Tải bản đầy đủ (.doc) (151 trang)

Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.23 KB, 151 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Bước vào thế kỷ 21, xu hướng chung của nền kinh tế thế giới là sự
quốc tế hoá và hợp tác hoá. Các quốc gia trên thế giới ngày càng xích lại
gần nhau hơn về kinh tế chính trị...nền kinh tế càng được quốc tế hoá bao
nhiêu thì sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các công ty càng trở nên mạnh
mẽ. Tất cả các quốc gia đều phải vào cuộc cạnh tranh khốc liệt để tránh bị
đẩy lùi lại phía sau. Thị trường tự do cạnh tranh đã thúc đẩy sự phát triển
về mọi mặt của các doanh nghiệp, chính vì vậy mọi hoạt động kinh doanh
của bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải gắn với một thị trường nhất định.
Doanh nghiệp phải căn cứ vào thị trường để quyết định những vấn đề then
chốt và cơ bản là: Sản xuất ra cái gì ? Sản xuất cho ai ? Và sản xuất như
thế nào với chi phí bao nhiêu ?
Các doanh nghiệp phải căn cứ vào giá cả và lượng các yếu tố sản xuất
kinh doanh để làm sao cho có một sự kết hợp tối ưu giữa các yếu tố đó
nhằm tạo ra những sản phẩm mà doanh nghiệp mong muốn . Mặt khác các
doanh nghiệp cũng thường xuyên nắm gíá cả thị trường, chấp nhận những
sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp với tình trạng chi phí như thế nào để
đạt được mức lợi nhuận tối đa. Thị trường chỉ thừa nhận mức hao phí lao
động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hàng
hoá và quy luật giá trị đã đặt tất cả các doanh nghiệp với các mức chi phí
cá biệt khác nhau lên một mặt bằng trao đổi (thông qua giá cả) trên thị
trường.
Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, để có được lợi nhuận cao hay
bình thường cũng phải phấn đấu hạ giá thành sản phẩm . Muốn vậy, doanh
nghiệp phải xác định mức chi phí hợp lý để tạo ra sản phẩm từ đó mới có
thể dẫn tới việc tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Đây là biện
pháp quan trọng để đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh, vừa bảo toàn vốn,
1
vừa có lãi và tăng tích luỹ. Bên cạnh đó, hạ giá thành sản phẩm giúp doanh
nghiệp hạ gía bán và do đó đầy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm, giúp
doanh nghiệp tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt


lượng vốn lưu động sử dụng vào sản xuất. Như vậy, sẽ tạo được khả năng
mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy thực hiện tốt vấn đề tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là cơ sở cho việc tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm đúng, đủ, chính xác và kịp thời sẽ giúp cho công tác quản lý chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm, kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí
trong sản xuất, cung cấp thông tin cho quản lý. Trên ý nghĩa đó, tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm luôn là một vấn đề cấp bách
đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi các nhà kinh tế không ngừng bổ sung
hoàn thiện lý luận làm cơ sở cho thực tiễn.
Là một đơn vị sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp Gỗ Hà nội đã sử dụng
kế toán như một công cụ đắc lực để điều hành quản lý các hoạt động kinh
tế và kiểm tra quá trình sử dụng tài sản, sử dụng vốn nhằm bảo đảm quyền
chủ động trong sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm. Trong thời gian thực tập tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội,
được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn thực tập và các
cán bộ Phòng Kế toán, em xin nghiên cứu đề tài :
“Hoàn thiện hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm với việc tăng cường quản trị Doanh nghiệp tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội”
Phương pháp nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phân tích về mặt lý
luận và tham khảo ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các cô chú ở đơn vị
thực tập và có ý kiến nhằm hoàn thiện hợp lý kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm .
Với những phương pháp nghiên cứu, ngoài Phần mở đầu và Phần kết
luận, nội dung của Chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm có 3 phần chính sau:
2
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong các Doanh nghiệp
Phần II : Thực trạng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá

thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ Hà nội
Phần III : Nhận xét, đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán
tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí nghiệp Gỗ
Hà nội trong nền kinh tế thị trường.
3
Phần I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HẠCH TOÁN CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP
I- BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
1. Chi phí sản xuất :
a) Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất :
Trong bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào, quá trình sản xuất
đều gắn liền với sự vận động tiêu hao các yếu tố cơ bản. Để tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có đầy đủ các
yếu tố cơ bản, đó là : Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động .Sự
tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp
có khác nhau và nó hình thành các khoản chi tương ứng : Chi phí tiền
lương trả cho người lao động, chi phí khấu hao tư liệu lao động và chi phí
tiêu hao nguyên vật liệu .Đó cũng chính là 3 yếu tố chi phí cơ bản tạo nên
giá trị sản phẩm bao gồm 3 bộ phận : C, V, M. Trong đó:
• C : Là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá
trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ như :Khấu hao TSCĐ, chi phí nguyên vật
liệu, công cụ dụng cụ ... Bộ phận được gọi là hao phí lao động vật hoá .
• V : Là chi phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao
động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm, dịch vụ .Nó được là
hao phí lao động sống cần thiết .
• (V+M) : Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình
hoạt động tạo ra giá trị sản phẩm, dịch vụ .

Như vậy C và V chính là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản
xuất sản phẩm .Trong điều kiện tồn tại quan hệ hàng hoá - tiền tệ, chi phí
4
về lao động vật hoá và lao động sống doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành
sản xuất kinh doanh đều được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và được gọi
là chi phí sản xuất kinh doanh. Như vậy, tại các doanh nghiệp sản xuất,
theo chế độ kế toán Việt nam, chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ các hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà
doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm).
Chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp thực chất là sự vận động của các yếu tố sản xuất bỏ ra và biến đổi
chúng thành sản phẩm cuối cùng theo mục đích của doanh nghiệp .Trong
các loại hình doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau và thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau : DNNN, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh
nghiệp liên doanh... thì về bản chất chi phí sản xuất đều không có gì khác
nhau .
ở Doanh nghiệp cũng cần phải phân biệt giữa chi tiêu (expenditure)
và chi phí (expense). Phải chăng chi phí và chi tiêu của Doanh nghiệp lại
giống nhau ? không hoàn toàn như vậy. Có trường hợp chi phí nhưng
không phải là chi tiêu hoặc có trường hợp chi tiêu nhưng không phải là chi
phí .Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài
sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ
chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Còn chi tiêu là sự
giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của Doanh nghiệp, bất
kể nó được dùng vào mục đích gì.Việc phân biệt giữa chi phí và chi tiêu rất
có ý nghĩa trong việc tìm hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và
phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Để có thể quản lý tốt chi phí sản xuất, trước hết phải hiểu rõ về các

loại phí hay nói cách khác là nắm vững các cách phân loại chi phí.
b) Phân loại chi phí sản xuất :
5
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng
loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc tính nhất định.
Trong công tác quản lý cũng như việc tật hợp chi phí sản xuất, kế
toán phải thực hiện đối với từng loại chi phí khác nhau. Hạch toán chi phí
theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin hạch toán phục vụ đắc
lực cho công tác kế hoạch hoá và quản lý nói chung, đồng thời có cơ sở tin
cậy cho việc phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế của chi phí .
Việc phân loại chi phí có tác dụng kiểm tra và phân tích quá trình
phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản phẩm nhằm động viên mọi
khả năng tiềm tàng trong việc hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả
sản xuất của xí nghiệp .Tuỳ theo việc xem xét chi phí ở góc độ khác nhau
và mục đích quản lý chi phí mà chúng ta lựa chọn tiêu thức phân loại chi
phí cho phù hợp .Chi phí sản xuất được phân loại theo một số tiêu thức
sau :
• Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh :
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn
bộ chi phí được chia làm 3 loại :
+ Chi phí sản xuất kinh doanh : Bao gồm những chi phí liên quan đến
hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh .
+ Chi phí hoạt động tài chính : Gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động về vốn và đầu tư tài chính .
+ Chi phí bất thường : Gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do
chủ quan hay khách quan mang lại .
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác,
phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và xác định kết quả của
từng hoạt động kinh đúng đắn cũng như lập Báo cáo tài chính nhanh chóng,
kịp thời.

6
• Phân loại theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế):
Theo cách phân loại này, mỗi yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi
phí có cùng một nội dung kinh tế, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở
lĩnh vực sản xuất nào, ở đâu và mục đích hoặc tác dụng của chi phí như thế
nào .Theo quy định hiện hành ở Việt nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7
yếu tố :
+ Yếu tố nguyên liệu, vật liệu : Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ...sử dụng vào
sản xuất - kinh doanh (loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho
và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh
doanh trong kỳ (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
+ Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương : Phản ánh tổng số
tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ CNVC.
+ Yếu tố BHX, BHYT, KPCĐ : Phản ánh Phần BHX, BHY, KPCĐ
trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả
CNVC.
+ Yếu tố khấu hao TSCĐ : Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải
trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD trong kỳ.
+ Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài : Phản ánh toàn bộ chi phí dịch
vụ mua ngoài dùng vào SXKD .
+ Yếu tố chi phí khác bằng tiền : Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng
tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ .
Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế có tác dụng cho biết kết cấu,
tỷ lệ trong từng loại chi phí mà Doanh nghiệp đã chi ra trong hoạt động sản
xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh Báo cáo tài chính (Phần chi phí sản
7
xuất kinh doanh theo yếu tố) phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị

Doanh nghiệp để phân tích tình hình dự toán chi phí, lập dự toán chi phí
sản xuất kinh doanh cho kỳ sau.
• Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm :
Việc phân loại chi phí theo cách này cho phép ta thấy được ảnh
hưởng của từng loại khoản mục đến kết cấu của giá thành sản phẩm, đồng
thời nó cũng cung cấp những thông tin cần thiết để xác định hướng và biện
pháp hạ giá thành sản phẩm .Các khoản mục chi phí được quy định thống
nhất trong từng ngành kinh tế .
Theo quy định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng)
ở Việt nam bao gồm 3 khoản mục chi phí :
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Phản ánh toàn bộ chi phí về
nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu ... tham gia trực tiếp vào việc chế
tạo, sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ .
+ Chi phí Nhân công trực tiếp : Gồm tiền lương phụ cấp lương và các
khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ với tiền lương
phát sinh .
+ Chi phí sản xuất chung : Là những chi phí phát sinh trong phạm vi
phân xưởng sản xuất (trừ chi phí vật liệu và nhân công trực tiếp).
Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ (giá thành đầy
đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí Bán hàng và chi
phí quản lý Doanh nghiệp .
Việc phân loại chi phí sản xuất theo cách này có ý nghĩa hết sức quan
trọng .Nó giúp cho Doanh nghiệp quản lý được chi phí theo từng loại sản
phẩm, từng khu vực sản xuất, từng loại chi phí sản xuất .Từ đó giúp cho
việc phân tích hoạt động kinh doanh trong Doanh nghiệp có hiệu quả .
Cách phân loại này phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ có tính
8
phổ biến của kế toán ở một số nước phát triển trên thế giới .Bên cạnh tác
dụng tạo điều kiện đễ dàng thuận lợi cho quản lý chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm, phân loại chi phí sản xuất theo cách này sẽ góp phần

quốc tế hoá hệ thống kế toán của nước ta tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình hợp tác với các nước trên thế giới đẩy nhanh tiến trình đổi mới của
đất nước .
• Phân loại theo chức năng trong sản xuất kinh doanh :
Dựa vào chức năng của các hoạt động trong quá trình kinh doanh và
chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất
kinh doanh làm 3 loại :
+ Chi phí sản xuất : Gồm những chi phí phát sinh liên quan đến việc
chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng .
+ Chi phí tiêu thụ : Gồm tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến
việc tiêu thụ sản phẩm , hàng hoá, lao vụ...
+ Chi phí Quản lý : Gồm những chi phí quản lý kinh doanh, hành
chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của Doanh
nghiệp .
Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành sản xuất, xác định
trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như
căn cứ để kiểm tra, kiểm soát và quản lý chi phí .
• Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí :
Toàn bộ chi phí kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi
phí thời kỳ .
+ Chi phí sản phẩm : Là những chi phí gắn liền với các sản phẩm
được sản xuất ra hoặc được mua .Chi phí sản phẩm chỉ thu hồi khi sản
phẩm được tiêu thụ .Khi sản phẩm chưa tiêu thụ được thì những chi phí
này nằm trong các đơn vị sản phẩm tồn kho .Chi phí sản phẩm gồm : chi
9
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất
chung.
+ Chi phí thời kỳ : là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch
toán, vì thế chi phí thời kỳ có ảnh hưởng đến lợi nhuận của kỳ chúng phát
sinh .Chi phí thời kỳ không phải là những khoản chi phí tạo thành thực thể

của sản phẩm hay nằm trong các yếu tố cấu thành giá vốn của hàng mua
vào mà là những khoản chi phí hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất
sản phẩm hoặc là hàng hoá mua vào. Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán
hàng và chi phí quản lý Doanh nghiệp.
• Phân loại theo quan hệ giữa chi phí với khối lượng công việc,
sản phẩm hoàn thành:
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm
căn cứ để ra quyết định kinh doanh thì chi phí lại được chia thành : Biến
phí, định phí và chi phí hỗn hợp .
+ Biến phí : Là những chi phí thay đổi về tổng số, và tỷ lệ so với khối
lượng công việc hoàn thành .Biến phí có 3 đặc điểm :
-Biến phí đơn vị sản phẩm ổn định, không thay đổi
-Tổng biến phí thay đổi khi sản lượng thay đổi
-Biến phí bằng 0 khi không có hoạt động
Biến phí bao gồm các khoản chi phí sau đây :
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
-chi phí nhân công trực tiếp
-Một bộ phận chi phí sản xuất chung : Nguyên vật liệu phụ, lao động
gián tiếp, động lực lao động công cụ nhỏ, chi phí về nguyên liệu .
+ Định phí : Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng
công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí
thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh... Tuy nhiên nếu trong kỳ có sự
10
thay đổi về khối lượng sản phẩm sản xuất thì chi phí cố định trên một đơn
vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với sự biến động của sản
lượng .
+ Chi phí hỗn hợp : Bao gồm cả yếu tố biến phí lẫn định phí .ở mức
độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí, quá
mức đó nó lại thể hiện đặc tính của biến phí .
Chi phí hỗn hợp bao gồm những khoản chi phí như : Chi phí điện

thoại,chi phí sử dụng điện nước, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị, chi
phí nguyên vật liệu gián tiếp .Chỉ có chi phí sản xuất chung mới có đặc
điểm của chi phí hỗn hợp .
Việc phân loại chi phí theo cách này có tác dụng to lớn đối với quản
trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định
quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh .
• Phân loại theo quan hệ với quá trình sản xuất :
+ Chi phí trực tiếp : Là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ
trực tiếp tới quá trình sản xuất và có thể chuyển trực tiếp cho sản phẩm
hoặc đối tượng chịu chi phí .
+ Chi phí gián tiếp : Là những chi phí chung, không phân định được
cho từng đối tượng nên cần phải phân bổ.
Mỗi cách phân loại chi phí đều có ý nghĩa riêng đồng thời có mối
quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau và đều nhằm tới một mục
đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và tính đúng giá thành sản
phẩm .Các cách phân loại chi phí khác nhau cho phép ta hiểu cặn kẽ hơn
nội dung và tính chất của chi phí , vị trí mỗi loại chi phí trong quá trình sản
xuất .Từ đó đi đến mục tiêu nghiên cứu, xây dựng hệ thống định mức các
khoản mục giá thành cho từng loại hoạt động sản xuất .
Bên cạnh các cách phân loại trên, trong quản lý kinh tế cón sử dụng
một số loại thuật ngữ khác nhau như : chi phí cơ hội, chi phí khác biệt, chi
11
phí tới hạn ...
Trong sản xuất chi phí chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí đi .Để đánh
giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế thì chi phí chi ra cũng
phải xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ
bản của quá trình sản xuất đó là kết quả sản xuất thu được. Quan hệ so
sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu ''Giá thành sản phẩm ''.
2. Giá thành sản phẩm :
a) Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm:

Giá thành sản phẩm cũng là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các
khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối
lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt : Mặt
hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát
sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước
có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong
kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản
phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ
ra bất kể ở kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm
đã hoàn thành trong kỳ.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất
hàng hoá, giá thành là lượng hao phí kết tinh trong sản phẩm.giá thành sản
phẩm lại là một chỉ tiêu tính toán không thể thiếu của quản lý theo nguyên
tắc hạch toán kinh tế, do vậy có thể nói giá thành sản phẩm vừa mang tính
khách quan, vừa mang tính chủ quan ở một phạm vi nhất định.
Dùng thuật ngữ ''chi phí sản xuất'' C.Mác đã chỉ rõ bản chất của giá
thành : "chi phí sản xuất của hàng hoá chỉ hoàn toàn do tư bản đã thực sự
chi phí vào sản xuất hàng hoá cấu thành mà thôi ''. Bản chất của chi phí sản
xuất và của giá thành sản phẩm là như thế, điều đó không chỉ đúng với sản
12
xuất tư bản chủ nghĩa mà còn đúng với mọi hình thức sản xuất khác. Bởi vì
như C.Mác viết :"chi phí sản xuất hoàn toàn không phải là một khoản mục
chỉ có trong kế toán tư bản mà thôi. Tính chất độc lập của yếu tố giá trị ấy
trong thực tiễn không ngừng biểu hiện ra quá trình sản xuất thực tế của
hàng hoá...".
Giá thành sản phẩm có quan hệ mật thiết với gía trị hàng hoá và là
một bộ phận cơ bản của giá trị hàng hoá.
Ta biết : Giá trị hàng hoá = C + V + M .
ở góc độ Doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm dịch vụ thì doanh nghiệp

phải bỏ ra hai bộ phận chi phí là C và V. Đó là chi phí sản xuất mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để tạo ra sản phẩm dịch vụ, giá thành sản phẩm là chi phí
sản xuất tính cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp sản xuất đã hoàn
thành trong kỳ.
Như vậy, giá thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất
lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính
của xí nghiệp giá thành dược tíng toán chính xác cho từng loại sản phẩm
hoặc lao vụ cụ thể (đối tượng tính giá) và chỉ tính toán xác định đối với số
lượng sản phẩm hoặc lao vụ đã hoàn thành. Khi kết thúc một hay một số
giai đoạn công nghệ sản xuất (nửa thành phẩm).
b) Phân loại giá thành sản phẩm :
Để đáp ứng nhu cầu quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành
cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành cũng được xem xét
dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như
trên thực tế, ngoài các khái niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt, còn
có khái niệm giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ...
• Căn cứ vào thời gian và cơ sở số liệu để tính, giá thành sản
phẩm được chia thành:
+ Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch được xác định trước khi
13
bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức,
các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch
+ Giá thành định định mức : Giống như giá thành kế hoạch, giá thành
định mức cũng được xác định trược khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy
nhiên, khác với giá thành k ế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức
bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành
định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại
từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên
giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức
chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.

Giá thành định mức được xem là thước đo chính xác kết quả sử dụng
các loại tài sản, vật tư, tiền vồn trong doanh nghiệp, để đánh giá các giải
pháp mà doanh nghiệp đã áp dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh
nhằm nâng cao hiệu quả chi phí.
+ Giá thành thực tế: khác với hai loại trên, giá thành thực tế là chỉ
tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở
các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Giá thành
thực tế của sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn
đấu của Doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế-
tổ chức-kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác
định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập của Doanh nghiệp.
•Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia thành
giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ:
+ Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưỏng) là chỉ tiêu
phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo
sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất :chi
14
phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản
xuất chung tính cho những sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành. Giá
thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng ghi sổ cho sản phẩm đã hoàn
thành nhập kho bàn giao cho khách hàng. Giá thành sản xuất của sản phẩm
cũng là căn cứ để tính toán giá vốn hàng bán và lãi gộp ở các Doanh
nghiệp sản xuất .
+ Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ
các khoản chi phí phát sinh liên quan tới việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
(chi phí sản xuất, quản lý và bán hàng). Giá thành tiêu thụ của sản phẩm là
căn cứ để tính toán lãi trước thuế lợi tức của Doanh nghiệp. Giá thành tiêu
thụ còn được gọi là giá thành đầy đủ và được tính theo công thức:

Giá thành toàn bộ Giá thành sản xuất Chi phí Chi phí
Của Sản phẩm = của sản phẩm + QLDN + BH
Tuỳ theo từng loại hình Doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác
nhau, nếu quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ (bán hàng) diễn ra đồng
thời (như đối với các hoạt động dịch vụ, du lịch, vận tải...) thì giá thành sản
xuất thực tế và giá thành sản phẩm tiêu thụ được xác định đồng thời.
ý nghĩa của giá thành sản xuất thực tế được sử dụng khi nhập kho
thành phẩm còn giá thành sản phẩm tiêu thụ được sử dụng để tính toán xác
định kết quả bán hàng (kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp ).
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm :
Xét về mặt nội dung, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai
mặt của quá trình sản xuất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giống nhau
về chất vì đều là những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà
doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm.
Xét về mặt kế toán, thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm là hai bước công việc liên tiếp và gắn bó hữu cơ với nhau.
Tuy nhiên, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau về
15
lượng sự khác nhau đó thể hiện ở các điểm sau:
+ Chi phí sản xuất luôn gắn với từng thời kỳ đã phát sinh chi phí, còn
giá thành lại gắn với khối lượng sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành.
+ Chi phí sản xuất trong kỳ bao gồm cả những chi phí sản xuất đã trả
trước trong kỳ nhưng chưa phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ
trước nhưng kỳ này mới phát sinh thực tế, nhưng không bao gồm chi phí
trả trước của kỳ trước phân bổ cho kỳ này và những chi phí phải trả kỳ này
nhưng thực tế chưa phát sinh. Ngược lại, trong giá thành sản phẩm chỉ bao
gồm một phần chi phí thực tế đã phát sinh (chi phí trả trước) hoặc một
phần chi phí phí sẽ phát sinh ở kỳ sau nhưng đã ghi nhận là sản phẩm của
kỳ này (chi phí phải trả).
+ Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm

đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm đang còn dở dang cuối kỳ
và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản
xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan
đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể được
khái quát qua sơ đồ sau :
Chi phí sản xuất dở
dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
B D
A Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ C hoàn
thành
Chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ trên, ta thấy: AC = AB + BD - CD
Hay :
16
Tổng giá thành chi phí sản xuất dở chi phí sản xuất chi phí sản
xuất dở
Sản phẩm = dang đầu kỳ + phát sinh trong kỳ - dang
cuối kỳ
Nếu :
+ Chi phí sản xuất dở dang dầu kỳ = chi phí sản xuất dở dang cuối
kỳ thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong
kỳ.
+ Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ > chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
thì tổng giá thành sản phẩm lớn hơn tổng chi phí sản xuất phát sinh trong
kỳ.
+ Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ < chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
thì tổng giá thành sản phẩm nhỏ hơn tổng chi phí sản xuất phát sinh trong

kỳ.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ rất mật thiết
vì nội dung cơ bản của chúng đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí
Doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Chi phí sản xuất trong kỳ là
căn cứ là cơ sở để tính giá thành của sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn
thành . Sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp
đến giá thành sản phẩm là cao hay thấp. Tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm là hai công việc kế tiếp nhau, gắn bó hữu cơ với nhau.
Quản lý giá thành phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất .
4. Nhiệm vụ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sẩn
phẩm:
Trong công tác quản lý Doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn luôn được các nhà quản
lý Doanh nghiệp quan tâm, vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là
những chỉ tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất của Doanh
17
nghiệp. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm do bộ phận kế toán cung cấp, những người quản lý Doanh nghiệp
nắm được chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thực tế của từng loại hoạt
động, từng loại sản phẩm, lao vụ cũng như kết quả của toàn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, để phân tích đánh giá tình hình
thực hiện các định mức chi phí và dự toán chi phí,tình hình sử dụng tài sản,
vật tư, lao động, tiền vốn, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm
để có các quyết định quản lý thích hợp .
Tổ chức kế toán đúng, hợp lý và chính xác chi phí sản xuất và tính
đúng tính đủ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong quản lý chi phí,
giá thành ;tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của chi phí phát sinh ở
Doanh nghiệp nói chung, ở từng bộ phận đối tượng nói riêng góp phần
quản lý vật tư, tài sản, lao động, tiền vốn có hiệu quả. Mặt khác, tạo điều
kiện và có biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng

sản phẩm .Tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm còn là tiền đề để xác định
chính xác kết quả hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Để thực hiện
tốt như vậy thì kế toán có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
• Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức
sản xuất sản phẩm của Doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất và phương pháp tính giá thành thích hợp.
• Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo
đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp
thích hợp đã chọn, cung cấp kịp thời những số liệu thông tin tổng hợp về
các khoản mục chi phí và yếu tố chi phí quy định, xác định đúng đắn chi
phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ.
• Vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính toán
giá thành và giá thành đơn vị của các đối tượng tính giá thành theo đúng
các khoản mục quy định và đúng kỳ tính giá thành đã xác định.
18
• Định kỳ cung cấp Báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành
cho lãnh đạo Doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các
định mức chi phí và đặc điểm toán chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá
thành và kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, phát hiện kịp thời khả năng tiềm
tàng đề xuất biện pháp thích hợp để phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi
phí và hạ giá thành sản phẩm.
19
II - ĐỐI TƯỢNG TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ ĐỐI
TƯỢNG TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM, DỊCH VỤ :
1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất :
Đối tượng kế toán tâp hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn sản
xuất mà chi phí sản xuất cần phải tâp hợp theo đó nhằm đáp ứng yêu cầu
kiểm tra, phân tích chi phí và yêu cầu tính giá thành sản phẩm.
Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu
tiên cần thiết của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định

đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm
tình hoạt động sản xuất, đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm và đáp ứng
được yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của Doanh nghiệp mới giúp cho tổ
chức tốt nhất công việc kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Từ khâu ghi chép
ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản và sổ chi tiết đều phải theo
đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
Hoạt động sản xuất của các Doanh nghiệp có thể tiến hành ở nhiều
địa điểm,nhiều phân xưởng, tổ đội sản xuất khác nhau, ở từng địa điểm sản
xuất lại có thể sản xuất chế biến nhiều sản phẩm, nhiều công việc lao vụ
khác nhau, theo các quy trình công nghệ sản xuất khác nhau. Do đó chi phí
sản xuất của Doanh nghiệp cũng phát sinh ở nhiều địa điểm, nhiều bộ phận
liên quan đến nhiều sản phẩm, công việc.
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
trước hết phải căn cứ vào đặc điểm phát sinh cuả chi phí và công dụng của
chi phí trong sản xuất. Tùy theo cơ cấu tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình
độ quản lý sản xuất kinh doanh, yêu cầu hạch toán kinh doanh của Doanh
nghiệp mà đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có thể là toàn bộ quá
trình công nghệ sản xuất của Doanh nghiệp, hay từng giai đoạn, từng quy
trình công nghệ riêng biệt, từng phân xưởng, tổ đội sản xuất. Tuỳ theo quy
trình công nghệ sản xuất và đặc điểm của sản phẩm mà đối tượng kế toán
20
tập hợp chi phí sản xuất có thể là từng nhóm sản phẩm, nhóm cây trồng,
từng mặt hàng sản phẩm, từng công trình xây dựng, từng đơn đặt hàng,
từng loạt hàng hoặc từng bộ phận, cụm chi tiết hoặc chi tiết sản phẩm.
Thực chất của việc xác định đối tưọng tập hợp chi phí sản xuất là xác
định hoạt động hay phạm vi của chi phí phát sinh làm cơ sở cho việc tập
hợp chi phí sản xuất. Tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã được
quy định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi
phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp
thời và đúng đắn .

2. Đối tượng tính giá thành :
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do
Doanh nghiệp sản xuất ra, cần phải tính được tổng giá thành và giá thành
đơn vị. Khi tính giá thành sản phẩm dịch vụ trước hết phải xác định được
đối tượng tính giá thành .
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên cần thiết
trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế
toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của Doanh nghiệp, tính
chất sản xuất và cung cấp sử dụng của chúng để xác định đối tượng tính
giá thành cho thích hợp .
Về mặt tổ chức sản xuất ,nếu Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có
tính chất đơn chiếc như đóng tàu, sửa chữa ô tô... thì đối tượng tính giá
thành là từng sản phẩm dịch vụ hoàn thành.
Về mặt quy trình công nghệ sản xuất, nếu quy trình công nghệ sản
xuất giản đơn, thì đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn
thành ở cuối quy trình sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp
kiểu liên tục thì đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm ở giai đoạn
chế biến cuối cùng, cũng có thể là các loại nửa thành phẩm hoàn thành ở
từng giai đoạn sản xuất. Nếu quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu
21
song song (lắp ráp) thì đối tượng tính giá thành có thể là từng bộ phận,
từng chi tiết sản phẩm.
Khi xem xét các loại nửa thành phẩm tự chế, các bộ phận hoặc chi
tiết sản phẩm có là đối tượng tính giá thành hay không, còn cần phải cân
nhắc đến các mặt : Chu kỳ sản xuất sản phẩm dài hay ngắn, nửa thành
phẩm tự chế có phải là sản phẩm hàng hoá (có bán ra ngoài) hay không,
yêu cầu về trình dộ quản lý và hạch toán kinh doanh của Doanh nghiệp như
thế nào để xác định cho phù hợp.
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành
công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Xác định kỳ tính

giá thành cho từng đối tượng tính giá thành thích hợp, sẽ giúp cho tổ chức
công việc tính giá thành sản phẩm được khoa học, hợp lý, đảm bảo cung
cấp số liệu thông tin về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ kịp thời
trung thực phát huy được vai trò kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá
thành sản phẩm của kế toán.
Xác định đối tượng tính giá thành đúng và phù hợp với diều kiện đặc
điểm của Doanh nghiệp giúp cho kế toán tổ chức mở sổ kế toán, các bảng
tính giá và tính giá thành sản phẩm theo từng đối tượng cần quản lý và
kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm có hiệu quả đáp
ứng nhu cầu quản lý nội bộ Doanh nghiệp.
3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối
tượng tính giá thành:
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành về cơ
bản là khác nhau. Tuy nhiên chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau và
trong nhiều trường hợp có sự phù hợp nhau. Nó có sự giống nhau, chẳng
hạn về bản chất, chúng đều là những phạm vi giới hạn để tập hợp chi phí,
vì thế có sự trùng hợp nhau.
Sự khác nhau đó là : Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là
căn cứ để mở các tiểu khoản, các sổ chi tiết, tổ chức công tác ghi chép ban
22
đầu, tập hợp số liệu chi phí sản xuất chi tiết theo từng đối tượng (từng địa
điểm phát sinh, từng đối tượng chịu chi phí sản xuất ) giúp tăng cường
quản lý chi phí sản xuất và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong doanh
nghiệp . Xác định đối tượng tính giá thành lại là căn cứ để kế toán mở các
phiếu tính giá thành sản phẩm (bảng chi tiết giá thành sản phẩm ) tổ chức
công tác tính giá thành theo từng đối tưọng, phục vụ cho việc kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm, tính toán hiệu quả xác định
thu nhập, phát hiện khả năng tiềm tàng để có biện pháp phấn đấu không
ngừng hạ giá thành sản phẩm, phục vụ yêu cầu quản lý hạ giá thành .
Cụ thể, để phân biệt được đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối

tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là một, cần dựa vào các
cơ sở sau đây:
• Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất :
+ Với sản xuất giản đơn:
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn
bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại sản phẩm ) hoặc có thể là
nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều loại sản phẩm cùng tiến hành trong
một quá trình lao động)
- Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng.
+ Với sản xuất phức tạp :
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản
phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ
phận sản phẩm.
- Đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng
hay thành phẩm ở từng bước chế tạo.
• Loại hình sản xuất:
+ Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt :
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các đơn đặt hàng riêng biệt.
23
- Đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn đặt hàng .
+ Với sản xuất hàng loạt và sản xuất với khối lượng lớn, phụ thuộc
vào quy trình công nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp).
- Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là sản phẩm, nhóm sản
phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ.
- Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán
thành phẩm.
• Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh :
Dựa trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối
tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ
cao có thể chi tiết đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở

các góc độ khác nhau. Ngược lại, nếu trình độ thấp thì đối tượng đó có thể
bị hạn chế và thu hẹp lại .
Mặc dù có sự giống và khác như vậy nhưng đối tượng tính giá thành
và đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau xuất thân từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Mối quan hệ đó thể hiện ở việc sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp
được để xác định giá trị chuyển dịch của các yếu tố chi phí sản xuất và các
đối tượng tính giá thành. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất và đối tượng tính giá thành gồm ba dạng sau:
+ Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với một đối
tượng tính giá thành
+ Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với nhiều đối
tượng tính giá thành
+ Nhiều đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với một đối
tượng tính giá thành
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng hạch
toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa to
24
lớn, mang tính định hướng cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm. Đồng thời thể hiện được mục đích và phạm vi tiến
hành hai giai đoạn của công tác kế toán nêu trên.
25

×