Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.43 KB, 41 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Th.s Nguyễn
Xuân Hưng lời cảm ơn chân thành và sâu sắc. Bởi sự hỗ trợ, chỉ dẫn tận tình
cùng với những định hướng đúng đắn giúp tác giả hoàn thiện tốt đề tài này. Tác
giả chúc thầy cùng gia luôn mạnh khỏe, chúc thầy thành công hơn nữa trong
công tác giảng dạy và nghiên cứu.
Do hạn chế về thời gian, kinh nghiệm cũng như kiến thức thực tế, đề án
không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tác giả mong nhận được những ý kiến
đống góp từ phía Thầy để đề án được hoàn thiện hơn.
Xin chân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tên tác giả là Nguyễn Thảo Hiền- Sinh viên lớp Kinh tế Quốc tế 53B –
Mã số sinh viên CQ531254 xin cam đoan Đề án môn học “Phát triển dịch vụ
logistics ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO” là công trình nghiên cứu riêng của
tác giả dưới sự hướng dẫn của Th.s Nguyễn Xuân Hưng, được thực hiện trong
quá trình học và tìm hiểu tài liệu, số liệu thực tế, hoàn toàn không có sự sao
chép các luận văn và chuyên đề của các khóa trước.
Tác giả xin chịu mọi trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2014
Sinh Viên thực hiện
Nguyễn Thảo Hiền
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh Tiếng Việt
1 AFFA Asean Freight Forwarders
Association
Hiệp hội Giao nhận Đông
Nam Á


2 CIF Cost Insurance, Freight
3 CSCMP Council of Supply Chain
Management Professionals
Hiệp hội các nhà chuyên
nghiệp về quản trị chuỗi
cung ứng
4 DWT Deadweight Tonnage Đơn vị đo bằng tấn
5 GTVT Giao thông vận tải
6 FOB Free On Board
7 LPI Logistics Performance
Index
Chỉ số năng lực ngành
logistics
8 TEU Twenty-foot equivalent
units
Đơn vị đo tương đương 20
foot
9 Th.s Thạc sĩ
10 Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
11 SWOP Strengths-Weaknesses-
Opportunities-Threats
Điểm mạnh-Điểm yếu-Cơ
hội-Thách thức
12 Sv Sinh viên
13 VLA Vietnam Logistics
Associations
Hiệp hội Doanh nghiệp
Dịch vụ logistics Việt Nam
14 XNK Xuất nhập khẩu
15 WB World Bank Ngân hàng thế giới

16 WTO Worrld Trade
Organnization
Tổ chức thương mại thế
giới
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2007 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng trong quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Bước vào sân chơi toàn cầu đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp
tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp này là dịch vụ logistics đang ngày càng phát triển và khẳng
định vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Xuất hiện từ vài thế kỉ trước trên thế giới, tuy nhiên thuật ngữ Logistics
mới được công nhận tại Việt Nam sau khi đổi tên từ “giao nhận kho vận”, và
đây chính là mốc đánh giá ngành dịch vụ này đã bước qua thời kỳ non trẻ. Tỷ
trọng dịch vụ logistics chiếm khoảng 15% trong kim ngạch xuất khẩu. Trong
mười năm tới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 200 tỉ USD/năm
và do đó tiềm năng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam là rất lớn.
Đi kèm với cơ hội phát triển, ngành dịch vụ này tại Việt Nam đang chịu
nhiều khó khăn và thách thức bởi quy mô phần lớn của các doanh nghiệp
logistics còn nhỏ, tiềm lực tài chính yếu, nguồn nhân lực hạn chế nhiều mặt và
đặc biệt là kinh nghiệm thương trường. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics của Việt Nam chủ yếu làm đại lý, hoặc đảm nhận từng công đoạn
như là nhà thầu phụ trong dây chuyển logistics cho các nhà cung cấp dịch vụ
logistics quốc tế, do đó đóng góp vào chuỗi giá trị không cao. Bên cạnh đó,
hiện nay có trên 25 doanh nghiệp logistics đa quốc gia đang hoạt động tại
Việt Nam nhưng chiếm đến 70-80% thị phần cung cấp dịch vụ logistics của
nước ta. Đồng thời theo cam kết gia nhập WTO, các công ty 100% vốn nước
ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới ngành
dịch vụ logistics ở nước ta sẽ hứa hẹn cạnh tranh gay gắt.

Nhận thấy đây là một vấn đề còn khá mới, mang tính cấp bách và có triển
vọng phát triển nhanh trong thời gian tới, tác giả chọn đề tài “Phát triển dịch
vụ Logistics ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống lý thuyết về logistics, các dịch vụ logistics và tổng hợp
phân tích số liệu quá trình phát triển của dịch vụ logistics tại Việt Nam từ sau
khi gia nhập WTO, đề ra được giải pháp phát triển ngành dịch vụ này một
cách hiệu quả, đóng góp tích cực vào chuỗi hoạt động sản xuất kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về logistics và các dịch vụ logistics.
Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam sau
khi gia nhập WTO.
Đề xuất giải pháp phát triển dịch vụ logistics trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay và định
hướng đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề án nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích
tổng hợp và những phương pháp toán học đơn giản để tiếp cận vấn đề. Đặc
biệt đề án chú trọng đến việc sử dụng phương pháp chuyên gia với sự tham
khảo có chọn lọc, khoa học.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề án được trình bày trong 3 chương như
sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận về dịch vụ Logistics

Chương 2: Thực trạng phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong thời
gian qua
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong thời
gian tới.
MỤC LỤC
Chương 1. Cơ sở lí luận về dịch vụ logistics
1.1. Các quan niệm về bản chất, chức năng và vai trò của dịch vụ logistics
1.1.1 Các quan niệm về logistics và các dịch vụ logistics
1.1.2 Chức năng và nhiệm vụ của các dịch vụ logistics trong thị trường
1.1.3. Vai trò của các dịch vụ logistics
1.2. Hệ thống các dịch vụ logistics
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ logistics
1.3.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài
1.3.2. Nhóm các nhân tố bên trong
Chương 2. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam
trong thời gian qua
2.1 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và quá trình phát triển của ngành logistics ở
Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành dịch vụ logistics
2.1.2. Các biện pháp phát triển ngành dịch vụ logistics
2.2 Thực trạng phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Quá trình phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam
2.2.2. Phân tích SWOT thực trang phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam
2.3. Đánh giá thực trạng logistics ở Việt Nam
2.3.1 Những thành công trong dịch vụ logistics ở Việt Nam trong thời
gian qua
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Chương 3. Giải pháp phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam trong
thời gian tới.
3.1 Xu hướng phát triển dịch vụ logistics của các nước trên thế giới

3.2 Định hướng và mục tiêu phát triển dịch vụ logistics đến năm 2020 và
các năm tiếp theo
3.3 Đề xuất các giải pháp phát triển
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS
1.1.1. Các quan niệm về logistics và các dịch vụ logistics
Thuật ngữ logistics đã xuất hiện từ rất lâu, bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh
cổ đại của đế chế Hy Lạp và La Mã. Khi đó, những chiến binh có chức danh
“Logistikas” được giao nhiệm vụ chu cấp, phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm,
đảm bảo điều kiện cho quân sỹ hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị
trí khác. Công việc “hậu cần” này có ý nghĩa sống còn tới cục diện của chiến
tranh, khi các bên tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng của mình và tìm cách
triệt phá nguồn cung ứng của đối phương. Quá trình tác nghiệp đó dần hình
thành một hệ thống mà sau này gọi là quản lý logistics.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics cũng như dịch vụ logistics được
đưa ra bởi các tổ chức, cá nhân nghiên cứu về lĩnh vực này. Theo CSCMP thì
“Quản trị logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách
hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá
trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát
đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của
khách hàng”
Dưới góc độ quản trị chuối cung ứng thì logistics là quá trình tối ưu hóa về vị
trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát
đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay
người tiêu dùng cuối cung, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (xem
logistics and supply chain management, tác giả Ma Shuo, tài liệu giảng dạy
của World Maritime University, 1999)
Theo quy định tại Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: Dịch vụ
logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện

một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói
bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng
hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Vận tải Vận tải Vận tải Vận tải

Quản lí cung ứng vật tư Phân phối sản phẩm
(inbound logistics) (outbound logistics)
Hình 1: Các hoạt động cơ bản của chuỗi dịch vụ logistics
Qua hình 1 sơ đồ trên có thể thấy dịch vụ logistics là một chuỗi các dịch vụ
xuyên suốt từ quá trình sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp. Khái niệm dịch vụ logistics có thể được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp coi logistics gần tương tự với giao nhận hàng hóa.
Tuy nhiên trong đó có tính mở bao gồm các dịch vụ khác có liên quan đến
hàng hóa. Theo nhóm này, bản chất của dịch vụ logistics là việc tập hợp các
yếu tố hỗ trợ cho quá trình vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
thụ. Theo đó, dịch vụ logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung cấp dịch
vụ logistics không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa
phương thức.
Thứ hai, theo nghĩa rộng, có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi
hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Theo nhóm định nghĩa này, dịch
vụ logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên, nhiên vật liệu (nguồn cung
ứng) làm đầu vào cho quá trình sản xuất hàng hóa và đưa vào kênh lưu
thông, phân phối để tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa đã
phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận
tải, giao nhận, khai thuê hải quan, phân phối, dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tư vấn
quản lý…với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm
nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới tay
người tiêu dùng cuối cùng. Như vậy, nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên
nghiệp đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để cung cấp dịch vụ

“trọn gói” cho các nhà sản xuất.
1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của các dịch vụ logistics trong thị trường
1.1.2.1. Chức năng
Kho
hàn
g
Lưu
kho
Nguồn
cung
ứng
Tiêu thụ
Nhà
máy
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các dịch vụ logistics có các chức năng
sau:
- Các dịch vụ logistics thực hiện chức năng hỗ trợ cho quá trình sản xuất cũng
như quá trình phân phối lưu thông hàng hóa tới người tiêu dùng cuối cùng
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Muốn sản xuất ra các sản phẩm thì phải cần đến các yếu tố đầu vào như
nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, nhân công… Trong điều kiện kinh tế
hiện nay, các nguồn cung cấp các yếu tố này thì nhiều vô kể, Nhưng làm thế
nào để có thể mua được những yếu tố đầu vào đảm bảo về số lượng, chất
lượng chủng loại, quy cách?
Dịch vụ logistics hoặc cung cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp những yếu tố
này hoặc tư vấn cho các doanh nghiệp các nguồn hàng đảm bảo, đáp ứng các
yêu cầu của các doanh nghiệp, tư vấn cho khách hàng về lượng vật tư tồn kho
là bao nhiêu để vừa đảm bảo cho việc sản xuất lại vừa hạn chế được các chi
phí không cần thiết. Trong quá trình sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ logistics
sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp về qui trình sản xuất , lượng hàng hóa cần

sản xuất, lượng hàng dự trữ là bao nhiêu…Các nhà cung cấp dịch vụ logistics
cũng tư vấn cho các doanh nghiệp các kênh phân phôi, các chương trình
marketing vầ xúc tiến bán hàng. Đặc biệt, các nhà kinh doanh dịch vụ
logistics cung ứng các dịch vụ vận tải, đảm bảo hàng hóa đến với người tiêu
dùng đúng thời gian và địa điểm, chi phí thấp nhất đảm bảo uy tín cho các
doanh nghiệp đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Như vậy, trong cả quá trình từ tiền sản xuất, sản xuất , phân phối lưu thông
đều có sự góp mặt của các dịch vụ logistics, hỗ trợ cho các hoạt động của các
doanh nghiệp sao cho với những chi phí thấp nhất, hiệu quả kinh doanh lớn.
- Thông qua các hoạt động cung ứng các yếu tố đầu vào, đầu ra, các dịch vụ
tư vấn…các dịch vụ logistics thực hiện chức năng gắn sản xuất với thị trường,
gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở
cửa nền kinh tế.
Để có thể cung cấp cho các doanh nghiệp các yếu tố đầu vào, đầu ra, các dịch
vụ tư vấn…thì các nhà cung ứng dịch vụ logistics phải nghiên cứu và nắm nhu
cầu thị trường, huy động và sử dụng hợp lý các nguồn lực nhắm cung ứng
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các sẳn phẩm phù hợp, đáp ứng
nhu cầu thị trường. Các dịch vụ logistics cũng thiết lập hợp lý các mối quan
hệ kinh tế thế giới thông qua việc tìm kiếm các yếu tố đầu vào cho quá trình
sản xuất ở nước ngoài rẻ hơn ở trong nước, vận chuyển hàng hóa các nước
trên thế giới…từ đó gắn nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực
hiện chính sách mở cửa nền kinh tế.
1.1.2.1. Nhiệm vụ
- Nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp bằng cách thỏa mãn
đầy đủ, kịp thời và thuận lợi các yếu tố đầu vào, đầu ra cũng như trong quá
trình sản xuất của doanh nghiệp.
Khi có nhu cầu từ phía các doanh nghiệp, các nhà cung ứng dịch vụ logistics
phải đảm bảo sao cho cung cấp đầy đủ, kịp thời, có chất lượng đáp ứng các
yêu cầu để thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp trong sản xuất cũng như
hoạt động phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng, đồng thời giúp doanh

nghiệp cắt, giảm các chi phí không cần thiết.
- Phát triển dịch vụ logistics, đảm bảo quá trình sản xuất, phân phối lưu
thông hàng hóa trên thị trường được thông suốt, dễ dàng.
- Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước:
Vốn, việc làm, công nghệ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế
quốc dân.
- Góp phần hoàn thiện bộ máy quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp thông
qua các hoạt động tư vấn quản lý, tư vấn sản xuất kinh doanh.
- Phát triển lĩnh vực thương mại quốc tế với các quốc gia trên thế giới thông
qua các hoạt động vận tải ngoại thương, tư vấn ngoại thương…
1.1.3. Vai trò của các dịch vụ logistics
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá
trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công
nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật
và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát
triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa
đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm
bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng
tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩ dịch vụ. Dịch vụ logistics ở Việt
Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP. Mặc dù dịch vụ logistics còn khá mới ở
Việt Nam nhưng nó có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với các doanh
nghiệp mà còn có vai trò rất lớn cho nền kinh tế quốc dân.
Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể
thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Các nghiên cứu gần đây cho thấy,
chỉ riêng hoạt động logistics đã chiếm từ 10-15% GDP của hầu hết các nước
tại Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu á Thái Bình Dương. Vì vậy nếu nâng cao hiệu
quả hoạt động logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế xã hội của
đất nước.
Logistics giữ vai trò cầu nối, là động lực thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu. Cùng với sự phát triển

mạnh mẽ của nền kinh tế giới theo hướng toàn cầu hóa dịch vụ logistics ngày
càng đóng vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở những ưu điểm sau:
- Dịch vụ Logistics giữ vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu trình lưu
chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện…
tới sản phẩm cuối đến tay người tiêu dùng. Từ thập niên 70 của thế kỷ XX,
liên tiếp các cuộc khủng hoảng năng lượng buộc các doanh nghiệp phải quan
tâm tới chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Trong nhiều giai đoạn, lãi suất
ngân hàng cũng cao khiến cho các doanh nghiệp có nhận thức sâu sắc hơn về
vốn, vì vốn bị đọng lại do việc duy trì quá nhiều hàng tồn kho. Chính trong
giai đoạn này, cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển
hàng hóa được đặt lên hàng đầu. Và với sự trợ giúp đắc lực của công nghệ
thông tin, logistics chính là công cụ đắc lực để thực hiện điều này.
- Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố đúng
thời gian và địa điểm (just in time).
Ở đây không chỉ là giao hàng đến với người tiêu dùng đúng thời gian và địa
điểm mà còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp đúng lúc, kịp
thời, đảm bảo khống chế hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Việc đảm bảo đúng
thời gian và địa điểm giúp doanh nghiệp giảm được chi phí không cần thiết
trong quá trình sản xuất, dự trữ cũng như phân phối tới tay người tiêu dùng.
Đặc biệt trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay hàng hóa và sự vận động
của chúng ngày càng phong phú và phức tạp hơn, nhu cầu của người tiêu
dùng cũng đa dạng và có những yêu cầu khá cao trong việc đảm bảo hàng
hóa được giao đúng thời gian và địa điểm.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ cho các nhà quản lý ra quyết định chính xác trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà quản lý phải giải quyết nhiều bài
toán hoác búc về nguồn nguyên liệu cung ứng (số lượng bao nhiêu, chất
lượng thế nào, chủng loại ra sao, nguồn gốc từ đâu…), dự trữ bao nhiêu
nguyên vật liệu và thành phẩm, vận chuyển tới người tiêu dùng như thế nào
để làm sao chi phí thấp nhất nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Lời giải cho

những bài toán chi phí này không thể thiếu vai trò của các dịch vụ logistics.
Qua các vai trò trên cho thầy tầm quan trọng của dịch vụ logistics trong toàn
bộ quá trình sản xuất kinh doanh, lưu thông, phân phối không chỉ của từng
doanh nghiệp nói riêng mà còn của cả nền kinh tế nói chung. Là cầu nối, là
động lực thúc đẩy quá trình sản xuất, lưu chuyển hàng hóa đến nơi tiêu dùng,
hiện nay dịch vụ logistics được các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều.
1.2. HỆ THỐNG CÁC DỊCH VỤ LOGISTICS
Lĩnh vực logistics rất đa dạng, bao gồm nhiều quy trình công đoạn khác nhau
nên có dựa vào các tiêu thức khác nhau có thể phân loại hệ thống dịch vụ
logistics theo nhiều loại:
- Theo phương thức hoạt động, dịch vụ logistics gồm 4 loại sau:
+ First Party Logistics (1PL-Logistics bên thứ nhất):
Các công ty tư nhân thực hiện các hoạt động logistics của mình. Công ty sở
hữu các phương tiện, vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực
khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động logistics. Đây thường
là những tập đoàn logistics lớn trên thế giới với mạng lưới toàn câu, có
phương cách hoạt động phù hợp với từng địa phương.
+ Second Party Logistics (2PL-Logistics bên thứ hai):
Quản lý các hoạt động logistics truyền thống như vận tải kho vận. Công ty
không sở hữu hoặc có đủ phương tiện và cơ sở hạ tầng thì có thể thuê ngoài
các dịch vụ cung cấp logistics nhằm cung cấp phương tiện thiết bị hay dịch vụ
cơ bản, điều này giúp cắt giảm chi phí hoặc vốn đầu tư.
+ Third Party Logistics (3PL-Logistics bên thứ ba):
Phương thức này sử dụng công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động
logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý logistics hoặc chỉ một số hoạt
động có chọn lọc. Cách giải thích khác của 3PL là các hoạt động do một công
ty cung cấp dịch vụ logistics thực hiện trên danh nghĩa khách hàng của họ, tối
thiểu bao gồm việc quản lý và thực hiện hoạt động vận tải và kho vận ít nhất
một năm có hoặc không có hợp đồng hợp tác. Đây được coi như một liên
minh chặt chẽ giữa một công ty và nhà cung cấp dịch vụ logistics, nó không

chỉ nhằm thực hiện các hoạt động logistics mà còn chia sẻ thông tin, rủi ro và
các lợi ích theo một hợp đồng dài hạn.
+ Fourth Party Logistics (4PL-Logistics bên thứ tư):
4PL là một khái niệm phát triển trên nền tảng của 3PL nhằm tạo ra sự đáp
ứng dịch vụ, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. 4PL quản lý và thực hiện
các hoạt động logistics phức hợp như quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối
kiểm soát và các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động logistics. 4PL
bao gồm nhiều lĩnh vực rộng như công nghệ thông tin và quản lý các tiến
trình kinh doanh.
- Theo nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ, dịch vụ logistics được
phân thành 3 nhóm:
+ Nhóm các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm:
 Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container
 Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồ cả hoạt động kinh doanh kho bãi
container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
 Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và
lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
 Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý
thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi
logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách trả lại, hàng hóa tồn kho,
hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê
và thuê mua container.
+ Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
 Dịch vụ vận tải hàng hóa
 Dịch vụ vận tải thủy nội địa;
 Dịch vụ vận tải hàng không;
 Dịch vụ vận tải đường sắt;
 Dịch vụ vận tải đường bộ;
 Dịch vụ vận tải đường ống;
+ Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:

 Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
 Dịch vụ bưu chính;
 Dịch vụ thương mại buôn bán;
 Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu
gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
 Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
- Theo phạm vi hoạt động
 Dịch vụ logistics nội địa;
 Dịch vụ logistics quốc tế.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ logistics là tập hợp những
điều kiện, những yếu tố bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến việc cung ứng các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ logistics. Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ logistics chính là các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các
dịch vụ logistics.
Có thể phân các nhân tố ảnh hưởng đến các dịch vụ logistics thành hai nhóm
nhân tố: nhóm các nhân tố bên ngoài và nhóm các nhân tố bên trong như
sau:
1.3.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài
Đây là các nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp cung ứng
dịch vụ logistics, và do đó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các dịch vụ
logistics. Các nhân tố này bao gồm: yếu tố chính trị, pháp luật; yếu tố kinh tế,
khoa học – công nghệ; và các yếu tố khác như cơ sở hạ tầng và điều kiện tự
nhiên; sự cạnh tranh trong ngành kinh doanh dịch vụ logistics; yếu tố khách
hàng (các doanh nghiệp thuê các dịch vụ logistics…)…
1.3.1.1. Yếu tố chính trị, pháp luật.
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước hiện nay là nền
kinh tế phổ biến trên thế giới. Khi tham gia vào kinh doanh, để thành công

trên thương trường thì các doanh nghiệp không những phải nắm vững pháp
luật trong nước mà còn phải hiểu và nắm vững pháp luật quốc tế tại thị
trường mà mình kinh doanh. Bên cạnh đó môi trường chính trị cũng được
doanh nghiệp lưu tâm để chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình.
Các yếu tố cơ bản thuộc môi trường chính trị, pháp luật bao gồm:
- Sự ổn định về chính trị và đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng của các chính sách Nhà nước.
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội.
- Hệ thống pháp luật và mức độ hoàn thiện của hệ thông pháp luật…
Trước năm 2005, luật pháp Việt Nam chưa hề có quy định về việc kinh doanh
dịch vụ logistics cũng như các hình thức dịch vụ logistics. Đến tận khi luật
Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và nghị đinh
140/2007/NĐ-CP của Chính phủ mới có quy định chi tiết về các dịch vụ
logistics và điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics.
Trước đây các dịch vụ logistics mà chủ yếu là dịch vụ vận tải, giao nhận thì
Nhà nước nắm quyền chi phối còn ngày nay việc kinh doanh dịch vụ logistics
được Nhà nước cho phép mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia kinh
doanh. Điều này tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong ngành cung ứng dịch vụ
logistics đồng thời cũng tạo nên sự đa dạng, phong phú và nâng cao chất
lượng dịch vụ.
1.3.1.2. Yếu tố kinh tế.
Có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nói riêng.
Các yếu tố kinh tế bao gồm một phạm vi rất rộng từ các yếu tố tác động đến
nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics và các yếu tố liên quan đến việc huy động và
sử dụng các nguồn lực. Trong đó các yếu tố cơ bản nhất là: Tốc độ tăng
trưởng của GDP; lãi suất tiền vay, tiền gửi ngân hàng; tỷ lệ lạm phát; tỷ giá
hối đoái; cán cân thanh toán; mức độ thất nghiệp; chính sách tài chính, tín
dụng; tiềm năng phát triển và gia tăng đầu tư,…Các yếu tố này ảnh hưởng
đến phương thức và cách thức kinh doanh của doanh nghiệp. Trong những

năm qua, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn tuy nhiên tốc độ tăng trưởng hằng
năm của nước ta đều đạt trung bình trên 5%. Chính vì thế việc kích thích đầu
tư và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp khiến cho nhu cầu sử dụng các
dịch vụ logistics không ngừng tăng, đây là cơ hội cho phép các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics mở rộng quy mô, sản phẩm dịch vụ logistics cũng
như thị trường của mình, cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp mới có thể gia
nhập thị trường.
1.3.1.3 Yếu tố khoa học công nghệ
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển, việc áp dụng các tiến bộ này
vào sản xuất kinh doanh làm cho hiểu quả ngày càng cao hơn. Các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ logistics nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ khoa học
công nghệ không những cho chính doanh nghiệp mình mà còn nhằm thực
hiện dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Sự phát triển
của thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp logistics hoạt động có hiệu
quả hơn, nâng cao chất lượng dịch vụ và sức cạnh tranh trên thị trường.
1.3.1.4 Các yếu tố khác
- Cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống giao thông vận tải (đường, phương tiện,
bến bãi…), hệ thống thông tin, hệ thống bến cảng nhà kho, điện nước…hệ
thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics
đặc biệt là dịch vụ vận tải.
- Sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ logistics: sự cạnh tranh gay gắt thì loại
hình dịch vụ ngày càng phong phú, chất lượng dịch vụ logistics càng được
nâng cao. Khi đề cập vấn đề cạnh tranh, các doanh nghiệp cần xem xét đối
thủ, số lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh như thế nào. Cạnh tranh là yếu tố
tất yếu trong quá trình phát triển, do đó các doanh nghiệp cần chủ động hơn
nữa trong việc kinh doanh của mình đặc biệt là ngày càng có nhiều doanh
nghiệp logistics nước ngoài tham gia vào sân chơi trong nhà.
1.3.2. Nhóm các nhân tố bên trong
Đây là những yếu tố chủ quan mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được, bao
gồm các nhân tố: tiềm lực doanh nghiệp, hệ thống thông tin, nghiên cứu và

phát triển…
1.3.2.1. Tiềm lực doanh nghiệp.
Được thể hiện qua nhiều mặt: qui mô của doanh nghiệp; cơ sở vật chất kĩ
thuật; cơ cấu tổ chức bộ máy lãnh đạo; tài năng, trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo; trình đô tay nghề, sự thành thạo kỹ
thuật, nghiệp vụ của lao động; tiềm lực tài chính, khả năng huy động vốn…
Doanh nghiệp có tiềm năng tài chính thì có khả năng mở rộng qui mô, cung
ứng các dịch vụ logistics với nhiều loại hình dịch vụ, đảm bảo chất lượng của
dịch vụ, có hoạt động trên phạm vi thị trường lớn, cung ứng dịch vụ cho nhiều
khách hàng khác nhau cùng lúc.
Cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp có đầy đủ, đảm bảo thì mới có thể
cung cấp cho khách hàng. Với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics
thì các cơ sở vật chất kĩ thuật phải kể đến là: phương tiện vận tải, kho bãi,
máy móc thiết bị phục vụ đóng gói, bảo quản hàng hóa…
Với đội ngũ lãnh đạo tài năng, nhân viên chuyên nghiệp thì sẽ quyết định rất
lớn đối với hoạt động của tất cả các doanh nghiệp và doanh nghiệp cung ứng
dịch vụ logistics không phải là ngoại lệ.
1.3.2.2. Hệ thống thông tin
Doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống thu thập thông tin về các yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, nguồn hàng…Đối với
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics thì yếu tố thông tin là quan trọng.
Thu thập thông tin thiết thực và xử lý kịp thời giúp doanh nghiệp nắm bắt
được nhiều cơ hội tốt trong kinh doanh. Cũng từ đó có các quyết định, các
chính sách và chiến lược kinh doanh thích hợp.
1.3.2.3. Nghiên cứu và phát triển.
Việc đầu từ vào nghiên cứu và phát triển tuy chi phí tốn kém song hoạt động
này đem lại kết quả bất ngờ. Nó giúp doanh nghiệp đổi mới, đa dạng hóa và
phát triển các loại hình dịch vụ logistitcs; hiện đại hóa dây chuyền công nghệ
và phương thức cung ứng dịch vụ cho khách hàng; nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho lao động…Các doanh nghiệp cần nắm vững được tầm

quan trọng của yếu tố này để đầu tư thích đáng và thu được thành công
trong hoạt động kinh doanh của mình.
Như vậy, qua nghiên cứu tổng thể các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển
của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics, chúng ta cũng thấy được
ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự phát triển của các dịch vụ logistics.
Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics càng phát triển thì các dịch vụ
logistics cũng ngày càng phát triển.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISITSC Ở
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỊCH
VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM
2.1.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành dịch vụ logistics
- Dịch vụ logistics là một hệ thống các hoạt động nhằm tối ưu hóa mọi
công việc, mọi thao tác từ khâu cung ứng, sản xuất, phân phối và tiên dùng
sản phẩm chứ không chỉ là “kho” và “vận”, “giao” và “nhận” như một số còn
lầm tưởng. Đây là một chuỗi các dịch vụ chứ không phải là một giao dịch đơn
thuần.
- Dịch vụ logistics hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp: dịch vụ
logistics hỗ trợ toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp từ cung ứng
các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất cho tới phân phối các sản phẩm
đầu ra, ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh
nghiệp và đến tay người tiêu dùng. Doanh nghiệp cung ứng có thể kết hợp
bất cứ yếu tố nào của các dịch vụ logistics với nhau hay tất cả các yếu tố
logistics tùy theo yêu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải
giao nhận, vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong logistics.
Cùng với quá trình phát triển của mình, các dịch vụ logistics đã làm đa
dạng hóa khái niệm vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt
khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như nhận hàng, bao gói, bảo quản,

làm thủ tục thông quan, vận chuyển hàng hóa…cho đến cung cấp dịch vụ trọn
gói. Từ chỗ đóng vai trò đại lý, người ủy thác trở thành một chủ thể chính
trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm
trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, người giao nhận vận tải trở thành
người cung ứng dịch vụ logistics thực hiện một loạt các nghiệp vụ, quản lý
một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu
phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hóa trong kho, phân phối hàng
hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi kiểm tra…
- Các dịch vụ trong chuỗi dịch vụ logistics là một chuỗi công việc có tính
chất liên hoàn, số lượng công việc nhiều, tính chất công việc phức tạp, thời
gian thực hiện kéo dài.
2.1.2. Quá trình phát triển ngành dịch vụ logistics ở Việt Nam
Kiến thức về logistics và các hoạt động logistics mới thâm nhập vào Việt
Nam trong những năm gần đây, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt động
của các công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào tạo
tai nước ngoài. Quá trình phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam được chia
làm hai giai đoạn như sau:
Giai đoạn trước năm 2007:
Hoạt động giao nhận kho vận, đặc biệt là giao nhận vận tải quốc tế đã có
những bước chuyển biến đáng kể, gần như các công ty Nhà nước chiếm ưu
thế và làm đại lý cho các công ty giao nhận vận tải có quy mô toàn cầu nước
ngoài. Tuy vậy, khối lượng thuê ngoài dịch vụ giao nhận kho vận chỉ ở mức
khoảng 25%, phần còn lại các doanh nghiệp chủ hàng tự tổ chức đầu tư
phương tiện hoặc tự làm.
Là một ngành kinh doanh còn mới mẻ, khó cạnh tranh bình đẳng với các công
ty nước ngoài nên ngành giao nhận kho vận là một trong những ngành kinh
doanh được Nhà nước bảo hộ và khuyến khích phát triển.
Cơ cấu hàng chỉ định (nominated) và không chỉ định trong vận tải ngoại
thương mất cân đối trầm trọng bắt nguồn từ tập quán mua CIF bán FOB,
điều này dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khai thác vận tải và bảo

hiểm được từ 10 đến 18% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu.
Giai đọan sau 2007:
Thị trường dịch vụ logistics phát triển và chuyển biến mạnh mẽ hơn với
khoảng 1.200 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ logistics, số vốn và tay nghề
hạn chế. Đến nay, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics của Việt Nam
đã và đang cung ứng các dịch vụ logistics cho khách hàng nhưng chưa hình
thành một chuỗi các dịch vụ logistics, cung ứng nhỏ lẻ, gián đoạn. Thực tế,
ngành dịch vụ này tại Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện và vẫn đang trong giai
đoạn phôi thai, chưa thực sự có được dịch vụ logistics của riêng mình. Bên
cạnh đó, đối trọng là các công ty đa quốc gia có bề dày kinh nghiệm, kỹ thuật,
công nghệ và uy tín cả trăm năm. Rõ ràng, “miếng bánh” ngành dịch vụ
logistics tại Việt Nam đang thuộc về các công ty nước ngoài với phần lớn
nhất: 70%.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Phân tích SWOT thực trạng phát triển dịch vụ logistics ở
Việt Nam
2.2.1.1. Điểm mạnh
Theo báo cáo ngân hàng thế giới năm 2009, Việt Nam có chỉ số LPI là
trung bình – khá, đứng đầu các nước có thu nhập thấp, mặc dù xếp hang
53/155 nền kinh tế, nhưng được đánh giá có biểu hiện đặc biệt về hoạt động
logistics.
Số doanh nghiệp thành lập và hoạt động trong ngành khá lớn gồm nhiều
thành phần, cả nước có khoảng 1.200 (vượt qua Thái lan, Singapore) trong
đó các công ty logistics đa quốc gia hàng đầu trên thế giới (thuộc top 25 hoặc
30) đã có mặt tại Việt Nam. Tuy lộ trình cam kết WTO của Việt Nam về dịch
vụ logistics đến năm 2014, nhưng dưới nhiều hình thức, các công ty nước
ngoài đã hoạt động đa dạng, đặc biệt trong việc cung ứng dịch vụ 3PL với
trình độ công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp như các nước phát triển.
2.2.1.2. Điểm yếu
Tuy số lượng đông nhưng hoạt động dịch vụ logistics của các doanh

nghiệp Việt Nam còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp, chỉ
cung cấp dịch vụ cơ bản, cạnh tranh về giá là chủ yếu, đóng góp ít vào chuỗi
giá trị gia tăng nên chỉ gia công lại cho các công ty 3PL, 4PL nước ngoài.
Do cơ sở hạ tầng giao thông vận tải yếu kém, công nghệ thông tin chưa
hỗ trợ hiệu quả nên chi phí logistics tại Việt Nam khá cao, chiếm 25% GDP (so
với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó chi phí vận tải chiếm 30
đến 40% giá thành sản phẩm (tỉ lệ này là 15% ở các quốc gia khác), điều này
làm giảm đi khả năng cạnh tranh của dịch vụ, hàng hóa của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam yếu về tài chính (80% doanh nghiệp
thành lập có vốn điều lệ dưới 1,5 tỉ đồng), nhân sự, tổ chức mạng lưới toàn
cầu, hệ thống thông tin, tính liên kết…
2.2.1.3 Cơ hội
Quy mô thị trường dịch vụ logistics nhỏ (khoảng 2-4% GDP) nhưng tốc
độ tăng trưởng cao (20-25% năm). Kim ngạch xuất nhập khẩu và ngành bán
lẻ (đây cũng là ngành tiềm năng) có mức tăng trưởng khá cao. Khối lượng
hàng hóa qua cảng biển dự kiến tăng như sau: năm 2010 là 280 triệu tấn,
năm 2015 dự kiến 500 - 600 triệu tấn, năm 2020 dự kiến 900 – 1.100 triệu
tấn, năm 2030 dự kiến 1.600 – 2.100 triệu tấn)
Nhà nước đã có quy hoạch và trên thực tế bằng nhiều nguồn vốn đang
và sẽ đầu tư phát triển khu cảng nước sâu Cái Mép, cảng trung chuyển quốc
tế Vân Phong, Sân bay quốc tế Long Thành, hành lang đường bộ Đông Tây
(EWEC), hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Hà Khẩu - Côn Minh, hệ thống đường
bộ cao tốc, đường sắt xuyên Á… Các thể chế tiếp tục củng cố, tạo thuận lợi
như thủ tục hải quan, cải cách hành chính, đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu
khu vực và thế giới.
2.2.1.4. Thách thức
Trước mắt, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải yếu kém, không đồng bộ đặc
biệt chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung
chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng

lớn. Hệ thống thông tin thiếu và chưa hiệu quả. Nguồn nhân lực làm dịch vụ
logistics chưa qua đào tạo bài bản và còn thiếu, yếu, chưa đáp ứng, đặc biệt
thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các
doanh nghiệp.
Thể chế, chính sách Nhà nước với ngành logistics chưa rõ ràng, không
đồng bộ, bất cập còn khá nhiều, chưa tạo điều kiện hỗ trợ ngành logistics non
trẻ phát triển.
2.2.2. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics của các doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay.
2.2.2.1. Thực trạng phát triển chung
Quy mô doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nhỏ, kinh doanh manh
mún. Nguồn lợi hàng tỷ đô từ nguồn lợi kinh doanh ngày lại đang chảy vào
túi các nhà đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ có một
phần rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị
trường dịch vụ logistics. Quy mô doanh nghiệp còn thể hiện ở số nhân viên
của công ty, nhiều doanh nghiệp chỉ có từ 3-5 nhân viên, kể cả người phụ
trách. Doanh nghiệp chỉ đáp ứng được một công việc đơn giản của một khách
hàng. Cũng vì vốn và nhân lực hạn chế nên việc tổ chức bộ máy của các doanh
nghiệp rất đơn giản, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp trong logistics
không có. Đặc biệt hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có văn phòng đại
diện tại nước ngoài trong khi cu thế hiện nay là logistics toàn cầu. Hơn thế
nữa, tính nghiệp đoàn của các doanh nghiệp logistics còn rất rời rạc, thiếu hỗ
trợ lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh.
Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm khoảng 80% tổng số doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp này có số vốn rất nhỏ,
có doanh nghiệp chỉ đăng ký vốn kinh doanh từ 300-500 triệu đồng (tương
đương 17,750-31,250 USD). Trên thực tế, nếu muốn ký vận đơn vào Hoa Kỳ
thì phải ký quỹ tới 15,0000USD. Nhiều doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ
phần hóa từng bộ phận đã hình thành các công ty cổ phần với cỡ vốn 5 tỷ
đồng (khoảng 312,500 USD). Với quy mô như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam

không thể đáp ứng được yêu cầu khi gia nhập vào logistics toàn cầu. Bên
cạnh đó, có rất nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và mang tên dịch vụ
logistics nhưng doanh nghiệp dịch vụ logistics thực sự thì không nhiều. Nói
một cách giản đơn theo nghĩa đen thì những nhà cung cấp dịch vụ logistics
trọn gói Door to Door cho hàng hóa xuất nhập khẩu là những người tích hợp
hàng loạt các dịch vụ vận tải giao nhận thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu
thành một chuỗi liên tục để đảm bảo hàng hóa được vận chuyển Door to
Door.
Hiện nay hạ tầng cơ sở của logistics tại Việt Nam nói chung còn nghèo
nàn, quy mô nhỏ, bố trí bất hợp lý. Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông của Việt
Nam bao gồm trên 17000 km đường nhựa, hơn 1200 km đường sắt, 42000
km đường thủy, 206 cảng biển và 20 sân bay. Tuy chất lượng của hệ thống
này là không đồng đều, có những chỗ chưa đảm bảo về mặt kỹ thuật. Hiện tại,
chỉ có khoảng 20 cảng biển có thể tham gia việc vận tải hàng hóa quốc tế, các
cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các đội
tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn
thiếu kinh nghiệm trong điều hành xếp dỡ container.
Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng của
việc vận chuyển vào mùa cao điểm. Chỉ có sân bay Tân Sơn Nhất là đón được
các máy bay chở hàng quốc tế. Các sân bay quốc tế như Nội Bài, Đà Nẵng vẫn
chưa có nhà ga hàng hóa, khu vực hoạt động cho đại lý logistics thực hiện
gom hàng và khai quan như các nước trọng khu vực đang làm. Khả năng bài
trí và phát triển đường bộ còn thấp, đường không được thiết kế để vận
chuyển container, các đội lái chuyên dụng hiện đang cũ kỹ, năng lực vân tải
đường sắt không được vận dụng hiểu quả do chưa được hiện đại hóa.
2.2.2.2. Thực trạng phát triển của Tổng công ty hàng hải Việt Nam
(Vinalines)
Tổng công ty hàng hải Việt Nam được xếp vào vị trí số một trong nước về
khả năng thực hiện dịch vụ logistics. Được thành lập và hoạt động từ ngày
1/1/1996 theo Quyết định 250/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày

29/4/1995.Các dịch vụ cung cấp chính của công ty là:
- Vận tải container nội địa tuyến Bắc-Nam và ngược lại
- Vận tải container tuyến nước ngoài
- Vận tải container bằng đường bộ
- Vận tải hàng khô bằng đường biển
- Vận tải dầu sản phẩm bằng đường biển
- Vận tải đa phương thức
- Cho thuê tàu định hạn
- Dịch vụ kho bãi
- Bốc xếp hàng hóa
- Dịch vụ đại lý tàu biển, vận tải đường biển, môi giới hàng hải
- Dịch vụ kiểm đếm hàng hóa
- Dịch vụ vận tải đa phương thức
- Dịch vụ tư vấn cho khách hàng về việc vận chuyển giao nhận, lưu kho và các
dịch vụ liên quan đến hàng hóa.
Loại vận tải Sản lượng
vận tải biển
Sản lượng
vận tải nước
ngoài
Sản lượng
vận tải nội
địa
Sản lượng
vận chuyển
container
Năm Tr.tấ
n
Tỉ
Tkm

Tr.tấ
n
Tỉ
Tkm
Tr.tấ
n
Tỉ
Tkm
TEU
2004 20,3 51,9
2005 21,4 54,9
2006 23 59,8 17,9 55 3,4 4,7 578.743
2007 24,9 75,1 21 69,7 3,9 5,5 488.387

×