Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

luận văn thạc sĩ tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn – hà nội chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.71 KB, 96 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
HỌC VIÊN CAO HỌC
PHẠM THÙY DƯƠNG
2
LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn gửi tới toàn thể cán bộ, giảng viên trong Khoa Tài chính Ngân
hàng, Viện sau đại học trường Đại học kinh tế Quốc Dân, trong thời gian qua đã
hướng dẫn bổ sung cho tôi những kỹ năng và kiến thức cần có của một Thạc sĩ kinh
tế; từ nền tảng này, tôi có thể hoàn thiện các kỹ năng sống và làm việc để phục vụ
tốt hơn cho công việc cũng như cho cuộc sống, tạo tiền đề cho tôi có thể phát triển
kiến thức hơn nữa trong tương lai!
Lời cảm ơn gửi tới toàn bộ ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội, trong thời gian qua đã tạo
điều kiện cho tôi có thời gian học tập nghiên cứu hoàn thành kiến thức và hỗ trợ tôi
trong việc làm luận văn tốt nghiệp. Tôi tin rằng những nghiên cứu trong bài luận
văn của mình sẽ phần nào giúp chi nhánh có cái nhìn tổng quan và hệ thống hơn về
hoạt động huy động tiền gửi của chi nhánh, từ đó góp phần vào sự phát triển chi
nhánh và SHB!
Lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ: Lê Thanh Tâm - Giảng viên trong khoa Tài
chính Ngân hàng trường đại học kinh tế Quốc Dân – người hướng dẫn trực tiếp để
tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sĩ!
Lời cảm ơn tới hội đồng giám khảo bảo về luận văn đã lắng nghe và hướng
dẫn tôi hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình!
Trân trọng!
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
NHTW NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG


NHNN NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
PGD PHÒNG GIAO DỊCH
SHB
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI GÒN –
HÀ NỘI
TCTD TỔ CHỨC TÍN DỤNG
TCKT TỔ CHỨC KINH TẾ
TMCP THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Bảng 2.2 Tình hình dư Nợ cho vay của SHB chi nhánh Hà Nội 52
Ðơn vị: tỷ đồng 52
TÓM TẮT
Ngân hàng là một loại hình tổ chức vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế.
Hệ thống ngân hàng với hàng nghìn chi nhánh hoạt động trên toàn thế giới có thể
tác động đến sự phát triển của mọi lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế. Trong
những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn người ta
càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động ngành ngân hàng với vai trò
trung gian thúc đẩy sự hoạt động của nền kinh tế. Với các nghiệp vụ chính là huy
động vốn và tái cấp vốn của mình, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam
đang phát triển không ngừng và đóng góp vào quá trình phát triển đất nước, khôi
phục nền kinh tế Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội ra đời
và phát triển trong giai đoạn khó khăn chung của hệ thống ngân hàng, hoạt động
huy động vốn của chi nhánh cũng gặp phải sự cạnh tranh lớn của các ngân hàng
khác. Là một nhân viên SHB Hà Nội làm việc trong mảng huy động tiền gửi đảm
bảo nguồn vốn cho Ngân hàng, tôi đã lựa chọn đề tài “Tăng cường huy động vốn
tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội”, với

mục đích nghiên cứu hoạt động huy động tiền gửi của SHB Hà Nội từ năm 2008
đến năm 2010, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát triển hoạt động huy
động tiền gửi của chi nhánh nhằm phục vụ công việc tốt hơn.
7
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết thúc gồm có 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
TIỀN GỬI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Theo pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Trong hoạt động của
ngân hàng, Vốn và nguồn vốn là những khoản mục vô cùng quan trọng trong quá
trình hoạt động cũng như trong bảng cân đối kế toán. Vốn vừa mang tính chất tiền
đề vừa là vấn đề cốt lõi cho quá tình hình thành và phát triển của NHTM. Tuỳ thuộc
vào nguồn hình thành và yêu cầu quản lý, người ta chia nguồn vốn của ngân hàng
thành các loại vốn khác nhau, để phục vụ cho việc nghiên cứu, tôi chia Vốn của
ngân hàng thành: Vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, và các nguồn vốn khác;
trong đó vốn huy động từ tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng.
Ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền gửi” trong một bản luật, luật pháp
Anh định nghĩa: “Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng nhận được của khách
hàng bất luận dưới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không trả lãi, với quyền sử dụng
tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và với bổn phận làm nghiệp vụ ngân
quỹ cho người ký gửi, nhất là phải trả trong giới hạn số tiền nhận được, tất cả những
lệnh phải trả tiền của ngườitiền gửi bằng séc, lệnh chuyển khoản, thư tín dụng…
hay bất cứ bằng cách nào khác; cũng thâu nhập vào khoản tiền tiền gửi mọi số tiền
mà ngân hàng thu hộ cho người gửi”. Hay tại Pháp: “Tiền gửi là số tiền của khách
hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không
hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”. Tiền gửi của khách hàng là

nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng… Các khái niệm về tiền gửi theo quy định pháp lý nêu trên có
mối liên quan mật thiết với tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Người gửi tiền
có thể lựa chọn các loại hình tiền gửi theo mục đích của họ và được hưởng các dịch
vụ do ngân hàng cung cấp, được hưởng lãi suất. Đồng thời có nghĩa vụ để ngân
8
hàng sử dụng các số tiền gửi đó cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với cam
kết thực hiện việc hoàn trả vào ngày đáo hạn (đối với tài khoản có kì hạn) hoặc theo
yêu cầu của khách hàng (đối với tài khoản không kì hạn). Nguồn tiền gửi của ngân
hàng bao gồm: Tiền gửi giao dịch; tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế, cá nhân;
tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của tổ chức tín dụng khác.
Nguồn tiền gửi của ngân hàng có một vai trò quan trọng đối với hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, do đó các ngân hàng thương mại không ngừng tăng
cường huy động nguồn tiền này để đáp ứng nhu cầu kinh doanh.
Tăng cường huy động tiền gửi là việc tăng quy mô nguồn tiền gửi huy động một
cách ổn định và bền vững với cơ cấu huy động và chi phí huy động hợp lý từ việc
khai thác lượng tiền tạm thời nhàn rỗi trong công chúng, hộ gia đình, của các tổ
chức kinh tế để thực hiện bốn hoạt động cơ bản của NHTM, đó là: huy động để đáp
ứng dự trữ bắt buộc, huy động để cho vay, huy động để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản, huy động để điều chỉnh kết quả hoạt động kinh doanh. Có nhiều chỉ tiêu để
đo lường hiệu quả của việc huy động tiền gửi: Quy mô nguồn tiền gửi, cơ cấu
nguồn tiền gửi, chi phí nguồn tiền gửi huy động, mối quan hệ giữa huy động tiền
gửi và sử dụng nguồn… mỗi chỉ tiêu có tác dụng đánh giá hiệu quả trên từng
phương diện khác nhau; nếu như phân tích quy mô nguồn tiền gửi huy động cho
chúng ta cái nhìn về tốc độ tăng trưởng của nguồn huy động, thì cơ cấu nguồn tiền
và chi phí huy động cho chúng ta những đánh giá về chất lượng nguồn.
Hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau, có nhân tố khách quan và cả những nhân tố chủ quan, những nhân tố này
tác động qua lại và có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng ảnh hưởng đến chất
lượng và quy mô nguồn tiền gửi huy động của các ngân hàng thương mại.

9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – HÀ NỘI CHI NHÁNH HÀ NỘI
Hoạt động huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn –
Hà Nội chi nhánh Hà Nội từ năm 2008 đến năm 2010 đã đạt được những kết quả
nhất định tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục và phát triển.
Cũng như các NHTM khác, SHB chi nhánh Hà Nội luôn coi công tác huy
động tiền gửi là yếu tố vừa mang tính chất tiền đề, vừa có tính chất quyết định cho
sự tăng trưởng và phát triển của toàn hệ thống. Do đó công tác huy động tiền gửi
của chi nhánh trong thời gian qua đã đạt được kết quả rất khả quan:
SHB chi nhánh Hà Nội đạt được tốc độ tăng trưởng tiền gửi huy động từ khi
thành lập rất ấn tượng. Quy mô nguồn tiền gửi tăng trưởng mạnh qua các năm 2008
tăng trưởng 405% năm 2009: 522% và đến năm 2010 là 132%. Cơ cấu nguồn tiền
gửi huy động chuyển dịch theo hướng giảm lãi suất chi phí đầu vào, từ đó giảm lãi
suất đầu ra, tạo lợi thế trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thể hiện việc điều
hành và sử dụng linh hoạt công cụ lãi suất của ngân hàng: Trong cơ cấu nguồn,
nguồn tiền gửi thanh toán có cơ cấu khá ổn định và tốc độ tăng trưởng nhanh, đây là
nguồn tiền gửi có chi phí huy động thấp nhất. Tuy chiếm tỷ trọng không cao trong
tổng nguồn tiền gửi huy động nhưng số tăng tuyệt đối khá ấn tượng trong các năm
vừa qua; Nguồn tiền gửi tiết kiệm chuyển dịch mạnh cơ cấu từ ngắn hạn sang dài
hạn. Đây cũng chính là chủ trương huy động tiền gửi của chi nhánh, bởi các khoản
huy động dài hạn giúp ngân hàng ổn định được chi phí đầu vào, giảm chi phí bảo
hiểm tiền gửi và dự trữ bắt buộc. Cơ cấu huy động và cho vay từng bước được điều
chỉnh hợp lý về kỳ hạn và loại tiền. Trong những năm gần đây, chi nhánh đã tập
trung hơn đến công tác xây dựng kế hoạch, chiến lược hoạt động phát triển, trong
đó chú trọng đến việc tăng trưởng về quy mô hoạt động phải gắn với hiệu quả huy
động tiền gửi. Các hình thức huy động ngày một đa dạng hơn, các sản phẩm huy
động đã thu hút, hấp dẫn đối với khách hàng hơn về loại tiền, loại kỳ hạn, lãi suất và
phương thức trả lãi. Sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn thực sự đem lại cho khách hàng
những tiện ích về lãi suất, kỳ hạn rút, các điều khoản thanh toán phụ đã thu hút các

khách hàng doanh nghiệp, cá nhân tham gia gửi sản phẩm này làm cho số dư tiền
gửi huy động có kỳ hạn tăng mạnh và ổn định qua các năm. Lãi suất luôn phù hợp
với thị trường và đảm bảo quyền lợi đối với khách hàng.
10
Hoạt động huy động tiền gửi của SHB Hà Nội đạt được những kết quả trên
do một số nguyên nhân cơ bản: SHB Hà Nội đã không ngừng phát triển mạng lưới
rộng khắp trên cả nước, đặc biệt ở những địa bàn có thế mạnh trong công tác Huy
động tiền gửi, gần khu dân cư, khu đô thị lớn Trong công tác quản trị điều hành,
chi nhánh đã sớm đưa ra những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp huy động tiền gửi
hợp lý, luôn bổ sung và hoàn thiện cơ chế theo hướng phát huy quyền chủ động cho
các phòng ban và phòng giao dịch trực thuộc có điều kiện phát triển. Chi nhánh
cũng có cơ chế điều hành lãi suất hợp lý, linh hoạt mềm dẻo, phù hợp với tín hiệu
thị trường, thu hút được khách hàng gửi tiền với các sản phẩm huy động vốn đa
dạng có tính tiện ích cao, có kỳ hạn, lãi suất và phương thức trả lãi hấp dẫn, đặc biệt
với những linh hoạt và ưu đãi của chi nhánh dành cho những khách hàng gửi tiền
gửi có kỳ hạn nên nguồn huy động tiền gửi có kỳ hạn của chi nhánh qua các năm
tăng mạnh về quy mô và cơ cấu. Ngoài ra các quy trình giao dịch, đặc biệt là quy
trình huy động tiền gửi được điều chỉnh, bổ sung, tiết kiệm thời gian giao dịch sửa
đổi thường xuyên nhằm đáp ứng thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Thực
hiện tốt chính sách khách hàng và chính sách Marketing hợp lý. Đội ngũ cán bộ
nhân viên gắn bó với nghề không ngừng được đào tạo nâng cao về mặt chuyên môn
và kỹ năng để trở thành những nhân viên chuyên nghiệp, đáp ứng ngày càng cao
nhu cầu giao dịch của khách hàng.
Tuy hoạt động huy động tiền gửi của SHB Hà Nội trong những năm qua đã
đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thể hiện:
Cơ cấu tiền gửi huy động: Cơ cấu tiền gửi huy động của SHB Hà Nội còn
tồn tại nhiều hạn chế, bộc lộ những khó khăn của chi nhánh trong việc huy động
tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán của SHB Hà Nội chiếm tỷ
trọng thấp trong tổng số dư nguồn tiền gửi. Qua các năm tỷ trọng nguồn tiền này
không tăng trong tổng quy mô. Thông thường Tiền gửi tiết kiệm của dân cư chiếm

tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tiền gửi huy động của các NHTM, nhưng trong
những năm gần đây, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh lại giảm mạnh. Nguồn
tiền tiết kiệm của dân cư tuy lãi suất huy động cao nhưng độ ổn định của nguồn là
rất lớn. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn tăng đột biến chủ yếu tiền của các tổ chức kinh tế
hoặc của cá nhân có nhu cầu vốn ngắn hạn gửi với mục đích “tranh thủ” kiếm thêm
11
lợi nhuận, do vậy tính ổn định không cao và ngân hàng phải thường xuyên cập nhật
lãi suất để “giữ chân” khách hàng.
Nếu xét cơ cấu theo kỳ hạn: có sự chuyển dịch rất hợp lý của cơ cấu theo kỳ
hạn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn huy động tiền gửi trung và dài hạn, làm tăng
tính ổn định của nguồn và sự chủ động của Ngân hàng trong việc sử dụng vốn. Tuy
nhiên, đó chỉ là kỳ hạn danh nghĩa chi nhánh đưa ra để tiết kiệm chi phí dự trữ bắt
buộc và đảm bảo tỷ lệ an toàn giữa huy động và cho vay, còn kỳ hạn thực tế ngắn
hơn rất nhiều. Phần lớn các khoản tiền gửi có kỳ hạn có thời hạn thực gửi dưới 03
tháng, tức nguồn tiền gửi ngắn hạn.
Cơ cấu theo loại tiền tệ có sự mất cân đối lớn trong các loại tiền huy động.
Tiền gửi huy động chủ yếu là tiền Việt nam đồng, tiền ngoại tệ (USD và EUR)
chiếm tỷ trọng rất ít. Điều này thể hiện hoạt động của SHB Hà Nội chưa thực sự là
một ngân hàng đa năng với sự đa dạng về các sản phầm dịch vụ và phạm vi hoạt
động.
Chi phí huy động: Chi phí trả lãi của chi nhánh nhìn chung chưa phản ánh hết
chi phí huy động thực, những khoản chi ngoài: chi chênh lệch lãi suất danh nghĩa và
lãi suất thực gửi còn hạch toán vào các tài khoản với tính chất khác nhau, do vậy
gây khó khăn cho công tác quản lý vốn huy động tiền gửi cũng như việc cân đối
nguồn sử dụng. Điều này nguyên nhân chủ yếu do những quy định của Ngân hàng
Nhà Nước về lãi suất trần huy động khiến không chỉ SHB Hà Nội mà các NHTM
khác cũng rất khó khăn trong việc hạch toán và theo dõi các khoản chi lãi suất và
các chương trình khuyến mại vượt khung lãi suất cho phép.
Mối quan hệ với sử dụng nguồn: Việc sử dụng nguồn chưa thật sự hiệu quả,
chi nhánh còn để “lãng phí” nguồn khi sử dụng nguồn còn thấp. Mặc dù với nguồn

tiền gửi huy động chưa sử dụng, chi nhánh có thể gửi nguồn lên Hội sở và nhận lãi
suất điều chuyển vốn, nhưng lãi suất điều chuyển vốn chênh với lãi suất huy động
chưa cao (thường chênh từ 1% đến 1.5%), trong khi nếu cho vay, lãi suất chênh
giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn thường trên 5% (sau khi đã trừ đi các khoản
trích lập dự phòng…), và nếu xét trên góc độ toàn ngân hàng thì hoạt động sử dụng
nguồn chưa hiệu quả còn khiến ngân hàng đứng trước nguy cơ thu không đủ bù chi
lãi.
12
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nói trên trong hoạt động huy
động tiền gửi của SHB Hà Nội, có thể đưa ra một số những nguyên nhân chủ yếu
sau.
Nguyên nhân chủ quan: chiến lược huy động vẫn chưa được hoàn chỉnh, chưa
đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng và thị trường huy động; các sản phẩm
huy động vẫn chưa thực sự đa dạng và phong phú. Các kênh phân phối của chi
nhánh cũng chưa phát huy hết hiệu quả của mình, các PGD được thành lập chủ yếu
tập trung ở một số trung tâm thương mại, kinh tế sầm uất, chưa đi sâu vào các ngõ
ngách của đời sống người dân lao động – những nơi có tiềm năng lớn về huy động
tiết kiệm của người dân như: các khu chung cư, khu văn phòng Thời gian giao
dịch của các PGD có nhiều hạn chế. Khung giờ giao dịch của SHB là từ sáng từ
8h00 đến 12h00, chiều từ 13h đến 16h30; thời gian giao dịch danh nghĩa này không
đáp ứng được nhu cầu của một thị phần lớn khách hàng là những cán bộ công nhân
viên, giới nhân viên văn phòng – những khách hàng không thể giao dịch trong giờ
hành chính. Các dịch vụ hỗ trợ công tác Huy động tiền gửi chưa thật sự phát triển
xứng đáng với tiềm năng của một chi nhánh ngân hàng thương mại lớn, công nghệ
hiện đại. Chưa có sự liên kết chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài ngành Tài chính
trong việc bán chéo sản phẩm, dịch vụ. Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chưa
thực sự hoà nhập, bắt kịp với sự thay đổi của thị trường khu vực và thế giới. Trình
độ cán bộ nhân viên chưa đồng đều, nhất là cán bộ nhân viên mảng huy động:
phòng Dịch vụ khách hàng, bộ phận huy động vốn.
Nguyên nhân khách quan: Tình hình kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề, từ cuộc

khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ trên toàn thế giới từ đầu năm 2008 và Việt Nam
cũng không tránh khỏi cuộc khủng hoảng đó. Cơ chế, văn bản hướng dẫn của Ngân
hàng nhà nước có nhiều thay đổi chưa sát với tình hình thực tế nên việc tổ chức và
thực hiện còn nhiều vướng mắc. Mặt khác, môi trường cạnh tranh ngày một quyết
liệt và chưa được lành mạnh hoá. Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực
kinh doanh ngân hàng. Chi phí huy động tiền gửi chưa phản ánh trung thực và chính
xác chi phí chi nhánh phải trả. Đây chủ yếu mới chỉ là phần chi phí cho lãi suất
niêm yết và chi khuyến mại, chi thưởng cho khách hàng theo khung lãi suất được
phép của NHNN.
13
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – HÀ NỘI, CHI NHÁNH HÀ NỘI
Từ những phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động huy động tiền gửi của
SHB chi nhánh Hà Nội, và nghiên cứu những định hưởng của chi nhánh trong
tương lai, tôi đưa ra những giải pháp để chi nhánh phát triển hơn nữa hoạt động huy
động tiền gửi của mình, những kiến nghị tới SHB Hội sở để hội sở tạo điều kiện cho
các chi nhánh, phòng giao dịch SHB có thể chủ động huy động trong điều kiện thị
trường huy động ngày càng cạnh tranh:
Giải pháp
Hoàn thiện chiến lược huy động tiền gửi của chi nhánh: Trong định hướng
huy động cần chú trọng tới việc làm thế nào để phát triển được hệ thống khách hàng
rộng khắp? Đây là một vấn đề lớn mà để giải quyết nó chi nhánh cần phải xây dựng
được một chính sách khách hàng hoàn chỉnh.
Phát triển các kênh phân phối: SHB Hà Nội cần không ngừng mở rộng các
kênh phân phối, thành lập thêm các PGD mới, mở rộng thời gian giao dịch ngoài
giờ cho khách hàng. Với việc phân chia ca giao dịch, chi nhánh nên mở rộng thời
gian giao dịch buổi chiều từ 14 giờ 30 đến 15giờ 30 để thu hút đối tượng khách
hàng gửi tiền là người công chức, giới nhân viên văn phòng.
Đưa thêm các hình thức quỹ tiết kiệm lưu động, trước hết là đến các phường
xã, định kỳ mỗi tháng từ một đến hai lần phối hợp với chính quyền địa phương

tuyên truyền, quảng cáo, hướng dẫn khách hàng làm thủ tục nhận tiền gửi và chi trả.
Bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ nhân viên: Trong xu thế phát triển, máy
móc và kỹ thuật sẽ dần thay thế con người. Tuy nhiên, trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
những nhân viên chuyên nghiệp không thể thay thế. Nhận thức được tầm quan trọng
của yếu tố Con Người trong quá trình phát triển, SHB chi nhánh Hà Nội đã tổ chức
nhiều khoá học, các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống …
cho toàn thể cán bộ nhân viên. Trong thời gian tới, các hoạt động này cần được đẩy
mạnh và phát triển hơn nữa về chất lượng và số lượng khoá học
Nâng cao trình độ công nghệ: Chi nhánh cần chủ động và nâng cao trình độ
công nghệ hiện có để đáp ứng tốt hơn chất lượng phục vụ khách hàng. Với đặc thù
của chi nhánh là không thể có toàn quyền như hội sở trong việc áp dụng, triển khai
14
các phần mềm mới, hay đổi mới công nghệ ngân hàng, nhưng với vai trò và chức
năng tham mưu của mình, chi nhánh cần hỗ trợ hội sở trong việc lựa chọn phần
mềm mới ứng dụng hay hoàn thiện phần mềm cũ cho tiện ích hơn, thông qua những
đề bạt và kiến nghị.
Kiến nghị
Kiến nghị với SHB Hội sở: Đa dạng hoá các hình thức huy động, không
ngừng nâng cao chất lượng công nghệ thông tin dịch vụ ngân hàng, xây dựng các cơ
chế hoạt động linh hoạt, phù hợp với từng giai đoạn và chi nhánh.
Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước: NHNN cần xây dựng chiến lược phát
triển mạng lưới và hạ tầng cơ sở cho việc phát triển các dịch vụ thanh toán không
dùng tiền mặt theo từng giai đoạn, kết hợp chỉ đạo toàn bộ hệ thống các NHTM nhà
nước cùng thực hiện, thống nhất phần mềm tại trung tâm thanh toán thẻ để thẻ của
một ngân hàng có thể rút tiền tại tất cả mọi ngân hàng khác, hạn chế tình trạng hiện
nay, khách hàng đi mãi mà không tìm ra điểm rút tiền của ngân hàng mình sở hữu
thẻ, điều này gây cho khách hàng rất nhiều khó chịu. Hoàn chỉnh và tổ chức tốt thị
trường tiền tệ.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

15
Ngân hàng là một loại hình tổ chức vô cùng quan trọng đối với một nền kinh
tế. Hệ thống ngân hàng với hàng nghìn chi nhánh hoạt động trên toàn thế giới có thể
tác động đến sự phát triển của mọi lĩnh vực và của toàn bộ nền kinh tế thế giới.
Những năm gần đây, trước bài học từ những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ,
nhiều quốc gia nhận thức được rằng khi ngân hàng ngừng cấp vốn cho những đơn
xin vay khi có mức rủi ro cao thì nền kinh tế gần như “ngừng hoạt động” – giá cổ
phiếu, bất động sản giảm trầm trọng, số lượng thất nghiệp tăng nhanh và ảnh hưởng
đến sự hưng thịnh của quốc gia.
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển, sự phát
triển đó được nhận thấy trên tất cả các phương diện của đời sống kinh tế xã hội, có
ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của Việt Nam: chiến lược và định hướng phát triển
của cả nền kinh tế. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền
kinh tế, ngành Ngân hàng tại Việt Nam cũng phát triển không ngừng với vai trò
“đầu tầu”, là động lực và có trách nhiệm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Với một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động kinh doanh Ngân hàng ở Việt Nam cũng
mang những đặc điểm và “trọng trách” riêng so với hoạt động kinh doanh Ngân
hàng ở các quốc gia khác. Các ngân hàng ở Việt Nam hoạt động không chỉ vì mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận đơn thuần, mà thông qua hoạt động của hệ thống các ngân
hàng, chính phủ, Ngân hàng Nhà Nước có thể điều tiết hoạt động của cả một nền
kinh tế, do vậy mọi hoạt động kinh doanh của các ngân hàng đều được kiểm soát
một cách chặt chẽ.
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó
khăn người ta càng nhận thức rõ vai trò quan trọng của hoạt động ngành ngân hàng
với vai trò trung gian thúc đẩy sự hoạt động của nền kinh tế. Với các nghiệp vụ
chính là huy động vốn và tái cấp vốn của mình, hệ thống các ngân hàng thương mại
Việt Nam đang phát triển không ngừng và đóng góp vào quá trình phát triển đất
nước, khôi phục nền kinh tế Việt Nam. Nếu như hoạt động cho vay của Ngân hàng
16

đảm bảo cho quá trình tái phân phối vốn cho nền kinh tế thì hoạt động huy động
tiền gửi đảm bảo nguồn đầu vào cho hoạt động cho vay.
Hoạt động huy động tiền gửi của các ngân hàng Việt Nam hiện nay diễn ra
rất khó khăn, một phần bởi những chính sách kinh tế thắt chặt của Nhà Nước khiến
tốc độ chu chuyển tiền tệ giảm mạnh, một phần do những biến động kinh tế thời
gian qua khiến cho tâm lý người dân Việt không yên tâm khi gửi tiền vào ngân
hàng.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội (SHB
Hà Nội) ra đời và phát triển trong giai đoạn khó khăn chung của hệ thống ngân
hàng, hoạt động huy động vốn của chi nhánh cũng gặp phải sự cạnh tranh lớn của
các ngân hàng khác, thách thức lớn nhất đối với SHB Hà Nội ngay từ khi thành lập
là huy động được nguồn tiền gửi với chi phí hợp lý, độ ổn định cao… đảm bảo cho
hoạt động của chi nhánh. Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề này trên phương
diện lý thuyết và tính cấp thiết của thực tế tôi đã lựa chọn đề tài “Tăng cường huy
động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà
Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận chung về huy động tiền gửi của Ngân
hàng, luận văn đã phân tích thực trạng huy động tiền gửi của Ngân hàng thương mại
cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Hà Nội, từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải
pháp nhằm tăng cường huy động tiền gửi tại chi nhánh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn khác
nhau, gồm có : Vốn tự có của ngân hàng; Vốn Nợ. Trong Vốn Nợ của ngân hàng có
vốn huy động từ tiền gửi, vốn đi vay. Luận văn dừng lại ở việc nghiên cứu hoạt
động huy động tiền gửi của SHB chi nhánh Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích thực trạng huy động tiền gửi
của SHB chi nhánh Hà Nội giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
17

Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh
giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt
động huy động tiền gửi. Bên cạnh đó, đề tàì còn sử dụng phương pháp phân tích tổng
hợp, đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết thúc, kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động tiền gửi của ngân hàng thương
mại
Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà
Nội, Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tại ngân hàng TMCP Sài
Gòn - Hà Nội, Chi nhánh Hà Nội
18
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát huy động Vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái quát Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức kinh tế có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, có nhiều định nghĩa về
ngân hàng và có nhiều nhầm lẫn về định nghĩa ngân hàng. Ngân hàng có thể được
định nghĩa qua chức năng mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, tuy nhiên những
chức năng này không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm
cả các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm
hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân
hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung
cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào các quỹ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Ở Pháp, luật ban hành năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là một xí nghiệp
hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền của dân chúng dưới hình

thức ký thác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng và tài chính.”
Năm 1942, luật của nước Anh định nghĩa: “ngân hàng bắt đầu bằng việc
nhận tiền từ khách hàng theo những ràng buộc đã được chi tiết hóa theo luật. Ngân
hàng đảm trách việc hoàn trả khi có yêu cầu hoặc khi đến hạn”.
Theo pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng thương mại là
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi
của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
19
Căn cứ vào các khái niệm trên thì hoạt động của Ngân hàng thương mại có
thể được nhận dạng thông qua một số đặc điểm sau:
* Thứ nhất: hoạt động của NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích
kiếm lời (bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
hàng). Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy
động vốn dưới các hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu
cầu về vốn, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Hoạt động dịch vụ Ngân hàng được
biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và
chứng khoán để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong
một thời hạn nhất định nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng
chi trả dưới dạng phí hay hoa hồng.
* Thứ hai: hoạt động của NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều
kiện, nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do
pháp luật quy định (về vốn pháp định, phương án kinh doanh, ) thì mới được
phép hoạt động trên thị trường.
* Thứ ba: hoạt động của NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao
hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc,
mang tính chất dây truyền đối với nền kinh tế. Trong hoạt động Ngân hàng, đặc
biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, các NHTM phải tiến hành huy động tiền gửi
của nhiều người khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc

NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra
khả năng rủi ro thanh khoản cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi
ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy,
hoạt động Ngân hàng ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới thường được điều
chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo
cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
Một số cuộc điều tra về ngân hàng đưa ra kết quả gợi ý rằng các ngân hàng
đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong chức năng và hình thức hoạt động, đó
là do hiện nay có nhiều khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng, đó là:
20
- Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ NHTM cung cấp và
nhu cầu của khách hàng.
- Sự gia tăng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ
- Phi quản lý hoá trong lĩnh vực ngân hàng
- Sự gia tăng chi phí vốn
- Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
- Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
1.1.2 Huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề cốt lõi cho quá tình hình thành
và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong
kinh doanh. Nguồn vốn chính là các nguồn hình thành nên Vốn của ngân hàng, việc
tạo lập những nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của ngân
hàng là điều rất cần thiết.
Tuỳ thuộc vào nguồn hình thành và yêu cầu quản lý người ta chia nguồn
vốn của ngân hàng thành các loại vốn khác nhau, để phục vụ cho việc nghiên cứu
tôi chia Vốn của NHTM bao gồm:
- Vốn tự có
- Vốn huy động
- Vốn đi vay
- Các nguồn vốn khác

1.1.2.1 Vốn tự có
Vốn tự có của ngân hàng là vốn do chủ sở hữu góp và vốn được tạo ra trong
quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thuật ngữ “vốn chủ sở hữu” có
một ý nghĩa đặc biệt đối với ngân hàng và không thể thay thế trong hoạt động của
ngân hàng, cung cấp những nguồn lực ban đầu giúp ngân hàng thành lập, cung cấp
nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng chống lại rủi ro.
Đối với mỗi ngân hàng, nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn
này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng,
yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
21
Vốn điều lệ
Vốn điều lệ hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở
hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá
nhân tự bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn do ngân sách Nhà
nước cấp; nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông góp thông qua mua cổ phần
(hoặc cổ phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh
góp Trường hợp của ngân hàng cổ phần, vốn có thể được hình thành từ cổ phần
thường và cổ phần ưu đãi.
Vốn điều lệ thường phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà Nước.
Các quy định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà mỗi loại
hình ngân hàng cần phải có để bắt đầu kinh doanh ngân hàng. Ngân hàng Nhà
Nước, luật NHNN có quy định cụ thể về vốn pháp định cho từng loại ngân hàng
trong từng điều kiện cụ thể. Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể
bán cổ phiếu trên thị trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ đông thường
được hưởng cổ tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách
phân chia lợi nhuận của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm) trong quá
trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quỹ
Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm: Ngân hàng có thể

phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn từ
ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro trong trường
hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu
Huy động từ các loại quỹ: Nếu như lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ để
đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông thường đây chính là nguồn bổ
sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ
dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi
nào thì được phép trích lập từ các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích
lập ra sao cho hợp lý.
22
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng Vốn của ngân hàng, do
đặc trưng trong kinh doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của
NHNN Việt Nam tỷ lệ Vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20.
Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng
trong cơ cấu nguồn vốn của các NHTM, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì
các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài,
đó là:
- Vốn đóng vai trò tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang
trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập
trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại hoạt động bình thường.
- Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và
hoạt động trước khi ngân hàng có thê huy động được những khoản tiền gửi đầu
tiên.
- Quan trọng hơn cả là Vốn tạo niềm tin cho công chúng, là sự đảm bảo đối
với chủ nợ (gồm cả những người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình
thức dịch vụ mới, cho các chương trình và thiết bị mới.
Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi vốn
điều lệ của ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của
danh mục cho vay và đầu tư những tài sản rủi ro khác. Do vậy, “tấm đệm” dùng

để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy
mô hoạt động của ngân hàng.
1.1.2.2 Vốn huy động từ tiền gửi
Vốn huy động từ tiền gửi là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thương mại. Với việc huy động tiền gửi, ngân hàng có được quyền sử
dụng nguồn vốn huy động này và có trách nhiệm phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng
hạn cho chủ tài khoản.
23
“Ngân hàng được nhận tiền gửi của các Tổ chức kinh tế, cá nhân và các Tổ
chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền tửi có kỳ hạn và
tiền gửi khác” - Điều 45 Luật các TCTD số 03/1997/QH10.
Vốn huy động từ tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt
ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Vốn huy động từ tiền gửi là cơ sở
chính của các khoản vay và do đó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát
triển trong ngân hàng. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng như
khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu quả trong
quản lý ngân hàng.
1.1.2.3 Vốn đi vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với các đối tượng trong nền
kinh tế (người dân, TCKT); với NHNN hoặc giữa các NHTM với nhau hay với
các TCTD khác.
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay
để đảm bảo nhu cầu tức thời của mình: nhu cầu thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt
buộc Các ngân hàng có thể vay ở:
Vay trên thị trường vốn: Phát hành giấy tờ có giá
Bản chất của nghiệp vụ này là ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ như
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu để huy động vốn thường nhằm mục đích
đã định. Ví dụ phát hành kỳ phiếu để có tiền cho vay khắc phục hậu quả bão lụt,
để cho vay thu mua nông sản, để đầu tư cho một dự án

Trong phát hành giấy tờ có giá thì chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn
với mệnh giá quy định; trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu
nợ trên được ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục đích.
Huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ngân
hàng, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Vì vậy
khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các ngân hàng phải căn cứ
vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và
phương pháp huy động.
24
Vốn này chỉ được huy động trong thời gian nhất định, khi đã huy động đủ
khối lượng vốn theo dự kiến các ngân hàng sẽ ngừng việc huy động (bán) kỳ
phiếu, trái phiếu.
Vay Ngân hàng Nhà Nước (vay ngân hàng Trung Ương)
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ thanh toán ), NHTM thường
vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu
(hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái
chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương
phiếu này đến tái chiết khấu tại NHNN.
NHNN điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ; tuỳ thuộc chính
sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định.
Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất
lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kỳ. Còn trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho
NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
Đứng về phía NHTM, vay tại NHTW là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào
những khi NHTW hạ lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền tệ nới lỏng
để kích thích đầu tư.
Trong trường hợp khi NHTM đến vay giữa lúc NHTW đang thắt chặt cung

ứng để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao với những
khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTW, các NHTM chỉ miễn cưỡng vay
trong tình huống thắt chặt ngặt nghèo, và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh. Khi đó
các khoản vay này chỉ chiếm một phần rất ít trong tổng tài sản nợ.
Tùy vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà NHTW có thể hạ hoặc nâng
lãi suất chiết khấu. Song dù sao đây cũng là nguồn “cứu trợ” cuối cùng đối với
hoạt động vốn của các NHTM.
25

×