Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Đề tài hình thức hoạt động nhóm nhằm phát huy tính tích cực của HS trong dạy học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.73 KB, 17 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG NHÓM
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG
CỦA HỌC SINH TRONG HỌC TẬP LỊCH SỬ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, giáo dục
nước nhà đã có nhiều thay đổi trong việc tự hoàn thiện mình bằng những giải pháp
như tiến hành cải cách giáo dục,đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ
thông nhằm đáp ứng kịp thời cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
Trong thời gian qua, nhưng nhìn chung giáo dục của ta vẫn chưa ngang tầm với
nhiệm vụ cách mạng mới: đào tạo con người toàn diện phục vụ sự nghiệp CNH –
HĐH của nước nhà.
Tuy vậy, chất lượng giáo dục hiện nay nói chung là thấp, chưa đáp ứng được
mục tiêu mà Đảng ta đã chỉ ra. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng không được như
mong muốn như thế có nhiều. Song vấn đề mấu chốt hiện nay vẫn là chưa thực sự đổi
mới được phương pháp dạy học.
Từ sự lãnh đạo - định hướng đổi mới giáo dục của Đảng đã được Quốc Hội pháp
chế hóa trong luật giáo dục “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”.
Như vậy, đổi mới giáo dục phổ thông, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
đáp ứng mục tiêu đào tạo là phải bắt đầu từ đổi mới phương pháp dạy học và sự đổi
mới ấy không còn là mơ hồ, trừu tượng mà phải theo một định hướng nhất định. Các
1
thầy cô giáo nói chung và ở trường THCS nói riêng có nhiệm vụ giúp học hướng tới
việc học tập chủ động, tự nghiên cứu và qua trao đổi thảo luận để tìm ra kiến thức
mới.
Vậy phương pháp dạy học nào có thể gọi là tối ưu để khi phối hợp cùng với các
phương pháp truyền thống khác đã có từ trước, đáp ứng được các yêu cầu trên và góp
phần mang lại hiệu quả cao nhất cho tiết học, theo hướng đổi mới?


Câu trả lời mang tính thuyết phục nhất hiện nay vẫn là cách dạy: tổ chức hoạt
động nhóm. Bởi vì bản thân nó, vốn có khả năng đáp ứng các tiêu chí xây dựng thành
công con người năng động, sáng tạo. Từ thực nghiệm đổi mới phương pháp dạy học,
đã chứng tỏ qua hoạt động sẽ làm cho mỗi thành viên bộc lộ được suy nghĩ, hiểu biết,
thái độ của mình, qua đó được tập thể uốn nắn, điều chỉnh, phát triễn tình bạn, ý thức
tổ chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, ý thức cộng đồng Hoạt động trong tập thể quen
dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội, hiệu quả học tạp sẽ tăng lên nhất
là phải giải quyết vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để
hoàn thành một nhiệm vụ học tập nhất định. Như vậy tổ chức hoạt động nhóm trong
thời gian qua, hiện nay và tương lai vẫn là PPDH mang lại hiệu quả cao đã được các
nước tiên tiến trên thế giới đánh giá cao và được áp dụng một cách phổ biến, thành
thạo trong trường học. Hiện nay tổ chức hoạt động nhóm đã trở thành một nhu cầu từ
cả phía người dạy-người học.
Phần thứ nhất:
THỰC TRẠNG
Trong thực tế những năm qua trường THCS Phú Xuân, việc áp dụng PPDH hoạt động
nhóm còn nhiều vấn đề phải suy nghĩ và trung thực khách quan mà nói thì việc sử
dụng PPDH được khẳng định là tiên tích cực như trên vẫn còn mang hình thức đối
phó, chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì lẽ đó, cho nên bản thân tôi
thời gian qua, nhiều băn khoăn, trăn trở làm thế nào để tất cả các giáo viên thực hiện
2
theo phương pháp hoạt động nhóm, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện. Và trong suốt quá trình ấy bản thân đã có một số việc làm tại trường xin được
bày tỏ dưới đây với mục đích trao đổi, với đồng nghiệp để kinh nghiệm thêm phong
phú, nhằm góp phần tốt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
1- Khảo sát qua thực tế giảng dạy của giáo viên:
Như chúng ta đã biết, cốt lõi của việc đổi mới PPDH ở trường THCS là giúp HS
hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Khi nghiên
cứu về nhóm PPDH tích cực thì tổ chức hoạt động nhóm không những nó hoàn toàn
có khả năng đó mà còn vượt trội hơn các phương pháp khác và bản thân nó còn tiềm

ẩn một sức mạnh cực kỳ to lớn – có nhiều khả năng phát huy được tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của người học. Cho nên việc vận dụng phương pháp tổ
chức hoạt động nhóm trong tiết học không còn là vấn đề nên hay không nên, mà
chúng ta phải làm sao để mọi giáo viên thực hiện một cách tự giác và học sinh chủ
động hưởng ứng, đồng thời bàn cách vận dụng nó như thế nào cho có hiệu quả và tìm
ra được nguyên nhân vì sao phần lớn GV-HS lại không “mặn mà” với phương pháp
ấy.
Qua khảo sát trong việc dự giờ thao giảng của giáo viên trường Trung học cơ sở
Phú Xuân năm học 2007 – 2008, và qua nhiều năm học trước. Đồng thời cũng tìm
hiểu qua nhiều đồng nghiệp ở các trường trong huyện , việc thảo luận nhóm trong dạy
- học hầu hết ở các bộ môn đều mang tính chất “chiếu lệ”, “ làm cho có” chứ chưa thể
tích cực chủ động, vận dụng phương pháp dạy - học theo nhóm để thực sự đổi mới
phương pháp dạy học ;qua đó, nhận ra cái tích cực, cái hay, cái cần thiết của hoạt
động này. Tuy nhiên khi được hỏi, ai nấy đều khẳng định đây là một phương pháp hay
và rất tích cực .
Trong năm học 2007 – 2008, bản thân tôi đã dự được 28 tiết dạy ở các bộ môn
Sử - Địa - GDCD ở trường Trung học cơ sở Phú Xuân và 6 tiết ở trường Trung học cơ
sở Nơ Trang Lơng khi làm nhiệm vụ thanh tra giáo dục ( không kể các tiết dự môn
3
học khác), thì có 12 tiết giáo viên có sử dụng phương pháp hoạt động nhóm. Nhưng
nhìn chung hầu hết tất cả các tiết dạy đều không đạt được kết quả như mong muốn
trong phần thảo luận nhóm. Từ đó, kéo theo kết quả của cả tiết học cũng không đạt kết
quả cao. Thậm chí có những tiết do sự chuẩn bị chưa chu đáo của giáo viên, hoặc là
do giáo viên chưa quen với việc điều khiển, hướng dẫn, quản lí học sinh trong thảo
luận nhóm, nên thường mất bình tĩnh tự tin, mất chủ động , chiếm nhiều thời gian dẫn
đến “ cháy giáo án” hay phân bố thời gian không hợp lí trong từng đề mục của bài
học. Đồng thời làm cho lớp học trở nên lộn xộn, ồn ào…dẫn đến phản tác dụng trong
giáo dục, giáo viên thì ngại thực hiện phương pháp này.
Nhưng cũng phải nói rằng, việc thiếu thiết bị dạy học ( nam châm, bảng phụ, bút
bảng trắng….), việc giáo viên ít có kĩ năng về tin học (đánh, in phiếu trả lời, phiếu

thảo luận…), cộng thêm tính tự giác, trách nhiệm, và tình yêu nghề nghệp của giáo
viên chưa cao , nên việc thảo luận nhóm trong từng môn học chưa được sử dụng rộng
rãi và thường xuyên.
Qua khảo sát, tìm hiểu đồng nghiệp tại trường trong học kì I năm học 2007-2008
số lượng tiết dạy ở khối lớp 9 có thảo luận nhóm trong một số môn học như sau:
Môn học Có thảo luận nhóm
1 Sử 11T/18T thực dạy
2 Địa 14T/36T thực dạy
3 GDCD 14T/18T thực dạy
4 Âm nhạc 6T/18T thực dạy
2- Khảo sát qua thực tế học tập của học sinh :
Khảo sát qua đối tượng học sinh, khối học buổi sáng ( 8 + 9), tất cả các lớp đều
cho rằng, các tiết học có thảo luận nhóm các em đều tham gia một cách tự giác, sôi
nổi với tinh thần thoải mái, gây hứng thú cao, đặc biệt là các em đã làm chủ được việc
chủ động tiếp thu kiến thức bài học, và làm chủ được”sân khấu”, giáo viên chỉ là
người hướng dẫn, người đạo diễn cho các em cách tiếp nhận các kiến thức.
4
Qua việc thảo luận nhóm, các em được cùng nhau hợp tác gải quyết một nội
dung học tập, được bàn bạc và nêu ý kiến của mình . Từ đó, tạo nên tình đoàn kết, gắn
bó giữa các em , tạo nên sự tự tin và ý thức , trách nhiệm trong sinh hoạt tập thể của
các em để nắm bắt kiến thức và gần gũi nhau hơn trong học tập và trong cuộc sống.
3 - Qua thực tế giảng dạy của bản thân:
Qua thực tế giảng dạy , trong năm học 2007 – 2008, bản thân tôi trực tiếp giảng
dậy 10 lớp ( 5 lớp 8 và 5 lớp 9), tổng số tiết là 15 tiết/ tuần. Trong đó có khoảng 2/3 số
tiết có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Qua các tiết dạy bản thân cảm thấy
phương pháp thảo luận nhóm có những mặt tích cực cụ thể như sau:
- Ngoài những vấn đề tích cực nêu ở trên , qua thảo luận nhóm thời gian làm việc
của học sinh tăng lên, tất cả các học sinh đều được tham gia giải quyết vấn đề học tập.
Điều này học sinh đã thực sự trở thành chủ thể trong việc dạy và học, nâng cao trách
nhiệm của học sinh trong học tập. Nó khác với phương pháp truyền thống là phát vấn,

chỉ có 2 đến 3 học sinh tham gia sau đó giáo viên kết luận vấn đề và các học sinh khác
phải ghi nhận kết quả một cách áp đặt và coi đó là “chân lí”. Số học sinh này trở thành
đối tượng thụ động trong học tập, dẫn đến chây ì, không cần động não suy nghĩ….
- Thứ hai là giáo viên chủ động được việc thực hiện nội dung bài học, chỉ là
người hướng dẫn học sinh, thời gian thuyết trình ít, tăng được thời gian làm bài tập
thực hành , rèn luyện kĩ năng cho học sinh, cũng cố kiến thức đã học…

Phần thứ hai:
GIẢI PHÁP
5
1.Công tác chuẩn bị:
Để thực hiện được công việc hoạt động nhóm trong từng tiết dạy, giáo viên cần:
+ Chuẩn bị chu đáo về đồ dùng dạy học.( Phiếu học tập, bảng phụ, bút bảng
trắng và các đồ dùng dạy học khác…)
+ Chia nhóm học sinh cần phải phân bố đối tượng học sinh chia đều cho các
nhóm, để có số học sinh và năng lực đồng đều với nhau giữa các nhóm…
+ Cử tổ trưởng và thư kí các nhóm. ( lưu ý là những học sinh nhanh nhẹn, tháo
vát, chữ đẹp, có tinh thần và trách nhiệm cao…). Thông thường mỗi lớp được chia
làm 4 hoặc 5 nhóm, mỗi nhóm có từ 6 đến 10 em. Tuy nhiên để dễ quản lý và tạo cho
các em có nhiều cơ hội để thể hiện ý kiến của mình, thống nhất ý kiến nhanh hơn và
dễ quản lí hơn thì nên chia mỗi nhóm có từ 2 đến 4 em .
+ Hướng dẫn các em ngồi hướng mặt vào nhau giữa các thành viên trong các
nhóm.
Sau đây là một số cách chia nhóm và kiểu nhóm thường thường được sử dụng
trong dạy học nhóm ở môn lịch sử:
STT Cách chia nhóm Kiểu nhóm và khi sử dụng
1 Gọi số: Đếm HS từ số 1
đến số mà nhóm dự kiến
- Nhóm nhiều trình độ.
2 Biểu tượng (nhóm mèo

con; thỏ trắng….)
- Nhóm cùng trình độ hay nhiều trình độ.
- Nhóm hình thành ngẫu nhiên.
3 Chỉ định (GV chỉ định
hình thành nhóm)
- Nhóm cùng trình độ hay nhiều trình độ.
- Nhóm h ình th ành có ch ủ định
4 Cặp đôi (thường hay chia
theo từng bàn 2 HS).
- Nhóm cùng trình độ hay nhiều trình độ.
5 Tình bạn (thường hay cho
HS tự chọn nhóm)
- Nhóm cùng trình độ hay nhiểu trình độ.
6 Cố định (nhóm định sẵn
trước qua nhiề tiết học)
- Nhóm hình thành có chủ định
- Nhóm nhiều trình độ hay cùng trình độ.
6
Thông thường Giáo viên thường sử dụng nhóm cố định, không những cho một
môn mà nhiều môn học theo cách chia tổ của lớp, hoặc theo từng dãy bàn, Cách chia
nhóm kiểu này thường không được đều về trình độ giữa các nhóm, nhóm học sinh nào
có nhiều đối tượng học sinh khá, giỏi sẽ hoàn thành sớm và đầy đủ nội dung hơn . Còn
nhóm có ít hoặc không có học sinh học khá giỏi sẽ hoàn thành công việc muộn và
thường thiếu nội dung…
Tuy có nhiều cách chia nhóm, nhưng theo kinh nghiệm chúng tôi đề nghị nên
chia nhóm theo cách chỉ định, kiểu nhóm có chủ định sắp xếp của giáo viên. Trong đó
lưu ý chia đều số đối tượng học sinh trong lớp sao cho nhóm nào cũng có số học sinh
có trình độ tương đương nhau để có sự đua tranh công bằng giữa các nhóm. Tạo nên
một không khí hưng phấn đều trong lớp học.
2. Tiến hành hực hiện:

Bước 1 : Chọn kiến thức cơ bản cần cung cấp cho học sinh.
a. Đối với kiến thức cần sử dụng lược đồ và câu hỏi phát vấn:
Giáo viên nêu vấn đề và yêu cầu của công việc thảo luận nhóm, có thể tuỳ vào
từng nội dung và yêu cầu cụ thể của từng bài , từng mục mà có yêu cầu khác nhau cho
các nhóm. Cũng có thể cho các nhóm thảo luận cùng một nội dung…
Ví dụ:
Trong bài: “Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40” - Lịch sử lớp 6.
Khi dạy phần “ Khới nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ Năm 40 ”
Giáo viên có thể chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm có trách nhiệm giải quyết một câu
hỏi, với 4 câu hỏi đó sau khi hoàn thành thảo luận thì nội dung của cả phần học đã
được giải quyết xong.
Cụ thể câu hỏi của các nhóm như sau;
+ Nhóm1: Đọc SGK, các em hãy tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến khởi nghĩa?
+ Nhóm2 : Em có nhận xét gì về 4 câu thơ trong SGK?
7
“ Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”
+ Nhóm3: Dựa vào lược đồ và nội dung SGK hãy tường thuật diễn biến của
cuộc khởi nghĩa?
+ Nhóm4: Cuộc khởi nghĩa có kết quả, ý nghĩa như thế nào?
Nội dung câu hỏi phải được chuẩn bị trước trong phiếu thảo luận, Giáo viên cung cấp
phiếu cho các nhóm. Cách này thường dùng cho thảo luận cả một phần học nên thời
gian cũng được bố trí một cách phù hợp.
Cũng trong phần này giáo viên cũng có thể chỉ dùng một câu hỏi để thảo luận chung
cho các nhóm, nhằm mục đích để khắc sâu hoặc phát hiện một vấn đề liên quan đến
bài học.
Ví dụ: Dùng lược đồ “câm”(lược đồ trống) cho cả 4 nhóm, không dùng SGK
mà bằng tái tạo kiến thức đã học, hãy điền những kí hiệu mô tả diễn biến của cuộc

khởi nghĩa ?
Cách thảo luận này là để phát hiện, khắc sâu một vấn đề lịch sử, thường dùng
cho việc sơ kết một phần hoặc một bài học.
Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể dùng phương pháp thảo luận nhóm để phát hiện
nhận thức mới của học sinh qua nội dung bài học, hoặc sự liên hệ thực tế mà các em
đã được đọc qua tài liệu, phim ảnh, sách báo…Hoặc là để các em tự tổng hợp kiến
thức của mình qua những kiến thức mà tiết học cung cấp.
Ví dụ:
Sau khi học xong bài HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở NƯỚC NGOÀI
(1919-1925).( Lịch sử 9 – bài 16)
Giáo viên có thể ra câu hỏi thảo luận, sau khi đã học xong bài học: Em hãy nêu công
lao của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn từ 1919 đến
1925?
8
Với nội dung câu hỏi loại này, học sinh phải thảo luận và tổng hợp được một cách
ngắn gọn, đầy đủ kiến thức có tính nâng cao so với kiến thức bài học về công lao của
Nguyễn Ái Quốc. Cụ thể:
- đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
- Chuẩn bị tư tưởng – chính trị nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam.
- Chuẩn bị về tổ chức cho việc thành lập chính Đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam.
b. Đối với loại kiến thức khai thác qua tranh ảnh:
GV hướng dẫn học sinh thảo luận về những nội dung ẩn chứa trong tranh ảnh đó,
nhằm khắc sâu, bổ trợ thêm kiến thức cho học sinh , học sinh tự khai thác, tìm hiểu
nội dung liên quan đến bài học qua tranh ảnh với sự trợ giúp và hướng dẫn của giáo
viên.
Ví dụ:
Khi học bài 5: CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử 9)
Mục III: Từ Asean 6 phát triển thành Asean 10.

Sau khi đã tìm hiểu nội dung về quá trình phát triển của tổ chức Asean, Giáo viên
hướng dẫn học sinh tìm hiểu và khai thác hình 11 (Hội nghị cấp cao Asean VI họp tại
Hà Nội) và đặt câu hỏi thảo luận:
Bức tranh này thể hiện điều gì?
HS thảo luận xuất xứ và nội dung bức ảnh, Cho học sinh nêu ý kiến nhận xét, bổ sung
giữa các nhóm, sau đó Giáo viên kết luận cụ thể:
- Bức ảnh chụp Hội nghị cấp cao Asean VI được tổ chức taịo Hà Nội từ ngày 15
đến ngày 16 – 12 – 1998, dưới sự chủ toạ của thủ tướng nước CHXHCN VIệt
Nam Phan Văn Khải.
- Hội nghị đã tổng kết 31 năm phát triển của Asean, đề ra các biện pháp đối phó
với những thách thức trong khu vực khi bước vào thế kỉ XXI. Chủ đề của hội
nghị cấp cao lần này là : Đoàn kết và hợp tác vì một Asean hoà bình, ổn định và
9
phát triển đồng đều”, đồng thời kết nạp Cam – pu – chia trở thành thành viên
thứ 10 của hiệp hội.
c. Đối với nội dung kiến thức cần khai thác qua bảng, biểu đồ:
Thông thường, nhiều giáo viên cho đây là một loại bài tập nên tập trung áp dụng vào
các tiết ôn tập, tổng kết, hoặc tiết làm bài tập ở lớp. Vả lại sự chuẩn bị công phu, tốn
kém, mất thời gian, nên giáo viên thường “ngại”. Tuy nhiên nếu biết khai thác nó thì
sẽ phát huy rất tốt tính tư duy, sáng tạo của học sinh trong kĩ năng phân tich, đánh giá
và nhận xét theo mục tiêu của bài học.
Ví dụ:
Khi học bài 14: VIỆT NAM SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI LẦN THỨ NHẤT
( Lịch sử 9)
Ở mục III: Xã hội Việt Nam phân hoá.
Để tìm hiểu về giai cấp công nhân, Giáo viên cung cấp các số liệu sau đây cho học
sinh ( kẻ sẵn trên một tờ giấy to, hoặc trên bảng phụ). Cho học sinh quan sát, chia
nhóm ra thảo luận:
Em có nhận xét gì về số lượng công nhân, hãy giải thích vì sao?
Ngành Trước 1914 Năm 1929

Mỏ 10.000 người 53.000 người
Đồn điền 34.000 người 81 ngàn người
Công nhân ngành công nghiệp 86 ngàn người
Công nhân thời vụ (Phu làm đường) Hơn 1 triệu người
Sau khi học sinh thảo luận, trình bày kết quả theo từng nhóm, giáo viên yêu cầu học
sinh các nhóm nhận xét cho nhau, rồi đi đến kết luận:
- Số lượng công nhân tăng nhanh.
- Nguyên nhân là do thực dân Pháp ngày càng mở rộng và tăng cường phạm vi
khai thác, bóc lột đối với nước ta., nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Bước 2: Cách tổ chức hoạt động cho học sinh.
a. Hướng dẫn học sinh thảo luận.
- Phát phiếu thảo luận .
10
- Nêu điều kiện: thời gian, kỉ luật , vị trí và thứ tự trình bày kết quả của từng
nhóm sau khi thảo luận xong…
- GV theo dõi , nhắc nhở, kiểm tra , đôn đốc học sinh…
b. Làm việc theo nhóm:
- Phân công trong nhóm, từng cá nhân làm việc độc lập (chú ý: yêu cầu các em
suy nghĩ độc lập)
- Trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm, thống nhất ý kiến chung.
- Cử đại diện (hoặc phân công trước) chịu trách nhiệm trình bày kết quả làm
việc của nhóm.
Giáo viên có thể dùng bảng phụ để học sinh thảo luận và ghi kết quả vào bảng ,
khi học sinh báo cáo kết quả chỉ cần treo lên bảng chính để không bị lãng phí thời
gian không cần thiết như nếu để học sinh lên bảng chính để ghi kết quả. Nên tránh
việc đọc kết quả của từng nhóm rồi cho học sinh nhận xét, vì như thế rất khó cho học
sinh các tổ khác nhận biết đầy đủ các kết quả của các tổ để đưa ra nhận xét , bổ
sung…
c. Thảo luận tổng kết trước toàn lớp:
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả theo sự phân công của giáo viên , theo

trình tự nội dung thảo luận….
- Thảo luận chung.
Cho học sinh các nhóm nhận xét, bổ sung kết quả lẫn nhau giữa các tổ.
- Giáo viên tổng kết, chốt lại nội dung của từng câu hỏi thảo luận, nếu là thảo
luận nhiều câu hỏi cùng một lúc. Đồng thời, hướng dẫn học sinh nắm nội dung của bài
học …
- Tổng kết, so sánh kết quả đạt được của các nhóm, có thể cho điểm theo từng
nhóm, tuyên dương trước lớp hoặc phát thưởng cho học sinh tuỳ vào điều kiện cụ thể
có được.
* Những vấn đề giáo viên cần lưu ý:
11
+ Từ nhóm 4 em trở lên, phải cử 1 nhóm trưởng (HS học khá-giỏi, có uy tín) và
1 thư ký (HS viết rõ ràng nhanh nhẹn).
+ Trong thời gian đầu, GV hướng dẫn cụ thể cho các nhóm hoạt động (tập huấn
cho nhóm trưởng và thư ký). Có nhận xét, điều chỉnh bổ sung cách làm của từng
nhóm và rút kinh nghiệm chung. Chú ý động viên khích lệ.
+ Phải thường xuyên chú ý HS yếu kém và biện pháp giúp đỡ để các em cùng
tham gia giải quyết nhiệm vụ của nhóm.
+ Chọn những vấn đề, bài tập thích hợp (không quá khó, cũng không quá dễ).
+ Đánh giá, cho điểm, động viên và tuyên dương kịp thời cá nhân, tập thể (chú
ý HS yếu).
+ Phát huy tốt đồ dùng dạy học hiện có và đẩy mạnh phong trào tự làm đồ dùng
dạy học để phục vụ tiết dạy:
Giáo viên tự làm đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung và phương pháp.
Tận dụng triệt để các đồ dùng dạy hiện có của nhà trường phù hợp với nội
dung tiết dạy.
Phân công trước cho các nhóm của lớp mình dạy làm đồ dùng dạy và học cho
các nhóm cụ thể (từ một đến hai tuần trước tiết dạy)
Giáo viên học tập áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm của các đồng chí, đồng
nghiệp của mình ( phiếu học tập, bảng phụ….)

Phần thứ ba
KẾT LUẬN:
1- Kết quả đạt được:
12
a. Các tiết lên lớp, việc tổ chức hoạt động nhóm được chủ động diễn ra theo kế
hoạch của người dạy. Đặc biệt, cách dạy học này (tổ chức hoạt động nhóm) của giáo
viên đều đảm bảo quy trình đổi mới. Khi trình bày ở bài soạn về vấn đề này có những
lúc GV chẻ nhỏ thêm, nhưng nhìn chung thì theo qui trình sau:
+ Khi tiến hành đảm bảo đúng 3 bước: Hướng dẫn học sinh thảo luận; Học sinh làm
việc theo nhóm và thảo luận tổng kết trước tập thể lớp.
+ Các thao tác của thầy, trò thành thạo, đặc biệt đa số ham thích thể hiện ở việc thảo
luận sôi nổi, mạnh dạn trình bày ý kiến của mình; biết tranh luận - chủ động chiếm
lĩnh kiến thức mới, dưới sự tổ chức của giáo viên. Hiện tượng lười biếng, không tham
gia cùng nhóm để hoàn thành nhiệm vụ học tập, hay quậy phá đã được giảm thiểu
nhiều. Cả thầy lẫn trò đều có sự chuẩn bị tốt cho tiết học, nhất là phần hoạt động
nhóm.
b. Với phương pháp này người giáo viên dần dần đã tập cho mình có một thói
quen trong dạy và đến nay việc tổ chức hoạt động nhóm trở thành một nhu cầu không
thể thiếu đối với tôi; không còn là vấn đề mang tính bắt buộc hay đối phó.
c. Đa số tiết học, tôi đều có tổ chức hoạt động nhóm và đạt hiệu quả cao, góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2. Bài học kinh nghiệm:
- Giáo viên phải ý thức được ý thức được trách nhiệm của mình trong công tác
dạy học, phải thường xuyên áp dụng các biện pháp dạy học tích cực, trong đó có
phương pháp hoạt động nhóm của học sinh.
- Kinh nghiệm thực tế cho thấy ở chúng ta phải tác động cùng một lúc bằng
nhiều biện pháp. Tuy nhiêm, không phải dàn trãi mà phải xác định cho được đâu là
biện pháp đột phá, để có sự đầu tư tập trung hợp lý. (Muốn nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, nhất thiết giáo viên phải đổi mới PPDH).
- Tóm lại: Thảo luận nhóm là một hình thức dạy học mới. Đó là một trong những

hình thức thực hiện tốt nhất mục đích dạy học theo hướng tích cực và tương tác, nó
kích thích học sinh tìm tòi , phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức. Hình thức này tạo ra
13
hứng thú cho học sinh trong học tập . Hiện nay khi thực hiện chương trình và sách
giáo khoa mới, chúng ta nên khuyến khích và tổ chức cho học sinh học tập theo hình
thức này.
KIẾN NGHỊ
- Đáp ứng đủ, kịp thời các trang thiết bị phục vụ dạy học mà giáo viên và học
sinh không có khả năng tự làm hoặc mua sắm.
- Phân công nhiệm vụ và bố trí chuyên môn hợp lí hơn, để mỗi giáo viên có
nhiều thời gian và khả năng phát huy chuyên môn của mình cho việc soạn giảng.
- Để có hiệu quả trong đổi mới phương pháp dạy học đề nghị cán bộ giáo viên
phải thực hiện một cách đồng bộ và thường xuyên hơn với các tiết dạy trên lớp. Ban
giám hiệu có thể phát động phong trào thi đua hoặc kiểm tra chặt chẽ hơn nữa việc đổi
mới phương pháp dạy học , đặc biệt là phương pháp hoạt động nhóm….v v
Trên đây là một số việc mà tôi rút ra trong thời gian qua và thực tế đã mang lại
một số hiệu quả nhất định. Qua tham luận này rất mong đồng nghiệp góp ý để bản
thân có thêm những kinh nghiệm quý báu về công tác giảng dạy nhằm đạt hiệu quả
cao phù hợp với đổi mới chương trình giáo dục phổ thông hiện nay!
Phú Xuân, tháng 04/2009.
14
Người thực hiện
Nguyễn Hữu Thanh
15
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu…………………………………………….……01
Phần thứ nhất: THỰC TRẠNG…………………………….02
Phần thứ hai: GIẢI PHÁP ……………………………….04
Phần thứ ba: KẾT LUẬN……………………………… 06

Phần thứ tư : KIẾN NGHỊ ………………………………07
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục – NXB Chính trị quốc gia
2. Sáchgiáo khoa lịch sử 6, 7, 8, 9 – NXB Giáo dục.
3. Thiết kế và sử dụng bài tập trong dạy học lịch sử ở trường THPT
TS Trần Quốc Tuấn – ĐH Quy Nhơn.
4. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK Lịch sử THCS
TS Nguyễn Thị Côi ( chủ biên) – NXB Giáo dục.
5. Thuật ngữ khái niệm Lịch sử phổ thông.
17

×