Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.66 KB, 86 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các hoạt động ngân hàng cũng ngày càng
phát triển. Ngân hàng không những ngày càng thể hiện vai trò trung gian tài chính
của mình đối với nền kinh tế mà còn không ngừng phát triển các sản phẩm, dịch vụ
bán lẻ. Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời cùng với sự phát triển của
hệ thống ngân hàng là một tất yếu khách quan của xã hội phát triển vì những gì
mang lại hiệu quả kinh tế cao thì sẽ được thừa nhận. Hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt không những đã khắc phục được những hạn chế của thanh toán tiền
mặt mà nó còn có nhiều ưu điểm khác như: Nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết
kiệm Thanh toán không dùng tiền mặt đã nhanh chóng trở thành một phần không
thể thiếu và là một dịch vụ quan trọng của ngân hàng thương mại cung cấp cho
khách hàng. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã tạo điều kiện cho các
chủ thể mở rộng quan hệ kinh tế trong nước và nước ngoài, nâng cao hiệu quả thanh
toán trong nền kinh tế, góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn trong xã hội, thúc đẩy
quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nhận thức được vai trò quan trọng
của thanh toán không dùng tiền mặt, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều văn bản, chế độ quy định, hướng dẫn hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt cũng như các văn bản khuyến khích các chủ thể sử dụng dịch
vụ này. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn chưa được chú trọng đúng mức,
hoạt động thanh toán bằng tiền mặt vẫn chiếm đa số. Vậy hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt thực tế đã diễn ra như thế nào, làm thế nào để phát triển và
nâng cao hiệu quả của hoạt động này? Để trả lời câu hỏi này, đòi hỏi phải có một
nghiên cứu nghiêm túc và có hệ thống. Đó là lý do để tác giả lựa chọn đề tài: “Phát
triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Đông Đô”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Luận văn này nghiên cứu lý luận về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt
trên các khía cạnh: Vai trò; các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; ưu điểm,
hạn chế của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Luận văn nghiên cứu thực
trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam nói chung, tại BIDV và BIDV


Đông Đô nói riêng. Từ những nghiên cứu thực tế tại BIDV Đông Đô, tác giả đưa ra
các giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt tại BIDV Đông Đô.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt. Phạm vi nghiên cứu là hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, cụ thể là
hoạt động thanh toán trong nước tại BIDV Đông Đô trong thời gian từ năm 2007
đến năm 2009 và định hướng phát triển trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết
hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê; phương pháp so sánh để
phân tích, đánh giá số liệu từ đó đưa ra các kết luận của luận văn.
5. Những đóng góp của luận văn:
Trên cơ sở các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực trạng hoạt động TTKDTM
tại BIDV Đông Đô, luận văn đưa ra một số giải pháp góp phần tăng hiệu quả của
hoạt động này tại chi nhánh.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại
chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Đông Đô.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại
BIDV Đông Đô.
CHƯƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SỰ PHÁT
TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.1. Tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.1. Khái niệm về thanh toán không dùng tiền mặt
Tiền mặt theo nghĩa hẹp, đó là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành ra
và nằm trong tay công chúng hay tại hệ thống ngân hàng. Còn theo nghĩa rộng nhất,
tiền mặt có thể được hiểu là những thứ có thể sử dụng trực tiếp để thanh toán các

giao dịch và bao gồm cả tiền gửi ngân hàng. Như vậy, trong trường hợp này khái
niệm tiền mặt được dùng để chỉ dạng có khả năng thanh toán cao nhất của tài sản,
bao gồm các đồng tiền do ngân hàng Nhà nước phát hành ra và được công chúng
giữ để chi tiêu, tiền gửi ở tài khoản vãng lai hay tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có
thể rút ra bất cứ lúc nào bằng cách viết giấy rút tiền mặt hay séc.
Đối với các ngân hàng thương mại khái niệm tiền mặt bao gồm các đồng tiền
cất trong két sắt và số dư của họ tại ngân hàng trung ương.
Tiền mặt là hình thức tiền tệ, theo đó, trong thời gian giao dịch, chức năng
lưu thông và cất trữ giá trị được thực hiện mà không cần sự tham gia của các định
chế tài chính trung gian đặc thù.
Thanh toán, trong các mối quan hệ kinh tế, được hiểu một cách khái quát
nhất là việc thực hiện chi trả bằng tiền giữa các bên trong những quan hệ kinh tế
nhất định. Tiền ở đây được hiểu là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc
thanh toán để nhận hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán không có sự xuất
hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi
trả để trả vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù
trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt còn được định nghĩa là sự chuyển dịch giá
trị từ tài khoản này sang tài khoản khác trong hệ thống tài khoản kế toán của các tổ
chức tín dụng để thanh toán việc mua hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của người
thanh toán. Khi nhận được giấy báo có hoặc giấy báo nợ do NHTM gửi đến cơ
quan, doanh nghiệp hay cá nhân, sau khi hạch toán vào tài khoản thích hợp sẽ đồng thời
ghi tăng hay ghi giảm tài khoản tiền gửi kỳ hạn của mình mở tại đơn vị thanh toán.
1.1.2. Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền
mặt trong nền kinh tế.
Quá trình phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình phát triển
sản xuất. Những sản phẩm làm ra trong quá trình sản xuất được đem đi trao đổi để
thoả mãn nhu cầu của con người. Cùng với thời gian, con người đã tìm ra một loại
sản phẩm để làm vật trung gian đo lường giá trị của các sản phẩm khác và nó được

gọi là tiền tệ. Đây là một trong những phát minh quan trọng nhất của con người.
Tiền tệ được ra đời và không ngừng phát triển, hoàn thiện nhằm nâng cao hai mục
tiêu chính, đó là sự tiên lợi và an toàn.
Tiền tệ đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển và ở mỗi giai đoạn nó đều có
những ưu, nhược điểm cần phải được khắc phục. Có thể nói, tiền giấy đã thể hiện
được những ưu điểm của nó trong lưu thông nhất là trong thanh toán. Tuy nhiên, nó
cũng chỉ phù hợp với nền kinh tế với quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất chưa phát triển,
việc trao đổi, thanh toán hàng hoá diễn ra với số lượng nhỏ, trong phạm vi hẹp. Bên
cạnh đó, thanh toán là cầu nối giữa sản xuất - phân phối, lưu thông và tiêu dùng.
Đồng thời là khâu mở đầu và khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy
khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao, việc trao đổi hàng hoá phong
phú, đa dạng với khối lượng lớn, diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và trên
phạm vi rộng, dung lượng và cơ cấu của thị trường được mở rộng, mọi quan hệ kinh
tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá thì việc thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ
nhiều hạn chế như: thanh toán và vận chuyển mất nhiều thời gian, không an toàn,
bảo quản phức tạp…Chính vì vậy, các hình thức thanh toán luôn phải được đổi mới,
hiện đại phù hợp với sự phát triển không ngừng của sản xuất lưu thông hàng hoá.
Trên cơ sở những yêu cầu của tiến trình phát triển, của cơ chế thị trường thì
hình thức TTKDTM ra đời cùng với sự phát triển của hệ thống NH là một tất yếu
khách quan của một xã hội phát triển vì những gì mang lại hiệu quả kinh tế cao thì
sẽ được thừa nhận. Với hình thức thanh toán này không những đã khắc phục được
những hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt mà nó còn có nhiều ưu điểm khác như:
nhanh chóng, thuận tiện, an toàn và tiết kiệm Trong nền KTTT, TTKDTM đã
nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu và là sản phẩm dịch vụ quan trọng
của NHTM để cung cấp cho khách hàng là các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân
trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho các chủ thể mở rộng quan hệ kinh tế trong
nước và nước ngoài, nâng cao hiệu quả thanh toán trong nền kinh tế, góp phần tăng
tốc độ luân chuyển vốn của xã hội, thúc đẩy quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá
và tiền tệ.
Như vậy, TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt

mà được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào
tài khoản của người thụ hưởng mở tại NH, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông
qua vai trò trung gian của NH.
1.1.3. Đặc trưng của thanh toán không dùng tiền mặt.
Với những ưu thế hơn hẳn so với thanh toán bằng tiền mặt thì TTKDTM có
những nét đặc trưng riêng của nó là:
- Trong TTKDTM, sự vận động của tiền tệ và hàng hóa luôn có sự tách rời
về không gian và thời gian.
Việc thanh toán không phải thực hiện bằng cách trao đổi trực tiếp tiền - hàng
giữa người mua và người bán mà được thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài
khoản tiền gửi của người mua sang tài khoản tiền gửi của người bán trước hoặc sau
khi hàng hoá được vận chuyển từ người bán tới người mua.
- Tiền tệ dùng trong TTKDTM là tiền ghi sổ hay bút tệ.
Việc thanh toán được thực hiện bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của
người chi trả sang tài khoản của người thụ hưởng mở tài khoản tại NH hoặc bằng
cách bù trừ lẫn nhau. Số tiền được ghi trên các chứng từ, dựa trên các chứng từ đó
NH thực hiện việc thanh toán cho các bên có liên quan.
- Trong quá trình TTKDTM, mỗi món thanh toán phải có ít nhất 03 bên tham gia.
• Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bao gồm các NHTM, các tổ chức
tín dụng khác và tổ chức khác khi được NHNN cấp phép.
• Người trả tiền (người mua).
• Người thụ hưởng (người bán).
1.1.4. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.4.1. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt đối với nền kinh tế.
- TTKDTM phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội.
Một chu kỳ sản xuất được biểu hiện theo công thức: T - H - SX - H' -
T'(T+t) với T<T'. Qua đó ta thấy thanh toán vừa là khởi đầu một vòng tuần hoàn,
vừa kết thúc một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thời gian thực hiện một
chu kỳ sản xuất càng ngắn càng có lợi cho nhà sản xuất. Vì vậy, đòi hỏi ở từng khâu
phải được tổ chức thực hiện một cách nhanh chóng, đặc biệt là khâu thanh toán. Do

đó, TTKDTM đã đáp ứng được yêu cầu của các chủ thể kinh tế. NH đóng vai trò
trung gian thanh toán, trích tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán.
- TTKDTM góp phần giảm tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, từ đó có thể tiết
kiệm được chi phí lưu thông như: in ấn, phát hành, bảo quản, vận chuyển, kiểm
đếm…Mặt khác, TTKDTM còn tạo ra sự thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển
khoản. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và lưu thông tiền
tệ.
- TTKDTM tạo điều kiện tập trung nguồn vốn lớn của xã hội vào tín dụng để
tái đầu tư cho nền kinh tế, phát huy vai trò điều tiết, kiểm tra của Nhà nước vào hoạt
động tài chính ở tầm vĩ mô và vi mô. Qua đó, kiểm soát được lạm phát đồng thời
tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động.
1.1.4.2.
1.1.4.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt đối với ngân
hàng thương mại.
Các tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh trong nền KTTT đều quan tâm
đến vấn đề thanh toán là: an toàn - tiện lợi - quay vòng vốn nhanh. Với những yêu
cầu đa dạng của các mối quan hệ kinh tế - xã hội, NH có vai trò hết sức quan trọng.
NH đã trở thành trung tâm Tiền tệ - Tín dụng - Thanh toán trong nền kinh tế.
TTKDTM đã góp phần không nhỏ vào thành công đó của NH.
TTKDTM tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của NH
TTKDTM không những làm giảm được chi phí lưu thông mà còn bổ sung
nguồn vốn cho NH thông qua hoạt động mở tài khoản thanh toán của các tổ chức và
cá nhân. Khách hàng mở tài khoản này với mong muốn NH đáp ứng kịp thời, chính
xác các yêu cầu thanh toán của họ chứ không phải với mục đích kiếm lời. Tuy
nhiên, đối với séc bảo chi, TTD thì chủ tài khoản phải ký quỹ một lượng tiền tương
ứng với giá trị của nó. Như vậy, NH sẽ luôn có một lượng tiền nhất định tạm thời
nhàn rỗi trên các tài khoản này với chi phí thấp. Nếu sử dụng tốt nguồn vốn này thì
NH không chỉ kiếm được lợi nhuận, giành thắng lợi trong cạnh tranh mà còn mang
lại lợi ích rất lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
TTKDTM thúc đẩy quá trình cho vay

Nhờ có nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn, NH có cơ hội để tăng lợi nhuận
cho mình bằng cách cấp tín dụng cho nền kinh tế. NH thu hút được nguồn vốn với
chi phí thấp nên trên cơ sở đó hạ lãi suất tiền vay, khuyến khích các doanh nghiệp,
cá nhân vay vốn NH để đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh có lãi.
Mặt khác, thông qua TTKDTM, NH có thể đánh giá được tình hình sản xuất
kinh doanh, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp vì thu- chi của họ được thể
hiện trên tài khoản, đây là căn cứ để cho vay hoặc thu hồi nợ, hạn chế những hoạt
động tiêu cực của khách hàng. Từ đó giúp NH an toàn trong kinh doanh, góp phần
hạn chế rủi ro và nâng cao được hiệu quả hoạt động đầu tư tín dụng, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh.
TTKDTM giúp cho NHTM thực hiện chức năng tạo tiền
Trong thực tế nếu thanh toán bằng tiền mặt, thì sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi
NH, số tiền đó không còn nằm trong phạm vi kiểm soát của NH. Nhưng nếu
TTKDTM thì NH thực hiện trích chuyển tiền từ tài khoản của người phải trả sang
tài khoản của người thụ hưởng hoặc bù trừ giữa các tài khoản tiền gửi của các
NHTM với nhau. NH sẽ có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi có thể sử dụng để cho
vay. Như vậy, thực chất của cơ chế tạo tiền của hệ thống NH là tổ chức thanh toán
qua NH và cho vay bằng chuyển khoản. Vì vậy, khi TTKDTM càng phát triển thì
khả năng tạo tiền càng lớn, tạo cho NH lợi nhuận đáng kể.
TTKDTM góp phần mở rộng đối tượng thanh toán, tăng doanh số thanh toán
TTKDTM tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn,
hiệu quả, chính xác, tin cậy và tiết kiệm được thời gian, chi phí. Trên cơ sở đó tạo
niềm tin của công chúng vào hoạt động của hệ thống NH, thu hút người dân và
doanh nghiệp tham gia thanh toán qua NH. Như vậy, TTKDTM giúp NH thực hiện
việc mở rộng đối tượng thanh toán, phạm vi thanh toán (trong và ngoài nước) và
tăng doanh số thanh toán, làm tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của NH.
TTKDTM thúc đẩy các dịch vụ khác
Để nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, để tối đa hóa lợi nhuận, NH
không ngừng cải tiến đưa ra các sản phẩm dịch vụ khác nhau để đáp ứng nhu cầu
ngày cao của khách hàng. Các dịch vụ này muốn phát triển được cần có sự hỗ trợ

đắc lực của TTKDTM mới thực hiện một cách có hiệu quả nhất vì TTKDTM được
tổ chức tốt sẽ tạo điều kiện cho NH thực hiện các dịch vụ trả tiền với khối lượng lớn
một cách chính xác và nhanh chóng.
1.1.4.4. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt đối với ngân
hàng trung ương.
TTKDTM tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tăng
cường vòng quay của đồng tiền, khơi thông các nguồn vốn khác nhau, tạo điều kiện
quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán của dân cư và của cả
nền kinh tế. Qua đó tạo tiền đề cho việc tính toán lượng tiền cung ứng và điều hành
thực thi chính sách tiền tệ có hiệu quả.
1.1.4.5. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt đối với cơ
quan tài chính.
Tăng tỷ trọng TTKDTM không chỉ có ý nghĩa tiết kiệm chi phí lưu thông mà
còn giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn. Nếu các giao
dịch thanh toán trong nền kinh tế được thực hiện chủ yếu bằng chuyển khoản
(UNC, séc, thẻ…) thì tiền chỉ chuyển từ tài khoản của người này sang tài khoản của
người khác, từ tài khoản của doanh nghiệp này sang tài khoản của doanh nghiệp
khác, từ NH này sang NH khác nên tiền vẫn nằm trong hệ thống NH. Do đó, tổn
thất tài sản Nhà nước và tổn thất tài sản của người dân sẽ được hạn chế nhiều.
Như vậy trên cơ sở tài khoản tiền gửi và các tài khoản thanh toán qua NH đã
giúp cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan thuế… có
điều kiện để kiểm tra, theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh
chính xác. Do đó hạn chế các hoạt động "kinh tế ngầm", kiểm soát các hoạt động
giao dịch kinh tế, giảm thiểu các tác động tiêu cực của các hoạt động "kinh tế
ngầm", tăng cường tính chủ đạo của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và
điều hành các chính sách kinh tế tài chính quốc gia, góp phần làm lành mạnh hoá
kinh tế - xã hội.
1.2. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
1.2.1 Hình thức thanh toán bằng séc.
1.2.1.1 Khái niệm:

Séc là lệnh trả tiền vô điều kiện của người phát hành lập trên mẫu in do Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quy định, yêu cầu tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên
ghi trên séc hoặc trả cho người cầm séc.
Thời hạn của séc là 30 ngày theo lịch kể từ ngày chủ tài khoản ký phát hành
séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào đơn vị thanh toán séc (tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán). Trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng làm cho séc không
thể thanh toán đúng thời hạn thì thời hạn xuất trình sẽ được kéo dài quá thời gian 30
ngày và ngay sau khi các sự kiện này chấm dứt, tờ séc phải được xuất trình để thanh
toán. Thời hạn kéo dài trong trường hợp này là không quá 06 tháng kể từ ngày ký
phát (theo NĐ 159/2003/NĐ-CP).
Tham gia vào quá trình phát hành và sử dụng séc gồm có:
• Người phát hành séc: Là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán có mở tài
khoản tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc người được uỷ quyền
ký thay chủ tài khoản ký séc.
• Người thụ hưởng séc: Là người có quyền sở hữu số tiền ghi trên tờ séc.
• Người chuyển nhượng séc: Là người chuyển quyền sở hữu số tiền ghi
trên séc của mình cho người khác.
• Đơn vị thu hộ: Là đợn vị được phép nhận séc với tư cách làm đại lý cho
người thụ hưởng séc để thu hộ tiền. Trong trường hợp người phát hành
séc và người thụ hưởng cùng mở tài khoản tại một tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán thì đơn vị thanh toán séc và đơn vị thu hộ là một.
• Đơn vị thanh toán: Là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ tài
khoản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động dịch vụ thanh
toán, đó là các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.2.1.2 Phân loại séc:
Séc là hình thức TTKDTM ra đời khá sớm và được sử dụng khá rộng rãi. Séc
bao gồm các loại: Séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc chuyển tiền…
nhưng hai loại séc được dùng làm phương tiện thanh toán trực tiếp tiền hành hoá,
dịch vụ giữa người mua (người chi trả) và người bán (người thụ hưởng) là séc

chuyển khoản và séc bảo chi.
* Séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản do người chi trả ký phát hành để trao trực tiếp cho người
cung cấp khi nhận hàng hoá, dich vụ cung ứng. Để phân biệt với các loại séc khác,
khi viết séc chuyển khoản người viết phải gạch hai đường gạch song song chéo góc
ở phía trên, bên phải hoặc ghi từ "chuyển khoản" ở mặt trước của tờ séc.
Người phát hành séc phải đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc, tức là số
tiền trên séc không vượt quá số dư tài khoản thanh toán cộng (+) hạn mức thấu chi
(nếu có). Trường hợp tài khoản thanh toán không đủ tiền để thanh toán tờ séc, tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán không được từ chối thanh toán từng phần giá trị
tờ séc khi người thụ hưởng yêu cầu thanh toán và đồng thời khách hàng phát hành
séc quá số dư thì sẽ chịu phạt vi phạm.
Để đảm bảo quy định người phát hành séc phải có đủ tiền để chi trả cho
người thụ hưởng, thì kế toán séc phải thực hiện thanh toán theo nguyên tắc ghi Nợ
trước Có sau. Trong trường hợp có sự uỷ quyền giữa các tổ chức và ngân hàng thì
ngân hàng có thể ghi Có cho người thụ hưởng.
Phạm vi thanh toán séc chuyển khoản:
• Thanh toán giữa những đơn vị hoặc cá nhân có mở tài khoản tại cùng một
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
• Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có quyền thoả thuận với một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác trên cùng địa bàn, hoặc khác địa
bàn tỉnh, thành phố về việc tổ chức thanh toán séc cho khách hàng của
hai bên, trên cơ sở tự chịu trách nhiệm về việc đảm bảo an toàn và thuận
tiện trong thanh toán séc, đồng thời quy định và thông báo cho khách
hàng mình thực hiện.
Séc chuyển khoản có những ưu, nhược điểm sau:
Ưu điểm:
• Thủ tục thanh toán đơn giản, gọn nhẹ vì người mua không cần đến tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán khi phát hành séc đồng thời không phải
lưu ký số tiền trên séc.

• Người trả tiền, người thụ hưởng kiểm soát được việc trả tiền và giao hàng
hay cung cấp dịch vụ vì hàng giao thì séc mới phát hành.
Nhược điểm:
• Do phát hành séc không qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nên dễ
phát hành quá số dư gây nên ứ đọng vốn và tốc độ thanh toán chậm.
* Séc bảo chi:
Séc bảo chi là séc được tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán xác nhận khả
năng thanh toán trước khi người chi trả trao séc cho người thụ hưởng để nhận hàng
hoá , dịch vụ.
Bảo chi séc được thực hiện bằng hai cách: Hoặc người chi trả trích tài khoản
thanh toán một số tiền ghi trên séc để lưu ký vào tài khoản "Đảm bảo thanh toán séc
bảo chi", hoặc chỉ cần chữ ký xác nhận đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán. Sử dụng theo cách nào là sự thoả thuận giữa người phát hành
séc bảo chi và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Phạm vi thanh toán séc bảo chi:
• Thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
• Thanh toán khác tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nhưng cùng một hệ
thống.
• Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có quyền thoả thuận với một tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác trên cùng địa bàn, hoặc khác địa
bàn tỉnh, thành phố về việc tổ chức thanh toán séc cho khách hàng của
hai bên, trên cơ sở tự chịu trách nhiệm về việc đảm bảo an toàn và thuận
tiện trong thanh toán séc, đồng thời quy định và thông báo cho khách
hàng mình thực hiện.
Quy trình thanh toán séc bảo chi về cơ bản giống séc chuyển khoản. Điểm khác là
trước khi trao séc cho người thụ hưởng người ký phát séc phải gửi séc đến tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán phục vụ mình để làm thủ tục xác nhận thanh toán (bảo chi).
Ưu điểm:
• Phạm vi thanh toán rộng, thời gian thanh toán nhanh vì séc bảo chi cùng
hệ thống được phép ghi Có ngay cho người thụ hưởng khi họ nộp séc (vì

trước đó người mua đã làm thủ tục bảo chi séc).
• Đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng chắc chắn nhận được tiền hàng
vì séc đã được xác nhận thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
bảo chi séc có trách nhiệm thanh toán.
Nhược điểm:
Khi thực hiện thanh toán séc bảo chi thì người mua sẽ phải mất thời gian đến
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán để làm thủ tục xác nhận bảo chi và trong
trường hợp séc bảo chi lưu ký thì người mua sẽ phải lưu ký số tiền trên tờ séc, gây ứ
đọng vốn và không được hưởng lãi kể từ ngày bảo chi séc.
Thanh toán bằng séc đơn giản, dễ dàng và tiện lợi, nên nó được sử dụng rộng
rãi ở nhiều nước và trên phạm vi thế giới. Tuy nhiên thanh toán bằng séc không
phải bao giờ cũng an toàn do sự xuất hiện của những tờ séc giả. Chính vì vậy, người
ta đã không ngừng hoàn thiện kỹ thuật thanh toán bằng séc trên tất cả các phương
tiện. Từ đó đã xuất hiện Card séc.
Thanh toán bằng card séc là hình thức thanh toán bằng séc phải dùng tấm
card do Ngân hàng phát hành và cấp cho người sử dụng séc nhằm khắc phục hiện
tượng séc giả. Người sử dụng séc phải xuất trình card và ghi các yếu tố của card vào
tờ séc trước sự kiểm soát của người được hưởng séc.
Đặc điểm của hình thức thanh toán card séc là:
Có thể nhận tiền mặt hoặc thanh toán bằng chuyển khoản trong một giới hạn
nhất định.
Được dùng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ trong nước và ngoài nước
(trong phạm vi các nước cùng tham gia thanh toán card séc với nhau).
Người phát hành séc có thể phát hành quá số dư ở mức độ nhất định, với
điều kiện trong thời gian quy định phải trả vào ngân hàng đủ số tiền đó.
Người nhận séc có thể có hoặc không có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng.
Trường hợp không có tài khoản tại Ngân hàng thì họ sẽ nhận tiền mặt.
Sử dụng card séc dễ dàng và tiện lợi, nên nó được dùng rất phổ biến ở nhiều
nước và nhiều quốc gia đã liên kết với nhau để sử dụng card séc, như các nước
Châu âu đã cùng nhau hình thành hệ thống séc Châu âu.

1.2.2 Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi.
1.2.2.1 Khái niệm:
UNC là hình thức thanh toán mà người trả tiền lập lệnh thanh toán (theo mẫu
của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định) giao cho tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán nơi mình mở tài khoản yêu cầu tổ chức đó trích một số tiền nhất định
trên tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng
UNC không có nghĩa là ủy nhiệm cho ngân hàng chi hộ mà UNC phải do
khách hàng lập, ký và ngân hàng chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích tiền từ tài khoản
của khách hàng chuyển trả cho người thụ hưởng. Việc ngân hàng tự động trích tài
khoản của khách hàng là không được phép trừ trường hợp đã có thỏa thuận trước
bằng văn bản.
Trong quan hệ mua bán hàng hóa, người mua có thể dùng ủy nhiệm chi để
ứng trước tiền hàng cho người bán và cũng có thể thanh toán ngay sau khi nhận đủ
hàng hóa hoặc sau một thời gian nào đó. Việc dùng ủy nhiệm chi đảm bảo thanh
toán nhanh gọn, đảm bảo quyền lợi kinh tế cho người bán. Hình thức thanh toán này
được sử dụng trong quan hệ kinh tế tin tưởng lẫn nhau.
1.2.2.2 Phạm vi thanh toán của UNC:
• Thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
• Thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hệ thống.
• Thanh toán giữa hai tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác hệ thống
có tham gia TTBT.
• Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN.
1.2.2.3. Điều kiện, thủ tục, thời hạn thực hiện lệnh chi hay UNC:
Do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thoả thuận với người sử dụng dịch
vụ thanh toán. Khi kiểm soát, hạch toán lệnh chi các bên phải thực hiện đúng thời
hạn đã quy định để đảm bảo thanh toán nhanh lệnh chi.
Trong thời hạn không quá một ngày làm việc kể từ thời điểm nhận được lệnh
chi hay UNC do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền gửi
đến, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng phải ghi có vào
tài khoản của người thụ hưởng theo yêu cầu của của lệnh chi hay UNC.

1.2.2.4. Ưu, nhược của UNC:
. Ưu điểm:
• Đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện.
• Bên mua kiểm soát được bên bán về việc giao hàng và cung cáp dịch vụ.
• Phạm vi thanh toán rộng, đây là điều kiện thuận lợi cho người mua và
người bán ngay cả khi họ ở xa nhau qua đó góp phần mở rộng và phát
triển mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ trên phạm vi cả
nước.
Đây là hình thức thanh toán áp dụng cho hai bên mua bán thực sự tín nhiệm
lẫn nhau, tạo quyền chủ động thanh toán cho người mua (thanh toán nhanh hay
chậm phụ thuộc vào thiện chí của người mua, nếu người mua chậm trễ trong việc
thanh toán thì cũng không bị phạt chậm trả), nên quy trình thanh toán được rút
ngắn, do đó tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí có liên quan, làm tăng nhanh
vòng quay của vốn.
Nhược điểm:
• Do quyền chủ động thanh toán thuộc về người mua nên khả năng người
mua chiếm dụng vốn của người bán trong trường hợp người mua đã nhận
hàng nhưng lại không thanh toán vốn ngay cho người bán, dẫn đến người
bán sẽ gặp rủi ro, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh.
• Do không quy định thời gian thanh toán cụ thể nên NH không có căn cứ
để đôn đốc người mua thanh toán theo đúng thời hạn hoặc xử phạt người
mua khi người mua chậm trả.
1.2.3 Hình thức thanh toán bằng ủy nhiệm thu hay nhờ thu.
1.3.3.1. Khái niệm:
UNT là chứng từ đòi tiền do người bán lập nộp vào tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán để yêu cầu tổ chức đó thu hộ tiền từ người mua về giá trị hàng hoá đã
giao hoặc dịch vụ đã cung ứng.
1.3.3.2. Phạm vi thanh toán của UNT hay nhờ thu:
• Thanh toán người mua và người bán có mở tài khoản trong nội bộ tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán .

• Thanh toán giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cùng hoặc khác
hệ thống.
Cơ sở để thực hiện thanh toán bằng UNT là phải có sự thoả thuận hoặc hợp
đồng kinh tế về điều kiện thu hộ giữa bên trả tiền và bên thụ hưởng.
Thời hạn thực hiện UNT do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thoả thuận
với người sử dụng dịch vụ thanh toán.
UNT là loại chứng từ thanh toán không cần có sự chấp nhận thanh toán của
người mua. Trong thời gian không qua một ngày làm việc kể từ thời điểm nhận
được UNT do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng gửi
đến, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền phải hoàn tất việc
trích tài khoản của người trả tiền nếu trên tài khoản của người trả đó có đủ điều kiện
để thức hiện giao dịch thanh toán hoặc thông báo cho người trả tiền biết nếu trên tài
khoản của người đó không có đủ tiền để thực hiện giao dịch thanh toán, đồng thời theo
dõi để thanh toán và tính phạt chạm trả khi tài khoản của người trả tiền có đủ tiền.
1.2.3.3. Ưu, nhược của UNT:
Ưu điểm:
• Phạm vi thanh toán rộng, thích hợp với các dịch vụ cung ứng định kỳ
như: điện, nước, cước phí điện thoại…
• Bên trả tiền không bị ứ đọng vốn.
Nhược điểm:
Thủ tục thanh toán phức tạp và có khả năng xảy ra chênh lệch giữa tiền trên
UNT do người bán lập với giá trị hàng hoá mà người mua đã được cung cấp thực
sự. Do đó, nó thường được sử dụng thanh toán các loại dịch vụ có dụng cụ ghi đo
chính xác như: điện, nước, cước phí điện thoại…
1.2.4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng.
1.2.4.1. Khái niệm:
TTD là một văn bản cam kết trong thanh toán, theo yêu cầu của người mua,
tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mở TTD sẽ trả tiền hoặc uỷ nhiệm cho người
khác trả tiền khi người thụ hưởng xuất trình các hoá đơn, chứng từ thanh toán phù
hợp với các điều kiện quy định và trong phạm vi hiệu lực của TTD.

TTD là một văn bản cam kết:
- Trả tiền hoặc uỷ quyền cho NH khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ
hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của TTD.
- Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc uỷ quyền cho NH khác trả tiền ngay theo lệnh
của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ
chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của TTD.
Số tiền tối thiểu của TTD là 10 triệu VND và thời hạn hiệu lực là 3 tháng kể
từ ngày NH bên mua chấp nhận mở TTD.
Việc mở, phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh
toán và quyền, nghĩa vụ… của các bên liên quan thanh toán TTD do các bên tham
gia thanh toán thoả thuận áp dụng và theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam.
1.2.4.2. Phạm vi áp dụng thanh toán TTD:
• TTD được sử dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ theo hợp đồng
kinh tế đã ký kết giữa người mua và người bán mở tài khoản tại hai NH
khác địa bàn nhưng trong cùng một hệ thống.
• Trong trường hợp thanh toán khác hệ thống thì trên địa bàn của NH phục
vụ người bán phải có NH cùng hệ thống với NH mở TTD và giữa hai NH
này có tham gia TTBT với nhau.
TTD là cơ sở pháp lý để thực hiện mua bán hàng hoá và thực hiện thanh toán
nên trê mỗi TTD phải có đầy đủ các yếu tố đảm bảo giao hàng thuận lợi, nhanh
chóng và thanh toán chính xác và đầy đủ.
Qua trình bày ở trên ta thấy TTD là hình thức thanh toán được áp dụng khi
bên mua và bên bán không tín nhiệm nhau hoặc không biết nhiều về khả năng tài
chính của nhau. Chỉ khi nhận được giấy báo mở TTD bên bán mới giao hàng và chỉ
khi bên bán xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung của TTD thì mới nhận
được tiền. TTD thường được áp dụng trong thanh toán xuất nhập khẩu còn trong
thanh toán nội địa ít được sử dụng vì còn nhiều hình thức thanh toán ưu việt hơn.
1.2.4.3. Ưu, nhược điểm của TTD:
Ưu điểm:

TTD đảm bảo quyền lợi cho cả bên mua và bên bán. Người bán được đảm bảo
chắc chắn nhận được tiền sau khi đã giao hàng hoá hoặc dịch vụ cho người mua.
Nhược điểm:
• Thủ tục thanh toán còn rườm rà, phức tạp, luân chuyển chứng từ qua
nhiều khâu.
• Bên mua bị ứ đọng vốn do phải ký quỹ tiền để mở TTD mà không được
hưởng lãi.
1.2.5. Hình thức thanh toán bằng thẻ ngân hàng.
1.2.5.1. Khái niệm:
Thẻ NH là phương tiện thanh toán do NH phát hành để cung cấp cho người
sử dụng dịch vụ thanh toán.
Thẻ NH là phương tiện thanh toán được áp dụng rộng rãi cho nhiều đối
tượng, đặc biệt là các cá nhân có tài khoản thanh toán tại NH. Thẻ được dùng để
lĩnh tiền mặt tại máy rút tiền tự động (ATM) và thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ.
1.2.5.2. Phân loại thẻ NH:
Có rất nhiều loại thẻ khác nhau, nhưng nếu xét theo nguồn vốn thanh toán thì
có ba loại thẻ được sử dụng tại Việt Nam. Đó là thẻ ghi Nợ (loại A), thẻ ký quỹ
(loại B), thẻ tín dụng (chủ thẻ được NH cho vay - loại C). Việc sử dụng loại thẻ nào
phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa NH phát hành thẻ và người sử dụng thẻ (chủ thẻ).
Thẻ ghi nợ (loại A): Là loại thẻ mà khi sử dụng loại thẻ này khách hàng
không phải ký quỹ mà được sử dụng hạn mức tối đa do NH quy định.
Thẻ loại A áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ thanh toán thường
xuyên có tín nhiệm (có tài khoản) tại NH.
Thẻ ký quỹ thanh toán (loại B): Là loại thẻ mà khi sử dụng khách hàng phải
lưu ký tiền vào một tài khoản riêng (tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ) tại NH và
được sử dụng bằng số tiền đã ký quỹ. Loại thẻ này được áp dụng rộng rãi.
Thẻ tín dụng (loại C): Là loại thẻ do NH phát hành do khách hàng được vay
vốn NH để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng cho vay của NH. Số
tiền cho vay là hạn mức của thẻ nên chủ thẻ chỉ được sử dụng tiền trong phạm vi
hạn mức của thẻ.

Đối với các loại thẻ trên sau khi kiểm soát chứng từ, bộ phận nghiệpvụ thanh
toán thẻ sẽ làm các thủ tục để cấp thẻ cho chủ thẻ (nhập các thông tin vào thẻ như
tên chủ thẻ, địa chỉ, số CMTND, mã của chủ thẻ, hạn mức của thẻ, số kiểm tra
(PIN) của NH phát hành thẻ).
1.2.5.3. Các chủ thể tham gia vào quá trình thanh toán thẻ.
• NH phát hành thẻ (có thể kiêm NH thanh toán thẻ): Là Ngân hàng bán
thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử
dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể ủy nhiệm
cho một số ngân hàng phát hành và quản lý thẻ.
• NH đại lý thanh toán thẻ: Là các chi nhánh ngân hàng do ngân hàng phát
hành thẻ quy định. Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh
toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai
thanh toán.
• Chủ sở hữu thẻ (người dùng thẻ thanh toán): Là người trực tiếp mua thẻ
tại ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hóa, dịch vụ.
• Cơ sở tiếp nhận thẻ (người bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ, nếu lĩnh
tiền mặt là các máy rút tiền tự động).
Do thẻ thanh toán gắn liền với kỹ thuật điện tử tin học nên ở những NH đã
thực hiện kế toán tự động thì toàn bộ quy trình phát hành thẻ, thanh toán thẻ được
tiến hành tự động trên máy vi tính. Ở những NH chưa thực hiện kế toán tự động thì
việc xử lý và hạch toán thẻ được kết hợp giữa máy và thủ công.
1.2.5.4. Ưu, nhược điểm của thẻ NH:
Ưu điểm:
• Thuận tiện cho khách hàng, chứng từ sử dụng ít, một thẻ dùng cho nhiều
lần thanh toán nên tiết kiệm được chi phí.
• Bên bán kiểm soát được việc chi trả của bên mua.
Nhược điểm:
• Khi sử dụng thẻ khách hàng chỉ được sử dụng trong một giới hạn, mức
tối đa cho phép
• Đòi hỏi phải có cơ sở vật chất đồng bộ và trình độ ứng dụng khoa học

phù hợp. Do đó, thẻ chỉ thanh toán ở một số nơi nhất định.
Người sử dụng thẻ khó kiểm soát được mức chi tiêu của mình.
1.3. Các kênh thanh toán giữa các ngân hàng.
Thanh toán giữa các NH là nghiệp vụ thanh toán qua lại giữa các NH nhằm tiếp
tục hoàn thành quá trình thanh toán tiền giữa các tổ chức, cá nhân với nhau mà họ không
cùng mở tài khoản tại một NH hoặc thanh toán vốn trong nội bộ các hệ thống NH.
Khi thực hiện nghiệp vụ thanh toán giữa các NH, các NH liên quan không
những phải tiếp tục hoàn thành quá trình việc thanh toán tiền cho khách hàng mà còn
phải tiến hành thanh toán vốn với nhau một cách sòng phẳng, chính xác, kịp thời.
1.3.1. Ý nghĩa của thanh toán vốn giữa các ngân hàng.
- Thể hiện chức năng tập trung thanh toán của NH đối với nền kinh tế quốc
dân và điều hoà vốn trong nội bộ NH.
- Thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các NH chính là thực hiện được
yêu cầu của công tác TTKDTM: Nhanh chóng, chính xác, an toàn tài sản, tăng
nhanh vòng quay của vốn.
- Giảm chi phí lưu thông do không phải vận chuyển tiền mặt từ nơi này đến
nơi khác; giảm chi phí kiểm đếm, giao nhận tiền; tạo điều kiện để các NH sử dụng
vốn tiết kiệm, có hiệu quả.
- Hỗ trợ cho việc điều hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của
NHNN.
Để làm tốt nghiệp vụ thanh toán giữa các NH, hệ thống NH cần phải cải tiến
thể lệ, chế độ TTKDTM cho phù hợp với yêu cầu của việc trao đổi thanh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ của toàn xã hội; tăng cường trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ thanh
toán nhanh chóng, chính xác, cải tiến việc điều hành và quản lý vốn trong NH.
Chính vì vậy mà làm cho hoạt động NH phát triển phong phú về trình độ và cơ sở
vật chất kỹ thuật.
1.3.2. Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng.
- Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng.
TTLCNNH là phương thức thanh toán vốn giữa các Chi nhánh NH trong
cùng một hệ thống NH.

Thực chất của TTLCNNH là việc chuyển tiền từ NH này đến NH kia để
phục vụ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của hai khách hàng (người mua và người
bán) khi cả hai khách hàng không cùng mở tài khoản ở một NH hoặc chuyển cấp
vốn, điều hoà vốn trong nội bộ một hệ thống NH.
Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin đã có những phát triển như vũ
bão và được áp dụng rộng rãi trong hoạt động NH, các NH Việt Nam đang chuyển
dần từ TTLCNNH truyền thống sang chuyển tiền điện tử, tiến tới xây dựng hệ
thống thanh toán hiện đại nhằm xử lý các khoản thanh toán chuyển tiền một cách
nhanh chóng, chính xác, an toàn và quản lý chặt chẽ vốn trong thanh toán.
- Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng.
TTBT giữa các NH là phương thức thanh toán vốn giữa các NH được thực
hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu, phải trả để thanh toán số chênh lệch (kết quả
bù trừ). TTBT phát sinh trên cơ sở các khoản tiền hàng hoá, dịch vụ của khách hàng
mở tài khoản ở các NH khác nhau hoặc thanh toán vốn của bản thân NH.
TTBT được áp dụng giữa các NH khác hệ thống với nhau (TTBT khác hệ
thống) hoặc có thể áp dụng giữa các đơn vị NH thuộc cùng một hệ thống NH
(TTBT cùng hệ thống).
Tuỳ thuộc vào phương pháp trao đổi chứng từ, chuyển số liệu mà có cơ chế
TTBT trên cơ sở chứng từ giấy là TTBT truyền thống và trên cơ sở chứng từ điện tử
là TTBT điện tử.
Hiện nay đang áp dụng phương thức giao nhận chứng từ giấy kèm đĩa mềm
kết hợp với truyền qua mạng.
- Thanh toán qua tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN được áp dụng trong thanh toán
qua lại giữa hai NH hoặc đơn vị NH khác hệ thống đều có tài khoản tiền gửi tại
NHNN (cùng hoặc khác Chi nhánh, Sở giao dịch NHNN). Các khoản thanh toán
qua tài khoản tiền gửi tại NHNN của các NH cũng đều phát sinh trên cơ sở các
khoản thanh toán của khách hàng và của nội bộ các NH như các khoản điều chuyển
vốn, các khoản vay trả giữa các NH với nhau.
Để các NH thực hiện thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN, trên cơ sở

chứng từ giấy, cần có các điều kiện sau:
• Các NH phải mở tài khoản tiền gửi tại Sở giao dịch hoặc Chi nhánh
NHNN và phải đăng ký mẫu chữ ký, chữ ký trong giao dịch thanh toán
với NHNN nơi mở tài khoản.
• Dấu và chữ ký trên chứng từ thanh toán và bảng kê chứng từ thanh toán
qua NHNN phải đúng với mẫu đã đăng ký với NHNN nơi mở tài khoản.
• Tài khoản tiền gửi tại NHNN của NH trả tiền (NH phát sinh nghiệp vụ
thanh toán) phải có đủ số dư để bảo đảm thanh toán kịp thời.
- Thanh toán theo phương thức ủy nhiệm thu hộ, ủy nhiệm chi hộ.
UNT hộ, chi hộ là một phương thức thanh toán giữa hai NH theo sự thoả
thuận và cam kết với nhau, NH này sẽ thực hiện thu hộ hoặc chi hộ cho NH kia trên
cơ sở các chứng từ thanh toán của các khách hàng có mở tài khoản tại NH kia.
Phạm vi áp dụng thanh toán:
• Giữa hai đơn vị NH trong cùng hệ thống.
• Giữa hai NH hoặc đơn vị NH khác hệ thống.
Để tiến hành thanh toán theo phương thức UNT hộ, chi hộ hai NH phải ký
hợp đồng thống nhất với nhau về nguyên tắc, thủ tục và nội dung thanh toán. Các
nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được hạch toán vào tài khoản thu hộ, chi
hộ giữa các NH. Theo định kỳ thoả thuận, hai NH đối chiếu doanh số phát sinh và số
dư tài khoản thu, chi hộ để thanh toán cho nhau và tất toán số dư của tài khoản này.
- Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán.
Phạm vi áp dụng trong thanh toán:
• Giữa hai đơn vị NH trong cùng hệ thống.
• Giữa hai NH hoặc đơn vị NH khác hệ thống.
Để thanh toán theo phương thức này đòi hỏi NH hoặc đơn vị NH này phải
mở tài khoản tiền gửi tại NH kia hoặc ngược lại, theo đó hai NH phải đăng ký mẫu
dấu, chữ ký của người có thẩm quyền ra lệnh thanh toán.
- Thanh toán điện tử liên ngân hàng.
TTĐTLNH đã và đang được NHNN triển khai trên phạm vi toàn quốc theo
hai phân hệ là Hệ thống TTĐTLNH và TTBT điện tử liên NH.

• Hệ thống TTĐTLNH: là hệ thống thanh toán tổng thể, bao gồm hệ thống
bù trừ liên NH, hệ thống xử lý tài khoản tiền gửi thanh toán và công giao
diện với hệ thống chuyển tiền điện tử của NHNN.
• TTBT điện tử liên NH: Là hệ thống thanh toán ròng, xử lý các khoản
thanh toán chuyển tiền liên NH giá trị thấp (dưới 500 triệu đồng).
Hiện nay, TTĐTLNH đã thay thế ba phương thức thanh toán vốn giữa các
NH, đó là phương thức: Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN; Thanh toán
theo phương thức UNT hộ, UNC hộ; Mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán.
Vì thanh toán giữa các Chi nhánh trong cùng hệ thống thì sẽ thực hiện với
TTLCNNH, thanh toán khác hệ thống nhưng cùng địa bàn thì có hệ thống TTBT,
còn đối với các giao dịch thanh toán khác địa bàn, khác hệ thống thì sẽ sử dụng
TTĐTLNH. Do đó lúc này chỉ còn ba phương thức thanh toán vốn giữa các NH là
TTLCNNH, TTBT, TTĐTLNH.
1.4. Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng thương
mại.
1.4.1.Quan niệm về phát triển TTKDTM
Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là mở rộng và phát triển các dịch
vụ thanh toán qua các kênh thanh toán điện tử nhằm thay thế hoạt động thanh toán
bằng tiền mặt, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông.
Phát triển là một quá trình lâu dài. Sự phát triển TTKDTM làm gia tăng thu
nhập cho NHTM bằng việc thu phí từ hoạt động thanh toán này. Việc phát triển
TTKDTM là xu thế phát triển của thời đại, phát triển các hình thức TTKDTM sẽ
thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển TKDTM
1.4.2.1. Số lượng khách hàng ngày càng tăng, cơ cấu khách hàng ngày
càng đa dạng.
Số lượng khách hàng luôn luôn là một tiêu chí đánh giá sự phát triển các hoạt
động của ngân hàng nói chung và hoạt động TTKDTM nói riêng bởi khách hàng
chính là những người sử dụng và đánh giá các dịch vụ ngân hàng một cách chính
xác nhất. Số lượng khách hàng sử dụng các hình thức TTKHTM tăng điều đó có

nghĩa chất lượng thanh toán của ngân hàng tốt hơn, chuyển tiền nhanh chóng, thuận
tiện, các sản phẩm thẻ nhiều tiện ích hơn, thuận lợi cho khách hàng sử dụng
Cơ cấu khách hàng đa dạng, không chỉ có khách hàng doanh nghiệp sử dụng
nhiều các hình thức TTKDTM mà có cả khách hàng cá nhân, hộ gia đình, người
nước ngoài, khách hàng trẻ tuổi, khách hàng lớn tuổi Điều đó có nghĩa là hoạt
động TTKDTM của ngân hàng đó đang phát triển.

×