
8. Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
+ Công chức cấp xã có các chức danh sau:
1. Trưởng Công an;
2. Chỉ huy trưởng Quân sự;
3. Văn phòng – Thống kê;
4. Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);
8
5. Tài chính – Kế toán;
6. Tư pháp – Hộ tịch;
7. Văn hóa – Xã hội.
c. Cán bộ đoàn:
Để lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ Đoàn có hiệu quả
cũng như đề ra được chính sách cán bộ Đoàn đúng đắn, hợp lý thì việc hiện
nay quan niệm về cán bộ Đoàn còn nhiều tranh luận và đang bỏ ngỏ. Tuy
nhiên để hiểu rõ hơn về khái niệm này chúng ta phải đi từ bản chất của tổ
chức Đoàn thanh niên: Đoàn thanh niên là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên, có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc phát triển
phong trào Thanh thiếu niên và xây dựng tổ chức Đoàn, Đội, Hội; Là những
người hình thành các chủ trương đồng thời tạo lập mối quan hệ của Đoàn
với các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác; Là lực lượng
bổ sung chủ yếu cho cơ quan của Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị, xã
hội khác.
Cho đến nay, những quan niệm về cán bộ đoàn nhìn chung chưa thống
nhất và chưa phù hợp với những nhiệm vụ của thời kỳ mới. Từ đó đã tao ra
không ít trở ngại cho xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn.
Trước hết, cán bộ đoàn phải là con người hành động, tổ chức các hoạt
động trong thanh thiếu niên và xây dựng các tổ chức Đoàn, Hội, Đội. Ở các
cấp bộ đoàn khác nhau sẽ có những hiểu biết không giống nhau, nhưng đã là
cán bộ Đoàn thì phải năng động linh hoạt.
Bên cạnh đó, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội của
tầng lớp thanh niên tiên tiến; Đoàn có chức năng “đào tạo, giáo dục, bồi
dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên phấn đấu để hình thành một thế hệ con
người mới có lý tưởng cao đẹp, có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức,
có sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước
9
và tinh thần quốc tế chân chính”. Vì vậy, cán bộ Đoàn phải được lựa chọn từ
những nam nữ thanh niên ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định con đường
XHCN, ham thích hoạt động chính trị - xã hội, là những hạt nhân tích cực
trong phong trào thanh niên.
Từ quan điểm này ta có thể hiểu khái niệm về cán bộ Đoàn một cách cụ
thể như sau:
- Trước hết cán bộ Đoàn Thanh niên phải là cán bộ chính trị - xã hội
hay nói cách khác là loại cán bộ vừa hoạt động chính trị, vừa hoạt động xã
hội, vì đối tượng thanh thiếu niên trong xã hội rất phong phú; Đoàn thanh
niên là tổ chức tiên tiến nhất của thanh niên, là đối tượng dự bị tin cậy của
Đảng, đồng thời Đoàn thanh niên cũng lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội khác
của thanh thiếu niên ngoài Đoàn ( Hội liên hiệp thanh niên, Hội sinh viên Việt
Nam ), Đoàn tổ chức nhiều hoạt động cho nhiều đối tượng thanh thiếu niên
nhằm góp phần phát triển kinh tế- xã hội.
- Cán bộ Đoàn phải là những người có "cái đầu trẻ"; phải là những
người hành động có tính năng động, linh hoạt. Bởi vì Đoàn thanh niên là tổ
chức của những người trẻ tuổi, là tổ chức năng động sinh hoạt mạnh mẽ nhất
trong hệ thống chính trị cho nên tuổi của cán bộ Đoàn không quá xa so với
tuổi của Đoàn viên thanh niên; (trừ một số ít cán bộ nghiên cứu, giảng dạy,
hoặc một số chuyên gia). Nếu tuổi cán bộ Đoàn cách biệt so với tuổi đoàn
viên thanh niên thì khi tiếp cận với Đoàn viên thanh niên sẽ giảm tính "xông
pha" "lăn lộn" nhạy bén trong hoạt động.
Cán bộ đoàn là cán bộ hoạt động công tác chính trị - xã hội trong một
môi trường đặc thù của xã hội: thanh niên. Cán bộ đoàn trước hết phải là cán
bộ chính trị. Bản thân cán bộ đoàn phải tiên tiến về mặt chính trị, phải thực
hiện nhiệm vụ định hướng chính trị và giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn
viên, thanh niên theo phương hướng chính trị đã lựa chọn.
10
Tóm lại, cán bộ đoàn là những người tuổi tương đối trẻ, những thanh
niên ưu tú, có giác ngộ chính trị, hiểu biết thanh niên và thành thạo trong việc
tổ chức hoạt động thanh thiếu niên, có uy tín, có sức thu hút quần chúng trẻ
tuổi, biết nói, biết việc và biết tổ chức, chỉ đạo xây dựng tổ chức Đoàn và
phong trào thanh thiếu niên.
d. Cán bộ đoàn cơ sở:
Trước khi xem xét khái niệm cán bộ đoàn cơ sở, cần nghiên cứu về
phạm vi của đoàn cơ sở. Hướng dẫn số 07/HD-TWĐTN ngày 18/6/2008 của
Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh về việc thực hiện Điểu
lệ Đoàn khóa IX quy định Đoàn cơ sở là cấp trên trực tiếp của Chi đoàn. Đơn
vị có từ 02 chi đoàn trở lên và có ít nhất 30 đoàn viên thì thành lập Đoàn cơ
sở. Đối với xã, phường, thị trấn có từ 02 chi đoàn trở lên nhưng không đủ 30
đoàn viên vẫn thành lập Đoàn cơ sở.
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở xã, phường, thị trấn (Đoàn
cơ sở) là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, bao gồm những thanh niên
tiên tiến, tự nguyện phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đoàn cơ sở phối hợp với chính quyền cơ sở, các đoàn thể nhân
dân các cấp, các tổ chức chính trị xã hội, các tập thể lao động và gia đình
chăm lo, giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh, thiếu nhi, tổ chức cho đoàn viên,
thanh niên tích cực tham gia vào quản lý Nhà nước và xã hội, góp phần xây
dựng quê hương giàu mạnh, văn minh. Đoàn cơ sở có nhiệm vụ đại diện,
chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng; tổ chức các hoạt động, tạo môi trường giáo dục, rèn luyện đoàn
viên, thanh, thiếu nhi…góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh ở xã, phường, thị trấn; chăm lo xây dựng tổ chức
Đoàn, Hội thanh niên và Đội thiếu niên, nhi đồng Hồ Chí Minh; tích cực tham
gia xây dựng Đảng và Chính quyền.
11
Cán bộ đoàn cấp cơ sở được hình thành thông qua bầu cử theo quy định
của Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh. Số lượng uỷ viên ban chấp hành đoàn
cấp xã từ 5 đến 15 đồng chí. Để điều hành hoạt động giữa hai kỳ hội nghị ban
chấp hành, ban chấp hành đoàn xã bầu ra các đồng chí uỷ viên ban thường vụ
trong số các đồng chí uỷ viên ban chấp hành. Nếu tính số cán bộ đoàn xã,
phường, thị trấn ở tỉnh Nghệ An là uỷ viên ban chấp hành thì đội ngũ cán bộ
này có tới 5.258 đồng chí. Luận văn chỉ tập trung đề cập tới đội ngũ Bí thư
đoàn cơ sở, vì vậy số lượng cán bộ đoàn cơ sở ở tỉnh Nghệ An hiện nay nằm
trong phạm vi nghiên cứu là 479 đồng chí.
1.1.2 Đặc điểm cán bộ đoàn cơ sở
- Cán bộ đoàn cơ sở hầu hết là dân bản địa, cư trú sinh sống tại địa phương.
Đa số cán bộ đoàn cơ sở đều có quan hệ dòng tộc và quan hệ gắn bó với dân làng,
dân phố về mọi mặt kinh tế, văn hoá, tình cảm và đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Trong bản thân con người cán bộ đoàn cơ sở đều chứa đựng các yếu tố: Người
dân, người cùng làng, cùng phố, người đại diện cộng đồng, người đại diện Nhà
nước, các yếu tố này vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, xung đột nhau, chi phối các
hoạt động của họ và nhất là trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến
mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân - cộng đồng - nhà nước.
Phần lớn đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở trưởng thành từ những thanh niên
“không thoát ly” qua các phong trào ở địa phương, nguồn khác là sinh viên các
trường đại học, cao đẳng, bộ đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự và một số ít
tăng cường từ trên về.
- Do nhiều nguyên nhân, đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ít được đào tạo (nhất là
đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo), thường xuyên biến động,
không ổn định, và tuổi đời bình quân cao, thậm chí vẫn còn những đồng chí chưa
có trị độ văn hóa THPT (thậm chí THCS). Điều đó gây khó khăn trong công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là việc tập huấn, bồi dưỡng, cập nhật
12
những kiến thức mới để ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển của phong trào
thanh thiếu niên cũng như nhu cầu tâm lý của ĐVTN, khó khăn trong việc triển khai
tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong ĐVTN
- Một đặc điểm hết sức quan trọng liên quan đến việc hình thành chế độ,
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ đoàn cơ sở đó là, họ có tư liệu sản xuất, đời
sống gắn liền với kinh tế gia đình, kinh tế tập thể và khi được “Đảng cử, dân
bầu” thì làm, không “trúng cử” thì nghỉ.
Đất nước ta đã bước vào công cuộc đổi mới được 25 năm qua và đã đạt
được những thành quả vô cùng quan trọng trên mọi mặt, đời sống của nhân
dân không ngừng được nâng cao, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm,
vị thế của đất nước ta ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Một
trong những nguyên nhân sâu xa tạo nên những thành quả đó chính là việc
Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác cán bộ, đã có những đổi mới
mạnh mẽ chính sách đối với cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở
trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Thấy hết được những đặc điểm của
cán bộ đoàn cơ sở, chúng ta đã bước đầu xây dựng được hệ thống chính sách
đối với đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở làm căn cứ cho các địa phương trên toàn
quốc triển khai thực hiện một cách đồng bộ, bài bản và tương đối sát hợp. Việc
ra đời Nghị quyết TW 5 khoá IX và các Nghị định của Chính phủ về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn là minh chứng cho điều đó.
1.1.3 Vai trò của cán bộ đoàn cơ sở đối với phong trào thanh niên nói chung
và việc phát triết kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng nói riêng
a. Vai trò của cán bộ đoàn cơ sở đối với phong trào thanh niên nói chung:
Ănghen sinh năm 1820 mất năm 1895 là người đề xuất tư tưởng thanh
niên không thể đứng ngoài chính trị. Chính hiện thực cuộc sống đã và đang
cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống chính trị. Với niềm tin vô hạn vào tiềm năng
của thế hệ trẻ.
13
Ănghen đã nhấn mạnh: “Thanh niên không bao giờ thoả mãn với những
lý tưởng trước đây, họ muốn được tự do hơn trong hoạt động, họ muốn khát
khao lập chiến công, họ sẵn sàng đổi mới và họ sẵn sàng hiến dâng cả máu và
cuộc đời mình”. Mác và Ănghen luôn gắn thanh niên với giai cấp và đội tiên
phong chiến đấu của nó.
Chính Ănghen là người đầu tiên đưa ra các quan niệm như: “Đội quân
xung kích quyết định của đạo quân vô sản quốc tế”, “Đội hậu bị của Đảng” để
nói về thanh niên. Ănghen viết: “Chính thế hệ trẻ là nguồn bổ sung lực lượng
dồi dào nhất cho Đảng”.
Cán bộ Đoàn, người "thủ lĩnh" của Đoàn viên thanh niên, là người định
ra chủ trương, nghị quyết hoạt động đồng thời cũng là người chỉ đạo tổ chức
các hoạt động nhằm thực hiện các chủ trương, nghị quyết đó. Là những người
vừa lãnh đạo, tổ chức quản lý, vừa giáo dục, thuyết phục và là người bạn,
đồng nghiệp tin cậy của thanh thiếu niên. Tính "Thủ lĩnh" còn được hiểu vừa
là thủ trưởng vừa là người bạn uy tín với thanh niên, là người tập hợp thanh
niên vào tổ chức. Để được lớp trẻ tin yêu và quí mến, cán bộ Đoàn cần phải
đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Cán bộ Đoàn Thanh niên phải được xuất thân từ phong trào, được quần
chúng thanh niên bầu ra phải có tín nhiệm trong đoàn viên thanh thiếu niên.
Thanh niên phải tin tưởng, bày tỏ quan điểm, lý tưởng, lập trường của mình.
- Cán bộ Đoàn là người đại diện cho các cấp Bộ đoàn, cho đoàn viên
thanh niên bày tỏ thái độ, lý tưởng, trách nhiệm của mình trước Đảng, trước
dân tộc, là người bảo vệ mọi quyền lợi của tuổi trẻ: quyền được học tập, quyền
được làm việc và có thu nhập; quyền tự do bình đẳng trước pháp luật …….
- Cán bộ Đoàn là người đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp thanh thiếu niên
vào tổ chức. Là người có ảnh hưởng lớn trong xã hội, là trung tâm đoàn kết
thanh thiếu niên, đưa họ vào tổ chức để giáo dục. Giúp thanh thiếu niên phát
14
huy được mọi tài năng, năng lực của mình; phát hiện các tài năng trẻ cho
Đoàn và cho xã hội trong mọi lĩnh vực. Là người đại diện cho Đoàn trong các
tổ chức quần chúng thanh niên như: Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam; Hội
Sinh viên Việt Nam; Hội nghề nghiệp, Hội Phụ nữ trẻ…
b. Vai trò của cán bộ đoàn cơ sở đối với việc phát triển kinh tế xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng nói chung
Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh là một thành viên trong hệ
thống chính trị. Đoàn lấy mục đích, lý tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
làm mục đích cho chính mình. Đó là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho xây dựng cơ sở lý luận và hành động thực
tiễn của mình. Đoàn lấy lập trường của giai cấp công nhân làm lập trường của
mình trong đấu tranh cách mạng. Đoàn thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam - lãnh tụ chính trị của mình.
Đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đảng xác định
Đoàn là lực lượng cách mạng hùng hậu nhất. Là đội quân xung kích, đội dự bị
tin cậy của Đảng. Đảng tin tưởng tuyệt đối vào lực lượng cách mạng trẻ là
Đoàn thanh niên.
- Đảng ta khẳng định: cán bộ Đoàn là một bộ phận của cán bộ Đảng,
xây dựng Đoàn vững mạnh là một nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng Đảng:
Cán bộ Đoàn là nguồn bổ sung cán bộ cho cán bộ Đảng, Nhà nước và các tổ
chức khác. Đảng có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, sử dụng đội ngũ
cán bộ Đoàn thanh niên trong các thời kỳ cách mạng và nhất là trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "Bồi d-
ưỡng thế hệ cách mạng nay cho tới sau là một việc quan trọng và cần thiết".
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn là đào tạo bồi dưỡng cán bộ nguồn cho
Đảng, Nhà nước
15
Bên cạnh đó, đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, người cán bộ đoàn nói
chung và cán bộ đoàn cơ sở nói riêng đóng vai trò rất lớn bởi vì:
- Là đội ngũ cán bộ tiếp thu nhanh, tuyên truyền quảng bá, và định hư-
ớng tư tưởng quần chúng thanh thiếu niên về đường lối đổi mới kinh tế - xã
hội của Đảng đến Đoàn viên, thanh thiếu niên một cách chính xác và nhanh
chóng, rộng rãi nhất.
- Là đội ngũ cán bộ xung kích trên mọi lĩnh vực trong công cuộc đổi mới đất
nước; là những người cán bộ trẻ tuổi, năng động, sáng tạo và nhận thức nhanh.
- Là lực lượng lao động trẻ, có kiến thức, có trình độ và tay nghề cao; là
lực lượng lao động làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, không những sản
phẩm vật chất mà còn sản phẩm văn hoá, chính trị và tinh thần.
- Là lực lượng cán bộ bổ sung cho Đảng, cho Chính phủ và dân tộc hùng
hậu nhất, tinh nhuệ nhất: phần lớn cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương đều trưởng thành từ cán bộ đoàn; Đoàn là một thành
viên trong hệ thống chính trị, hệ thống quản lý của địa phương. Nhiệm vụ của
Đoàn nói chung và của người cán bộ Đoàn các cấp nói riêng là tổ chức, quản
lý và giáo dục đoàn viên thanh thiếu niên. Đây cũng là một công việc giúp
Đảng, giúp Nhà nước quản lý đào tạo con người, quản lý đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước.
1.2. Chính sách đối với cán bộ đoàn cơ sở
1.2.1 Quan niệm chung về sử dụng cán bộ, công chức
Quan điểm của Đảng
Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng lãnh đạo nhân dân
tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi.
Vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở đã được khẳng định. Tuy nhiên, điều kiện
kinh tế - xã hội ở một đất nước vừa thoát khỏi sự tàn phá nặng nề của 2 cuộc
chiến tranh; có những thời kỳ phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
16
là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam để thống nhất đất nước. Do nguyên nhân khách
quan trong các thời kỳ nói trên nên chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ
cơ sở nói chung, cán bộ đoàn cơ sở nói riêng có lúc chưa được quan tâm thỏa
đáng. Giai đoạn này và giai đoạn đầu của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta chủ trương cho cán bộ cơ sở làm việc bán chuyên trách và hưởng sinh
hoạt phí. Mức sinh hoạt phí được quy định bằng mức tiền cố định, sau này mới
theo hệ số mức lương tối thiểu của cán bộ, công chức nhà nước. Nguồn kinh
phí chi trả cho cán bộ cơ sở một phần do ngân sách địa phương, phần lớn lấy
ngay từ kinh tế tập thể hợp tác xã chuyển sang. Khi nghỉ việc, nếu có đủ điều
kiện được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, nếu không đủ điều kiện thì hưởng
trợ cấp một lần.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX)
Từ khi có Nghị quyết trung ương 5 khoá IX về “Đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” Đảng ta mới thực
hiện chủ trương:
“Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không
chuyên trách. Trong đó xác định cán bộ đoàn cơ sở là cán bộ giữ chức vụ qua
bầu cử. Có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản như cán bộ,
công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều
kiện để chuyển công tác khác thì được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc
hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ đoàn cơ sở có đủ điều
kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Quy định của Nhà nước
Về chế độ, chính sách đãi ngộ
- Quyết định số 130/CP ngày 30 tháng 6 năm 1975 của Hội đồng Chính
phủ bổ sung chính sách, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã, quy định cán bộ phụ
17
trách công tác thanh niên là cán bộ nửa chuyên trách để đảm bảo công tác
thanh niên. Và được hưởng phục cấp đối với xã loại I: 15 đồng/tháng, xã loại
II: 12 đồng/tháng.
- Nghị định số 46/CP ngày 23 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về chế
độ sinh hoạt phí đối với cán bộ đảng, chính quyền và kinh phí hoạt động của
các đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn, quy định như sau:
Điều 4 Nghị định số 46/CP quy định: “Từ nay trở đi, cán bộ xã làm công
tác ở xã liên tục từ 10 năm trở lên và không vi phạm kỷ luật thì khi nghỉ việc
được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp này tính theo năm công tác, mỗi năm
công tác được trợ cấp một tháng lương, lấy theo mức sinh hoạt phí đang hưởng
trước lúc nghỉ việc để tính. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã ra
quyết định cụ thể đối với cán bộ được trợ cấp này.
Thời kỳ này Kinh phí chi cho hoạt động và sinh hoạt phí đối với cán bộ
đoàn thể nhân dân ở xã (trong đó có Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh)
như sau: xã dưới 10.000 dân thì mỗi đoàn thể 1.500.000 đồng/năm; xã trên
10.000 dân thì mỗi đoàn thể 2.000.000 đồng/năm.
- Nghị định số 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của Chính phủ về chế
độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn quy định Bí thư Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là 180.000 đồng/tháng.
- Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23 tháng 1 năm 1998 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26 tháng 7 năm 1995 của
Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Quy
định cụ thể Bí thư Đoàn cơ sở thuộc các đoàn thể với chế độ 240.000
đồng/tháng.
- Từ khi có Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003, Chính phủ
đã ban hành 2 Nghị định cơ bản về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, đó
là: Nghị định số 114/2003 NĐ/CP ngày 10/10/2003 “ về cán bộ, công chức xã,
18
phường, thị trấn và Nghị định số 121/2003/ NĐ - CP ngày 21/10/2003 “ về chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn”.
- Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính
phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Điều
4 quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ đoàn cơ sở như sau:
- Bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Phụ nữ, Chủ
tịch Hội nông dân, Chủ tịch Hội cựu chiến binh: hệ số 1,7 mức lương tối thiểu;
- Các chức vụ trên nếu được tái cử, kể từ nhiệm kỳ thứ 2 (từ tháng 61 trở đi)
được hưởng phụ cấp thêm 5% hàng tháng theo mức lương chức vụ đảm nhiệm;
Cán bộ đoàn cơ sở được hưởng đầy đủ về phụ cấp tái cử, về chế độ bảo
hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo điểm 4, mục II, điều 5 Thông tư liên tịch số
34/2004/TTLT - BNV - BTC - BLĐTB&XH ngày 14 tháng 5 năm 2004 của
Liên Bộ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ
(gọi tắt là Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT)
Đặc biệt, tại Khoản 3, điều 2 Nghị định 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ
đã xếp Phó Bí thư Đoàn cơ sở là Phó các đoàn thể cấp xã,
- Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế
độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang,
trong đó hệ số và lượng của Cán bộ đoàn cơ sở (thuộc trưởng các đoàn thể) là.
Chức danh lãnh đạo Bậc 1 Bậc 2
- Trưởng các đoàn thể, Uỷ viên UBND
- Hệ số lương
- Mức lương thực hiện 01/10/2004
1,75
507.500 đ
2,25
652.500 đ
- Luật Cán bộ, công chức đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông
qua ngày 13/11/2008. Điểm mới của Luật Cán bộ, công chức là đã giành riêng
chương V, với 4 Điều quy định về cán bộ, công chức cấp xã. Trong đó, cán bộ
19
đoàn cơ sở được xác định là cán bộ cấp xã (mục đ, điểm 2, điều 61) và điều 62.
Nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức cấp xã, điều 63 Bầu cử, tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
- Tại Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bô, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã quy
định: Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã, phường, thị trấn là cán bộ cấp xã
(Điểm đ, khoản 1, điều 3, mục 1, chương II) thì được hưởng các chính sách sau:
+ Về chế độ lương: Đối với cán bộ đoàn cơ sở có trình độ sơ cấp hoặc
chưa qua đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thì xếp lượng bậc 1 là 1,75;
bậc 2 là 2,25 (điểm a, khoản 1, điều 5, mục 2, chương II);
Đối với cán bộ đoàn cơ sở đã tốt nghiệp trình độ đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ từ trung cấp trở lên thực hiện xếp lương như công chức hành chính
quy định tại bảng lương số 2 (bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán
bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước) ban hành kèm theo Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (điểm b, khoản 1, điều 5,
mục 2, chương II).
+ Các loại phụ cấp: Phụ cấp chức vụ lãnh đạo của Bí thư đoàn cơ sở là
0,15 (khoản d, điều 7, mục 2, chương II); phụ cấp theo loại xã, tại điều 9, mục
2, chương 2 quy định đối tượng Bí thư đoàn cơ sở ở xã loại 1 được hưởng phụ
cấp 10%, xã loại 2 được hưởng 5% (mức phụ cấp được tính theo % trên mức
lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt
khung và hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).
+ Về chế độ đào tạo, bồi dưỡng: Điều 12, mục 3, chương II quy định cán
bộ, công chức, cấp xã (trong đó có Bí thư đoàn cơ sở) được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức phù hợp tiêu chuẩn cức danh hiện đang đảm nhiệm và theo quy
20
hoạch cán bộ, công chức (khoản 1); cán bộ, công chức cấp xã khi được cử đi
đào tạo, bồi dưỡng thì được cấp tài liệu học tập, được hỗ trợ một phần tiền ăn
trong thời gian đi học tập trung, được hỗ trợ kinh phí đi lại từ cơ quan đến nơi
học tập.
Tóm lại, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trưởng của Đảng về cán bộ cơ
sở, Nhà nước đã ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở nói chung, cán bộ đoàn cơ
sở nói riêng, từ hình thức quyết định (năm 1975 đến 1985), Nghị định (năm
1985 - 2003), đến Pháp lệnh (năm 2003) và cao nhất là Luật Cán bộ, công
chức năm 2008, nhằm điều chỉnh tất cả các lĩnh vực có liên quan đến cán bộ cơ
sở như: Chức danh cán bộ, công chức; số lượng cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ;
tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt, luân chuyển
cán bộ; chế độ tiền lương, hưu trí cán bộ; khen thưởng, xử lý kỷ luật; điều kiện
làm việc
1.2.2. Các nhân tố tác động đến việc sử dụng cán bộ đoàn cơ sở trong tình
hình hiện nay
1.2.2.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc sử dụng cán bộ đoàn
cơ sở
Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng ta hết sức coi trọng và đánh giá rất cao vai trò của thanh niên nói chung,
đội ngũ cán bộ đoàn nói riêng.
Để sử dụng tốt cán bộ đoàn cơ sở, các chủ trương, chính sách, chế độ
của Đảng và nhà nước là cực kỳ quan trọng. Chính sách đó phải khơi dậy tiềm
năng, trí tuệ của thanh niên, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ đoàn nói chung,
cán bộ đoàn cơ sở nói riêng thăng tiến; chính sách phải vừa động viên tinh thần
của thanh niên nhưng cũng phải gắn liền với lợi ích vật chất. Chính sách đúng,
phù hợp là yếu tố quyết định đến việc sử dụng cán bộ đoàn cơ sở.
21
1.2.2.2. Việc chuyển đổi mô hình từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng
suất lao động xã hội cao” (Văn kiện hội nghị BCH TW lần thứ 7 khóa VII).
- Trong những năm qua tình hình chính trị, kinh tế - xã hội nước ta tiếp
tục giữ vững ổn định, sự nghiệp đổi mới thu được những thành tựu quan trọng.
Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội tiếp tục quan tâm, chăm lo
và tăng cường quản lý nhà nước về công tác thanh niên; quá trình xã hội hóa
công tác thanh niên ngày càng được triển khai rộng rãi tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi để Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức thành công các phong trào
hành động cách mạng.
- Trong thời gian tới, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tiếp tục gặp nhiều khó
khăn, thách thức. Đó là kinh tế đất nước vẫn trong tình trạng kém phát triển,
sức cạnh tranh thấp, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới; sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng gia tăng, những tiêu cực và tệ nạn xã hội, quá trình đẩy mạnh nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra những thách thức đối
với thanh niên về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề,
bản lĩnh và tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm, lối sống của đoàn viên,
thanh niên; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn ra ở nhiều lĩnh vực; tác
động của mặt trái công nghệ thông tin sẽ là lực cản ảnh hưởng đến sự phát
triển đất nước, sự phát triển của thế hệ trẻ.
22
- Sự chuyên dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển khu vực
công nghiệp, dịch vụ và sự thu hẹp của khu vực nông nghiệp sẽ kéo theo sự
chuyển dịch lao động trẻ từ nông thôn ra thành thị, cơ cấu xã hội, nghề nghiệp
của thanh niên sẽ tiếp tục có thay đổi lớn. Số đoàn viên, thanh niên từ nông
thôn ra thành phố, các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế tiếp tục tăng;
tình trạng thanh niên lao động tự do, thanh niên thiếu việc làm, thu nhập không
ổn định vẫn diễn ra gay gắt. Các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,
chủ trang trại do thanh niên quản lý ngày càng nhiều; thanh niên thuộc các lĩnh
vực, đối tượng tiếp tục có sự phân hóa, chênh lệch ngày càng lớn về mức sống,
về trình độ học vấn, thu nhập, về địa vị kinh tế, điều kiện hưởng thụ văn hóa,
vui chơi giải trí Các nhu cầu của thanh niên ngày càng đa dạng, đặc biệt là
nhu cầu vui chơi, giải trí, hưởng thụ văn hóa ngày càng cao. Trong khi đó các
thiết chế văn hóa dành cho đoàn viên, thanh niên chưa đáp ứng đủ yêu cầu.
- Quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng vừa tạo ra nhiều cơ hội mới, vừa đặt ra những yêu cầu mới cao hơn đối
với thanh niên cả về nhận thức chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, nghệ
nghiệp. Đoàn viên, thanh niên nói chung và đội ngũ cán bộ đoàn nói riêng có
trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp cao hơn trước; định hướng giá trị,
nhu cầu của đoàn viên thanh niên đa dạng hơn. Tuy nhiên, năng lực hoạt động
thực tiễn, tay nghề, chuyên môn, khả năng hội nhập vẫn là những vấn đề lớn
cần quan tâm nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế.
- Các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, ra sức lôi kéo, tha hóa thanh niên. Sự tranh giành, lôi
kéo tập hợp thanh niên, lợi dung thanh niên của các tôn giáo và các thế lực thù
địch sẽ diễn biến phức tạp, nhất là đối với thanh niên học sinh, sinh viên, thanh
niên trí thức, dân tộc thiểu số và thanh niên Việt Nam ở nước ngoài ngày càng
23
phức tạp. Do sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai ngày càng mạnh mẽ nên việc
có đủ bản lĩnh để giữ vững nhân cách, đạo đức, lối sống, truyền thống của dân
tộc sẽ là khó khăn, thách thức không nhở đổi với đoàn viên thanh niên và đội
ngũ cán bộ đoàn.
- Mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động mạnh mẽ đến đoàn viên,
thanh niên và đội ngũ cán bộ đoàn. Một bộ phân không nhỏ thanh niên, cán bộ
đoàn sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất, không quan tâm đến tập thể và
cộng đồng; bản lĩnh chính trị, niềm tin vào tương lai đất nước dễ bị lung lay,
dao động và không tự giải đáp về tư tưởng trước những khó khăn của đất nước;
hơn nữa, sự yếu kém trong quản lý xã hội, trong việc ngăn chặn các tác động
của tiêu cực, tội phạm, tệ nạn xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến việc sử dụng đội ngũ cán bộ đoàn trong giai đoạn
hiện nay.
1.2.2.3. Về nhận thức của cấp ủy và chính quyền các cấp
Trong những năm qua, Nhận thức của cấp ủy và chính quyền các cấp
về đội ngũ cán bộ đoàn và phong trào thanh thiếu nhi ở Nghệ An không
ngừng được nâng cao. Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ
XVII, trong phương hướng phát triển giai đoàn 2010 – 2015, Đảng bộ tỉnh
Nghệ An đã xác định “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Nghệ An tiếp tục thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết TW 7 (khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”. Đổi mới phương thức giáo dục lý tưởng, đạo đức; nếp
sống văn háo, ý thức chấp hành pháp luật; đấu tranh phòng chống ma túy và
các tệ nạn xã hội trong thanh niên. Phát động các phong trào thi đua, tình
nguyện thiết thức, nâng cao ý chí phấn đấu của tuổi trẻ lập thân, lập nghiệp,
làm giàu chính đáng, xung kích xây dựng quê hương giàu mạnh. Tổng kết,
phát triển các mô hình thanh niên sản xuất giỏi; rà soát, đánh giá kết quả hoạt
24