Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.86 KB, 51 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết, một ngân hàng hàng ngày phải đối mặt với rất
nhiều rủi ro khác nhau. Khi lãi suất thay đổi, thu nhập từ lãi, chi phí trả lãi
cũng như giá trị của các tài sản ngân hàng( đặc biệt là danh mục đầu tư) đều
bị ảnh hưởng. Tình trạng khách hàng vay vốn không thanh toán được nợ
buộc ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tín dụng cũng như rủi ro về khả năng
thanh toán của ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng phải đáp ứng những yêu
cầu ngày càng khắt khe hơn từ phía các nhà lập pháp về vấn đề tăng cường
vốn chủ sở hữu- nguồn vốn có chi phí cao nhất- nhằm bảo vệ ngân hàng trước
những rủi ro trong quá trình hoạt động. Do vậy, các ngân hàng đều phải cố
gắng để tìm ra những giải pháp để tăng vốn chủ sở hữu và hạn chế rủi ro.
Các ngân hàng đã sử dụng những công cụ mới như : trái phiếu tái cấu
trúc, chứng khoán hoá các khoản cho vay, chứng khoán kết hợp…Những
công cụ này không chỉ giúp ngân hàng hạn chế một cách hiệu quả rủi ro mà
còn tạo cho ngân hàng những nguồn thu nhập mới từ lệ phí, giúp ngân hàng
có thể phục vụ khách hàng tốt hơn, thậm chí cả trong giai đoạn khó khăn về
nguồn vốn. Trong đó kỹ thuật chứng khoán hoá được coi là một trong những
công cụ hiệu quả và hiện đang được sử dụng rộng rãi trong các NHTM ở rất
nhiều quốc gia trên thế giới.Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam, kỹ thuật này
vẫn chưa được sử dụng bởi rất nhiều lí do, trong khi thực tiễn lại đặt ra những
yêu cầu ngày càng cao về việc giảm rủi ro, tăng thu nhập đối với các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam.
Vì vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “ Ứng dụng kỹ thuật
chứng khoán hoá trong các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình. Do kiến thức của nhóm còn hạn chế, và đây
còn là một vấn đề rất mới, vì vậy chắc chắn đề tài sẽ có rất nhiều thiếu sót.
Chúng em xin cảm ơn thầy giáo Vương Trọng Nghĩa đã giúp đỡ chúng em rất
nhiều trong việc hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này. Cuối cùng,
chúng em mong muốn sẽ có những ý kiến góp ý của các thầy cô giáo và các
bạn để giúp cho đề tài được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm
ơn.!


Hà nội, ngày 05/04/2005
1
PHẦN I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN HOÁ
I.LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CKH
1. Khái niệm chứng khoán hoá:
a.Khái niệm chung về chứng khoán hoá:
CKH – một khái niệm được nhắc tới rất nhiều trong thời gian gần đây.
Vậy thế nào là CKH ? Trên thực tế, kỹ thuật này đã không còn xa lạ với các
thị trường tài chính phát triển cũng như một số thị trường mới nổi. CKH được
sử dụng như một công cụ hữu hiệu để liên kết các khu vực của thị trường tài
chính và tạo ra tính linh hoạt cho thị trường.
Thuật ngữ CKH được sử dụng để chỉ một tập hợp các công nghệ tài
chính, bao gồm những cơ cấu cho vay có bảo đảm từ đơn giản nhất cho đến
những cấu trúc phức tạp hơn rất nhiều trong quá trình thực hiện việc bán các
tài sản tài chính.
Hiểu một cách cơ bản nhất, CKH là việc tái cơ cấu một tập hợp những
khoản phải thu và đưa chúng về dạng thức có thể chuyển đổi được. Những
CK phát sinh từ nghiệp vụ này có thể là cổ phiếu hoặc trái phiếu, nhưng nhìn
chung chúng đều phải dựa trên một tập hợp các tài sản tài chính hoặc các
khoản phải thu. Trên thực tế, mục tiêu của CKH chính là nhằm tách biệt rủi ro
mất khả năng thanh khoản của người chủ sở hữu tài sản, các khoản phải thu
ban đầu và rủi ro của chính các tài sản hay các khoản phải thu đó. Uỷ ban
Chứng khoán ( UBCK) của Mỹ đã đưa ra một định nghĩa về CKH khá chặt
chẽ như sau: “ Chứng khoán hoá là việc tạo ra các chứng khoán dựa trên các
luồng tiền cố định hoặc mang tính chất tuần hoàn của một tập hợp tách biệt
các khoản phải thu hoặc các tài sản tài chính. Các chứng khoán này tuỳ theo
cấu trúc thời hạn của chúng sẽ được chuyển đổi thành tiền trong một khoản
thời gian xác định kèm theo những quyền hưởng lợi khác và quyền đối với
những tài sản được sử dụng nhằm đảm bảo việc trả nợ hoặc phân phối định kỳ
các khoản thu được cho người sở hữu chứng khoán.” Đây được coi là một

định nghĩa chính xác nhất về kỹ thuật tài chính này.
Trước tiên kỹ thuật CKH có nguồn gốc từ Mỹ vào cuối những năm 60
của thế kỷ 20, khi Chính Phủ Mỹ thành lập Hiệp hội thế chấp bất động sản
Quốc gia( Government National Mortagage Association GNMA), tổ chức này
có tên gọi tắt là “ Ginnie Mae”. Tổ chức này được thành lập nhằm hỗ trợ thị
trường cho vay thế chấp bất động sản của Mỹ và dẫn đến sản phẩm đầu tiên
của kỹ thuật CKH. Đó là các khoản chứng khoán qua trung gian chuyển đổi
dựa trên các khoản vay thế chấp bất động sản hay còn gọi là các chứng khoán
Ginnie Mae. Hiệp hội này được Chính phủ Mỹ thành lập năm 1968 dưới dạng
một công ty trực thuộc Vụ phát triển nhà ở và đô thị. GNMA thực hiện cam
kết mua các khoản nợ có thế chấp bất động sản từ các nhà cho vay riêng lẻ
với giá ưu đãi để trợ giúp cho cho sự phát triển của khu vực nhà ở tại nước
Mỹ. Song song với việc mua các khoản nợ, GNMA thực hiện việc phát hành
2
các chứng khoán được bảo đảm bằng một tập hợp các khoản vay có thế chấp
bất động sản nêu trên theo sự chấp thuận của Vụ phát triển nhà ở và đô thị.
Quy trình CKH các khoản nợ thế chấp này ở Mỹ thực hiện theo các
bước sau đây:
1. Ngân hàng cho công chúng trong cộng đồng vay tiền mua
nhà cửa, đất đai. Khoản vay được thế chấp bằng chính bất động sản mà
khách hàng vay tiền để mua nhà.
2. Ngân hàng tập hợp lại một nhóm những khoản vay thế
chấp đủ tiêu chuẩn . Những khoản vay thế chấp trong cùng một nhóm
phải là những khoản vay để mua bất động sản sử dụng cho một gia đình
của cư dân trong cộng đồng.
3. Mọi khoản vay thế chấp trong một nhóm phải được một
trong những cơ quan liên bang sau đây bảo đảm: Cơ quan quản lý nhà
đất liên bang (Federal Housing Administration); Cơ quan tài trợ nhà đất
nông nghiệp (Famers Home Authority); Hội cựu chiến binh (Veterans
Administration).

4. Tổng số các khoản vay thế chấp trong một nhóm ít nhất
phải là một triệu USD.
5. Mọi khoản vay thế chấp trong cùng một nhóm phải có
cùng thời hạn.
6. Mọi khoản vay thế chấp trong cùng một nhóm phải có
cùng lãi suất (thường là lãi suất do Cơ quan quản lý nhà đất liên bang-
FHA và Hội cựu chiến binh- VA áp dụng).
7. Sau khi tập hợp những khoản vay thế chấp có đủ tiêu
chuẩn như trên thành một nhóm, các ngân hàng cho vay thế chấp sẽ đệ
đơn trình lên đề nghị GNMA để GNMA mua lại các khoản vay này với
lãi suất ưu đãi.
8. GNMA phát hành chứng khoán coupon với lãi suất thấp
hơn lãi suất của những khoản cho vay thế chấp trong nhóm liên quan
đến 50 điểm cơ sở. Nếu như lãi suất của những khoản vay này là 13%
thì lãi suất chứng khoán GNMA sẽ là 12.50%.
9. Các chứng khoán GNMA sẽ được bán ra cho công chúng
đầu tư: Như vậy, những người sở hữu chứng khoán GNMA được
hưởng một phần lãi suất của tập hợp những khoản vay thế chấp nói
trên. Những chứng khoán do GNMA phát hành được đảm bảo bằng uy
tín của Chính phủ Mỹ. Các đơn vị giá trị của chứng khoán này thường
là 25.000,100.000,500.000 và 1 triệu USD. Chúng được coi là những
công cụ đầu tư hợp pháp với những tổ chức tín dụng đặc quyền của liên
bang.
Thông qua một chương trình (Chuyển đổi trung gian Pass - through), các
khoản thanh toán lãi và gốc của những khoản vay có thế chấp được tập hợp
lại thành nhóm nói trên được chuyển cho những người sở hữu chứng khoán
GNMA sau khi đã trừ đi phí dịch vụ. Những chứng chỉ mang tính chất chuyển
đổi trung gian này thường có thời hạn tương ứng với thời hạn của những
3
khoản cho vay thế chấp, tức là từ 12 đến 40 năm. Vì việc trả nợ đối với những

khoản vay thế chấp này trong thực tế được hoàn tất sớm hơn rất nhiều, nên
thời hạn của những chứng khoán GNMA ngắn hơn dự kiến đáng kể.
Sản phẩm của kỹ thuật CKH ngày càng phát triển một cách nhanh chóng,
trở thành một kỹ thuật tài chính tài chính toàn cầu với các giao dịch được thực
hiện ở Bắc Mỹ cũng như ở Nam Mỹ, châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Úc.
Cho đến nay, thị trường Mỹ vẫn được coi là thị trường hiệu quả nhất đối với
nghiệp vụ CKH, bởi vì thị trường này vẫn thường xuyên cung cấp những tập
hợp những tài sản lớn mang tính đồng nhất dưới sự quản lý của cùng một cơ
quan pháp quyền.
Các nghiệp vụ CKH ngày nay càng ngày càng được ứng dụng nhiều hơn
trong tất cả các ngành đối với nhiều loại hình chủ thể kinh tế khác nhau. Bắt
đầu được thực hiện bằng việc CKH các khoản cho vay thế chấp bất động sản
của ngân hàng tại Mỹ, ngày nay CKH còn được rất nhiều các doanh nghiệp sử
dụng như là một biện pháp hữu hiệu để thu hút vốn. Nếu như trước khi có kỹ
thuật này, các doanh nghiệp muốn huy động được vốn đầu tư thường từ hai
nguồn là nguồn vốn cấp hay vốn góp ban đầu của các doanh nghiệp khi thành
lập và nguồn vay nợ từ hệ thống ngân hàng trong nước, trong đó nợ ngân
hàng là nguồn tài trợ lớn nhất. Sự phụ thuộc quá mức của doanh nghiệp vào
nguồn nợ ngân hàng đã dẫn đến sự mất cân bằng trong cơ cấu tài chính của cả
hai khu vực quốc doanh và ngân hàng. Tình trạng tăng trưởng tín dụng bất
hợp lý dẫn đến tình trạng nợ khó đòi quá lớn và tỷ lệ an toàn vốn không đủ
yêu cầu, dẫn đến việc ngân hàng thắt chặt hơn việc cho vay và do vậy khả
năng tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp lại càng trở
nên khó khăn hơn. Từ khi CKH ra đời , các doanh nghiệp có thêm một kênh
huy động vốn thay thế, đó chính là phát triển thị trường chứng khoán, trong số
đó CKH là một phương thức phát hành chứng khoán với những đặc điểm ưu
việt nhờ những lợi ích mới mẻ mà nó mang lại cho nền kinh tế.
CKH trong các doanh nghiệp được thực hiện bằng cách: một tập hợp tài
sản tài chính (hiện có hoặc trong tương lai) của doanh nghiệp (gọi là “ bên
khởi tạo tài sản”- originator) được bán cho một “ doanh nghiệp chuyên dụng”

(special purpose vehicle, SPV) mà tiền mua tài sản được doanh nghiệp
chuyên dụng này huy động thông qua phát hành chứng khoán được đảm bảo
bằng các khoản thu từ tập hợp tài sản tài chính đó.
Như vậy, một giao dịch CKH trong các doanh nghiệp thường bao gồm
một số bước sau:
1. Doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn tập hợp và phân loại tài sản tài
chính của mình để chọn ra một tập hợp tài sản đủ tiêu chuẩn để chứng khoán
hoá (doanh nghiệp này được gọi là bên khởi tạo).
Tài sản tài chính được CKH có thể là các khoản phải thu (trade receivables)
đã thể hiện trên bảng cân đối kế toán của bên khởi tạo tài sản hoặc các khoản
thu thể hiện bằng dòng tiền trong tương lai (future cashflows) mà bên khởi tạo
tài sản dự kiến thu được. Nhìn chung, các tài sản tài chính có tính đồng nhất
4
và có cơ sở dữ liệu đáng tin cậy để có thể dự báo được dòng thu nhập thì đều
có thể CKH được .
2. Bên khởi tạo tài sản bán tập hợp tài sản đã được lựa chọn cho một
doanh nghiệp chuyên dụng SPV
Một đặc điểm cơ bản tạo nên tính ưu việt của CKH là tài sản khi đã được
bán phải hoàn toàn tách biệt với tài sản của bên khởi tạo tài sản. Để đạt được
mục đích đó, hai yêu cầu được đặt ra là:
- SPV phải được cấu trúc như là một doanh nghiệp khó phá sản
(bankrupcy remoteness), nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư được
đảm bảo từ tài sản mà bên khởi tạo đã chuyển nhượng cho SPV.
- Việc chuyển nhượng tài sản từ bên khởi tạo tài sản cho SPV phải
là chuyển nhượng tuyệt đối, hay thực bán (true sale). Điều này có nghĩa
là toàn bộ lợi ích và rủi ro kinh tế của tài sản – tức là toàn bộ quyền sở
hữu được chuyển giao cho SPV, và quyền của SPV được nhận các
khoản thu từ tài sản sẽ không bị ảnh hưởng trong trường hợp bên khởi
tạo tài sản bị phá sản, nghĩa là tài sản không thể bị chi phối bởi các bên
chủ nợ của bên khởi tạo tài sản.

3. Để thanh toán cho tập hợp tài sản được mua, SPV phát
hành chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản thu từ tập hợp tài sản
đó.
Trong giao dich CKH , chứng khoán có thể được phát hành dưới nhiều
hình thức khác nhau, bao gồm trái phiếu, thương phiếu (commercial paper),
hoặc chứng chỉ đầu tư (investment certificate) tuỳ theo cấu trúc của từng giao
dịch cụ thể cũng như hình thức pháp lý của doanh nghiệp chuyên dụng (là
công ty cổ phần hay quỹ tín thác (trust) hay công ty hợp danh). Chứng khoán
này cũng có thể được phát hành ra công chúng (public offering) trên thị
trường tập trung hoặc được phát hành riêng lẻ (private placement) trên thị
trường phi tập trung.
Như vậy là bằng cách này doanh nghiệp có thể có thêm một nguồn vốn
đầu tư dài hạn để phục vụ cho những mục tiêu của mình trong sản xuất kinh
doanh.
b. Đặc điểm của chứng khoán hoá:
Quá trình CKH là một tập hợp các tài sản có tính chất tương đồng, có
tính thanh khoản thấp, có khả năng tạo ra dòng tiền, và phát hành các quyền
đòi nợ trên cơ sở các dòng tiền đó dưới các dạng chứng khoán.
Chúng ta có thể thấy CKH có một số đặc điểm sau đây:
- CKH là một quá trình tập hợp và phân tách; là quá trình tái cấu trúc một
thực thể thống nhất. Các tài sản được CKH trước tiên phải được tập hợp lại
thành nhóm theo dòng tiền mà tập hợp tài sản này tạo ra. Sau đó, người ta
chia nhỏ giá trị của tập hợp dòng tiền này thành các chứng khoán theo những
mệnh giá nhất định bán được trên thị trường.
- CKH là một quá trình tạo thêm các chứng khoán cho thị trường.
5
- Các chứng khoán được phát hành ra có thể được đảm bảo bằng một tài sản
thực (tài sản thế chấp), ví dụ như trường hợp chứng khoán hoá các khoản cho
vay thế chấp, hoặc không được bảo đảm bằng một tài sản thực - trong trường
hợp chứng khoán hoá các khoản phải thu.


c.Những cấu trúc CKH đặc trưng:
Cấu trúc của kỹ thuật CKH thường được chia làm hai loại, tùy theo
quyền hưởng lợi mà nhà đầu tư chứng khoán có được đối với tài sản liên
quan.
Cấu trúc thứ nhất là nhà đầu tư có quyền sở hữu trực tiếp đối với tài sản
có liên quan và được gọi là cơ cấu qua trung gian chuyển đổi (pass-through).
Với mô hình trung gian chuyển đổi doanh nghiệp chuyên dụng sẽ phát hành
chứng khoán vốn dưới dạng chứng chỉ đầu tư (investment certificates) cho
các nhà đầu tư. Trong trường hợp này, doanh nghiệp chuyên dụng thường
được thành lập dưới dạng quỹ tín thác (trust). Chứng khoán phát hành là
chứng chỉ đầu tư thể hiện quyền sở hữu gián tiếp của nhà đầu tư đối với tài
sản được CKH. Trong mô hình này, các khoản tiền thu được về từ tài sản theo
định kỳ sẽ được chia hết cho các nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ nắm giữ
chứng khoán của họ sau khi đã trừ đi các chi phí trả cho các bên tham gia
giao dịch. Tuy nhiên trong mô hình này các nhà đầu tư phải đối mặt với rủi ro
về khả năng xảy ra các khoản thanh toán trước hạn từ Bên có nghĩa vụ thanh
toán.
Cơ cấu thứ hai tạo nên những công cụ nợ được đảm bảo bằng việc thanh
toán của các khoản phải thu và được gọi là cấu trúc qua trung gian thanh toán
(pay - through). Cấu trúc qua trung gian thanh toán chiếm vị trí chủ đạo trên
thị trường Mỹ và thực tế thì mọi kỹ thuật CKH tại các nước khác đều dựa trên
cơ sở qua trung gian thanh toán. Mô hình này ra đời nhằm khắc phục tính
không chắc chắn về mức độ trả nợ trước hạn đối với tài sản bảo đảm trong
giao dịch giao dịch CKH .Với mô hình trung gian thanh toán, SPV sẽ phát
hành chứng khoán nợ cho các nhà đầu tư và do vậy vẫn duy trì quyền sở hữu
đối với tài sản bảo đảm. Ngược lại với mô hình trung gian chuyển đổi, mô
hình trung gian thanh toán cho phép SPV có thể cơ cấu chứng khoán nợ
thành nhiều hạng khác nhau về thời gian đáo hạn và lãi suất. Một mô hình
trung gian thanh toán được sử dụng rộng rãi nhất là mô hình trong đó dòng

tiền thu về sẽ được phân phối trả lãi và gốc của các loại chứng khoán nợ được
phát hành theo trật tự ưu tiên khác nhau. Nguyên tắc cơ bản của cơ cấu này là
loại chứng khoán hưởng lãi suất cao có thời gian đáo hạn dài hơn và không
được trả gốc cho tới khi cả gốc và lãi của trái phiếu hưởng lãi suất thấp hơn
đã được thanh toán hết. Quỹ tín thác hoặc doanh nghiệp sẽ dùng tiền thu được
từ các bên có nghĩa vụ thanh toán lãi và gốc cho các nhà đầu tư vào chứng
khoán. Ngoài ra cũng cần phải kể đến vai trò của tổ chức hỗ trợ thanh khoản
(liquidity support provider), thường là một ngân hàng thương mại cam kết
ứng tiền cho doanh nghiệp chuyên dụng để thanh toán cho các nhà đầu tư
trong trường hợp các bên có nghĩa vụ chưa thu về kịp.
6
2.Đặc điểm của CKH :
-Thứ nhất, CKH là một trong những công cụ tài chính mới, nằm trong thị
trường chứng khoán. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường tài
chính bao gồm rất hai thị trường chính là thị trường tín dụng và thị trường
trao đổi các giấy tờ có giá. Trong đó thị trường trao đổi các giấy tờ có giá bao
gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Bản chất của thị trường
chứng khoán là trao đổi các chứng khoán như thương phiếu, cổ phiếu, trái
phiếu… giữa các chủ thể sở hữu khác nhau với một bên là người chưa có nhu
cầu sử dụng vốn và một bên là người cần sử dụng vốn. Hàng hóa trao đổi trên
thị trường chứng khoán thực chất là mua bán quyền sử dụng vốn trong một
thời gian nhất định, nhưng về mặt pháp lý người bán quyền sử dụng vốn vẫn
nắm quyền sở hữu nó.
- Thứ hai, hàng hóa của CKH cũng là những chứng khoán nhưng là
những chứng khoán được phát hành có một số điểm khác biệt. Thực tiễn cho
thấy người ta thường CKH các khoản cho vay mua ôtô, mua máy tính, mua
nhà.. ; các khoản phải thu về cho thuê bất động sản, phải thu trong xuất khẩu,
thu tiền bản quyền, phải thu trong thanh toán bằng thẻ tín dụng, thu thuế của
Chính phủ… Nhìn chung các tài sản này thường được chia làm hai loại: Loại
tài sản được đảm bảo bằng việc cầm cố, thế chấp một tài sản thực, ví dụ như

khoản cho vay có thế chấp bằng bất động sản ; và các tài sản không được bảo
đảm bằng một tài sản thực như các khoản phải thu. Tập hợp các tài sản được
CKH phải có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Tương đối đồng nhất, được phép chuyển nhượng và tạo ra được những
dòng tiền ở những thời điểm nhất định trong tương lai.
+ Phải tương đối lớn, bao gồm nhiều tài sản trong đó rủi ro của một hoặc
một số ít tài sản không làm ảnh hưởng đến giá trị của tập hợp tài sản đó.
+Quyền tiếp nhận các dòng tiền tạo ra từ tập hợp các tài sản trên không
phụ thuộc vào sự tồn tại hay phá sản của bên khởi tạo.
3.Chức năng của CKH:
Thứ nhất, tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh
tế: CKH cho phép các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn với thời hạn
dài hơn các nguồn vay tín dụng thương mại thông thường, do vậy đáp ứng tốt
hơn yêu cầu của doanh nghiệp về tính phù hợp về thời hạn giữa tài sản và
nguồn. Hơn nữa, đối với nhiều doanh nghiệp hoặc quốc gia có định mức tín
nhiệm không cao, khác với phương thức phát hành trái phiếu truyền thống ,
CKH là kỹ thuật tài chính duy nhất cho phép các doanh nghiệp/quốc gia đó
tiếp cận được với thị trường vốn với mức chi phí hiệu quả nhờ lựa chọn và sử
dụng những tài sản tốt làm đảm bảo (những tài sản này được xếp hạng về định
mức tín nhiệm cao hơn xếp hạng của bản thân doanh nghiệp sở hữu tài sản
đó).
Với kỹ thuật CKH, doanh nghiệp huy động co thể tăng tính thanh khoản
của các hạng mục tài sản của mình. Các khoản phải thu từ khách hàng được
7
chuyển thành tiền mặt (kể cả nguồn thu trong tương lai) giúp doanh nghiệp
ngay lập tức có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh thay vì phải đợi cho tới khi thu được tiền từ khách hàng.
Thứ hai, đa dạng hóa các nguồn tài trợ và khả năng truy cập thị trường
vốn, giảm chi phí và sử dụng vốn tối ưu: Khi được chuyển đổi với một cơ cấu
phù hợp, các nghĩa vụ thanh toán dựa trên các khoản phải thu sẽ được cách ly

với rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng nói chung của định chế tài chính liên
quan. Việc bán các khoản phải thu và phát hành chứng khoán được dựa trên
các khoản phải thu này sẽ giúp các định chế tài chính có thể thường xuyên
tiếp cận với những thị trường mới và các nhà đầu tư mới, đồng thời không bị
lệ thuộc vào quan hệ tín dụng truyền thống. Bên cạnh đó, các ngân hàng sử
dụng CKH để triệt tiêu rủi ro tín dụng, tuy số lợi nhuận thu được thấp hơn
mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng với khách hàng vay tiền nhưng số lãi
thu được sớm hơn, khả năng quay vòng vốn nhanh hơn. Chính vì vậy mà
những chi phí phát sinh từ việc sử dụng vốn trở nên tối ưu.
Thứ ba, CKH giúp quản lý đòn bẩy tài chính: kỹ thuật CKH với đúng
nghĩa của nó sẽ đồng thời loại bỏ các khoản phải thu ra khỏi bảng cân đối kế
toán của định chế tài chính mà vẫn đảm bảo được nguồn lợi từ những khoản
phải thu này.So với các phương thức huy động nợ khác, CKH giúp cải thiện
bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp huy động vì không làm tăng đòn bẩy
tài chính. Bằng việc chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền , giao dịch
CKH không làm ảnh hưởng tới phần nợ trong bảng cân đối kế toán của doanh
nghiệp.

Thứ tư, tăng tính linh hoạt của thị trường vốn: Kỹ thuật CKH là một sự
kết hợp hoàn hảo giữa thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng qua
kênh ngân hàng. Việc CKH các khoản cho vay có cùng tính chất, lãi suất và
thời hạn của các ngân hàng khiến cho đồng vốn trên thị trường được lưu
thông nhanh hơn. Không phụ thuộc vào những khoản cho vay hiện thời,
không lo lắng về nợ quá hạn, các ngân hàng có thể liên tục tìm kiếm các
khách hàng mới, các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể đa dạng
hóa danh mục đầu tư của mình và thị trường vốn có tính linh hoạt cao hơn.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT CKH:
1. Điều kiện kinh tế cần thiết để hình thành và phát triển CKH
a. Sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán, điều kiện

phát sinh và phát triển CKH :
Về mặt lịch sử, sự xuất hiện của chứng khoán và sau đó là sự xuất hiện
của CKH gắn liền với hành vi giao dịch hàng hóa - tiền tệ. Hình thái cổ nhất
8
của trái phiếu chính là các giấy tờ vay nợ mà giới cho vay nặng lãi tìm cách
gán cho nhau hoặc cho những người khác. Người ta có thể tìm thấy các giấy
vay nợ đó ở cả châu Âu và châu Á, trong các xã hội cổ xưa của Hà Lan,
Trung Quốc. Tuy nhiên, khi kinh tế hàng hóa chưa phát triển, quy mô của các
khoản vay nợ chưa lớn và chưa thường xuyên thì các giao dịch giấy vay nợ
cũng chưa phát triển. Vào thời kỳ đầu phát triển tư bản chủ nghĩa, khi thương
mại quốc tế phát triển bắt đầu mở rộng về qui mô và các dự án kinh doanh,
các nhu cầu đầu tư cho chu kì kinh doanh mới hay nhu cầu tiêu dùng bắt đầu
vượt quá sức tài trợ của một hãng tư nhân, hay một gia đình thì chứng khoán
mới bắt đầu xuất hiện nhiều. Trước hết là các thương phiếu gắn liền với các
chuyến hàng xuyên đại dương. Do vận chuyển hàng trên biển lâu ngày, vốn
quay vòng chậm nên các thương gia có nhu cầu dùng thương phiếu thanh toán
cho nhau, hoặc chiết khấu ở ngân hàng để có vốn sản xuất liên tục. Đây là
hình thái sơ khai nhất của giao dịch trái phiếu . Do các thương phiếu có kỳ
hạn ngắn và chúng cũng chỉ được giao dịch trong số những người tin cậy
nhau.
Cùng với các thương phiếu, dần dà cũng xuất hiện các giấy góp bán
buôn chung hàng hóa trên một chuyến tàu. Bắt đầu việc thanh toán được thực
hiện ngay sau khi các con tàu trở về và bán hết hàng. Về sau có tàu buôn đi về
liên tục, những người góp vốn tự thấy không cần thủ tục rút vốn ra rồi lại góp
vào mà chỉ tính toán lời lãi. Khi một người nào đó cần tiền, những người
khác vui lòng mua lại phần góp của anh ta. Giao dịch các giấy xác nhận góp
vốn là hình thức giao dịch cổ phiếu sơ đẳng nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, khi ngân sách thiếu liên tục, các nước cũng
phát hành rất nhiều loại trái phiếu khác nhau. Kết quả là trong xã hội tồn tích
một lượng lớn các giấy tờ có giá. Khi cần tiền, các chủ nhân của các giấy tờ

có giá này tìm cách bán lại cho nhau. Do đó, hình thành dần dần những nhóm,
những tụ điểm trao đổi các giấy tờ có giá đó. Lúc đầu, các giao dịch này chỉ
xuất hiện ở những thành phố cảng sầm uất và trung tâm thương mại, về sau,
chúng mở rộng ra nhiều địa phương.
Vào những năm 70, khi mà các giao dịch chứng khoán đã phát triển ở
Mỹ, các định chế tài chính Mỹ đã có tập quán mua bán các khoản nợ cho vay
có nhà ở thế chấp với các nhà đầu tư và các định chế tài chính khác như một
phương cách để gia tăng tính linh hoạt cho tập chọn các tài sản tài chính đã
đầu tư (portfolio). Việc bán các khoản nợ vay nhà thế chấp này trên thực tế
đã gặp nhiều khó khăn vì rằng với mỗi khoản vay, với lãi suất nhất định, với
gía trị tài sản thế chấp nhất định, với một số tiền nhất định sẽ chỉ đặc biệt
thích hợp với một người nhất định. Đặc tính đơn nhất này đã làm cho chúng
thiếu linh hoạt cần thiết và hậu quả không thể lưu động hóa một khối lượng
tiền khổng lồ đã nằm trong bất động sản của các khoản cho vay thế chấp dài
hạn. Từ đó, sự xuất hiện của kỹ thuật CKH , giống như sự hình thành và phát
triển của các kỹ thuật khác đều cần bắt nguồn từ việc giải quyết các vấn đề
trong thực tiễn. Với kỹ thuật CKH, giờ đây các tổ chức tín dụng có thể dễ
dàng tập hợp các khoản cho vay thế chấp có hạng tiền tương tự nhau, trên cơ
9
sở chia nhỏ các tập hợp cho vay thành những số tiền đã được chuẩn hóa và từ
đó hình thành nên những chứng chỉ được mua bán trên thị trường ghi quyền
hưởng lãi và gốc từ tập hợp các khoản cho vay này cho nhà đầu tư như một
chứng khoán. Những chứng chỉ này chuyển thẳng toàn bộ các khoản nợ gốc
và lãi của mỗi món vay có thế chấp nhà ở được Chính Phủ bảo lãnh sang cho
người đầu tư. Như vậy khi các khoản cho vay có thế chấp này được chuyển
thành các chứng khoán (được CKH), quyền sở hữu trực tiếp đối với các phần
chia theo tỷ lệ (cổ phần) trong tập hợp chọn lọc các khoản vay có thế chấp và
các luồng tiền thu được từ các khoản vay này (lãi và gốc) sẽ được chuyển tới
người mua (người đầu tư). Với một thị trường thứ cấp rộng mở, với mức an
toàn và mức sinh lời cao hơn hẳn các chứng khoán thông thường khác của

Chính phủ, loại chứng khoán này trở nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Như vậy là ở những nước có quan hệ HH- TT thực sự thì những nhu cầu
CKH các khoản cho vay hay bất động sản … nảy sinh và tất yếu sẽ dẫn đến
CKH ra đời.
Ngược lại, ở những nước không có quan hệ hàng hóa- tiền tệ thực sự, thí
dụ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu Liên Xô, mặc dù kinh tế cũng khá
phát triển nhưng các yếu tố của thị trường chứng khoán hầu như không xuất
hiện. Thậm chí ở Trung Quốc, trước khi đổi mới, mở cửa, thị trường chứng
khoán đã có trong quá khứ cũng bị đóng cửa. Từ đó dẫn đến các hoạt động
trên thị trường chứng khoán cũng không diễn ra. Vì vậy mà đương nhiên kỹ
thuật CKH cũng không thể tiến hành.
Về mặt lôgíc, chúng ta có thể thấy rằng kinh tế thị trường đã tạo ra
những điều kiện để nảy sinh thị trường chứng khoán , và sự phát triển của thị
trường chứng khoán là điều kiện để CKH ra đời . Trước hết, sự tồn tại của thị
trường chứng khoán, nơi mà các chứng khoán được coi là hàng hóa và được
trao đổi mua bán rộng rãi và là bằng chứng pháp lý đại diện cho phần vốn
chuyển giao thì thu nhập từ vốn trở thành thu nhập do chứng khoán mang lại.
Từ đó những doanh nghiệp có thể thấy được những lợi ích thu được từ việc
phát hành chứng khoán dựa trên tài sản của mình và có động lực để tiến hành
hoạt động biến các tài sản đó thành chứng khoán để bán trên thị trường
chứng khoán .
b.Sự hình thành và phát triển của các tổ chức kinh doanh chứng
khoán và dịch vụ thị trường là điều kiện quan trọng để kỹ thuật CKH
được tiến hành một cách có tổ chức và có hiệu quả:
Sự tồn tại của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán vừa là
chất dầu bôi trơn làm cho nghiệp vụ CKH vận hành có tổ chức, có hiệu quả
cao hơn, vừa như những yếu tố cấu thành nên hoạt động CKH với tư cách là
người đầu tư, người tạo lập , người môi giới, người bảo lãnh…Các định chế
tài chính cần thiết để CKH có thể tiến hành được cần được thành lập dưới sự
cho phép của Nhà nước, đây là sự thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc

khuyến khích tiến hành nghiệp vụ CKH .Các tổ chức đó bao gồm:
10
Thứ nhất, các doanh nghiệp, các ngân hàng… muốn chứng khoán hóa
các tài sản của mình: Đây là điều kiện đầu tiên và tiên quyết để CKH có thể
phát sinh và phát triển ở một quốc gia. Chỉ khi họ có nhu cầu CKH các tài sản
của mình để dùng cho mục đích như đầu tư, mở rộng chu kì sản xuất kinh
doanh, …có nghĩa là họ phải đi từ lợi ích về mặt kinh tế thì CKH mới có thể
được ra đời, được duy trì, và phát triển như vậy. Việc tiến hành nghiệp vụ này
không thể là việc bắt buộc hoặc xuất phát từ chương trình của Chính phủ áp
đặt phải thực hiện . Bởi vì xét cho cùng, trong một nền kinh tế thị trường thì
việc có tồn tại hay không một công cụ tài chính mới trong các doanh nghiệp
tham gia nền kinh tế chỉ có thể thực hiện được khi mà nó thực sự đem lại hiệu
quả kinh tế, thu nhập và lợi nhuận cho các chủ thể đó.
Thứ hai, các công ty chứng khoán hóa ( SPV): Theo kinh nghiệm của
các nước đi trước, để CKH các khoản cho vay nhà ở các quốc gia thường có
hai hướng thực hiện, hoặc cho phép các ngân hàng CKH các khoản cho vay
mua nhà của mình hoặc thành lập các công ty CKH chuyên mua lại các khoản
cho vay và phát hành các loại trái phiếu CKH. Hầu hết các nước hình thành
CKH từ hướng thứ nhất, và phát triển kỹ thuật này theo hướng thứ hai. Các
công ty CKH có thể là là các công ty con của các tổ chức cho vay hay là công
ty độc lập, có thể do tư nhân hoặc nhà nước thành lập nhằm thúc đẩy quá trình
CKH. Các công ty này càng chuyên môn hóa khả năng của mình khiến cho
các ngân hàng càng nhận thấy rằng việc trực tiếp CKH các khỏan cho vay của
mình là việc làm không kinh tế, từ đó quá trình CKH ở các nước lại càng phổ
biến theo hướng thứ hai. Ngoài ra, sự hỗ trợ của Chính phủ các nước bằng
việc thường xuyên điều chỉnh và bổ sung các quy định để ngày càng đẩy
mạnh thị trường này cũng góp phần hoàn thiện và thúc đẩy hoạt động của các
công ty CKH. Đến nay, các nước ứng dụng CKH thành công đều đã thành lập
công ty CKH riêng (Xem bảng dưới đây)
Quốc gia Công ty

chứng khoán
hóa( SPV)
Năm
thành lập
Ghi chú
Mỹ FNMA, GNMA,
Fredie Mac
1948,1968,
1968
Thành lập năm 1948,
đến năm 1968 được tư
nhân hóa
Pháp Fonds Commun de
Créande(FCC)
1988 Tương tự FNMA
Đã có hơn 120 FFC
Hàn Quốc Korean Mortgage
Corporation
1998 Liên doanh giữa các
ngân hàng trong nước
và IFC
Malaysia Cagamas Berhad 1986
Hongkong Hong Kong
Mortgage
Corporation
(HKMC)
1997
11
Nhật Tokobetsu
Mokukeiki Kaisha

(TMKs)
1998 Gần 40 TMKs được
thành lập, 17 TMKs
hoạt động trong lĩnh
vực BĐS
(Nguồn: Komoco.com, HKMC.com, Vinodkothari.com,
europeansecuritization.com)
Thứ ba, các tổ chức cung cấp thông tin: Các tổ chức này được coi là có
vai trò rất quan trọng trong việc đưa CKH vào thực tiễn. Để có thể tíên hành
CKH một cách hiệu quả thì người đầu tư cần phải được cung cấp thông tin
một cách công bằng và trung thực. Chức năng cung cấp thông tin cho nhà đầu
tư do hai tổ chức thực hiện là Các trung tâm dữ liệu của các tổ chức chứng
khoán hóa, tổ chức phát hành chứng khoán (người khởi tạo) hoặc các hiệp
hội kinh doanh trong lĩnh vực CKH …; thứ hai là các tổ chức độc lập cung
cấp dịch vụ thông tin thu phí, đây là hình thức kinh doanh.
Các trung tâm thông tin của Sở giao dịch chứng khoán ,của hiệp hội kinh
doanh thông qua CKH, hoặc các tổ chức phát hành…với kho dữ liệu rất
phong phú thường cung cấp thông tin không thu phí hoặc là thu phí rất thấp vì
đây là những dữ liệu gốc ít được xử lí, chủ yếu là phục vụ nhu cầu công khai
thông tin của thị trường chứng khoán .
Các tổ chức cung cấp thông tin độc lập có vai trò ngày càng lớn trong
việc cung cấp các thông tin chất lượng cao, như tài liệu phân tích đầu tư, các
thông tin về chỉ số chứng khoán đa dạng, và đặc biệt là các dịchvụ định mức
trái phiếu.Việc có phát hành được các chứng khoán hóa trên thị trường hay
không không những phụ thuộc vào uy tín của công ty thể hiện thông qua
những lời cam kết, hứa hẹn của tự bản thân công ty đó mà còn dựa vào sự
đánh giá mức tín nhiệm của các công ty định mức tín nhiệm. Đây là các công
ty trung gian và thông qua hệ thống thông tin mà họ nắm được thì họ sẽ đưa
ra những đánh giá khách quan nhất về chứng khoán của công ty khởi tạo, và
từ đó cung cấp những “ dấu hiệu” cho người đầu tư nhận biết để tiến hành đầu

tư đúng hướng. Cần phải phân biệt các tổ chức định mức tín nhiệm đánh giá
về chứng khoán phát hành thông qua CKH với các tổ chức định mức tín
nhiệm đánh giá về uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của công ty. Trên thực
tế, đã có rất nhiều trường hợp, các chứng khoán hóa được các công ty này
đánh giá ở hạng cao hơn so với hạng của công ty. Và vì thế mà chúng luôn
luôn được mua bán trao đổi rất sôi nổi trên thị trường. Nhờ có các công ty
định mức tín nhiệm đánh giá các chứng khoán hóa thì thị trường sẽ tiết kiệm
được thời gian và chi phí để tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về các chứng khoán
mà các công ty phát hành thông qua nghiệp vụ CKH. Hoạt động của các công
ty này được coi là hoạt động chuyên doanh trong việc đưa ra các nhận xét
khách quan và chính xác và có định hướng của mình bởi họ chuyên nghiệp
hóa hoạt động thu thập thông tin, đánh giá bởi đội ngũ những chuyên gia hiểu
biết và uy tín trong nhiều lĩnh vực. Những kết luận cuối cùng mà các tổ chức
này đưa ra là những bảng xếp hạng, chẳng hạn xếp hạng theo các hạng A,B,
12
C… và sẽ được bán cho những nhà đầu tư trên thị trường. Ngày nay, ở những
quốc gia có hoạt động CKH diễn ra mạnh mẽ và rộng rãi nhất, các tổ chức
cung cấp dịch vụ thông tin chuyên nghiệp có vai trò rất quan trọng. Nếu thiếu
nó thì việc CKH các tài sản của các doanh nghiệp sẽ ít có sức hấp dẫn và
thiếu uy tín đối với người đầu tư.
Thứ tư, các nhà đầu tư sẵn sàng giao dịch với các chứng khoán sinh ra
từ nghiệp vụ CKH : Các nhà đầu tư trước hết thể hiện với tư cách là các cá
nhân. Bởi vì mục đích của CKH là chia nhỏ các khoản cho vay, các tài sản có
giá trị lớn như bất động sản, xe hơi, máy móc thiết bị để có thể mua bán dễ
dàng trên thị trường nên các cá nhân là những người rất phù hợp để các doanh
nghiệp phát hành chứng khoán hướng tới. Hiện nay, nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân chúng là rất lớn, họ có rất nhiều các dạng đầu tư khác nhau như
vàng, trái phiếu Chính phủ, hay là gửi tiền vào các ngân hàng…, vì thế thu
hút được những nguồn vốn nhàn rỗi từ phía dân cư là điều kiện quan trọng để
CKH thành công.

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn tồn tại dưới hình thức các định chế tài
chính đầu tư. Sự xuất hiện của các tổ chức này đã làm cho thị trường các
chứng khoán hóa có bước phát triển mới. Việc cho phép các định chế tài
chính giao dịch với quy mô lớn, với phí thỏa thuận đã làm cho thị trường mua
bán các chứng khoán hóa có điều kiện giảm phí, mở rộng quy mô, thu hút
được nhiều vốn hơn. Ngoài ra các định chế tài chính đầu tư cũng cung cấp
dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chất lượng cao, mở cho nhà đầu tư cá nhân nhiều
cơ hội sử dụng hiệu quả lượng vốn của họ. Đầu tư thông qua các định chế tài
chính đầu tư cũng làm cho thị trường mua bán chứng khoán hóa được tổ chức
và điều hành dễ dàng hơn.
2. Các điều kiện xã hội cần thiết để CKH phát sinh và phát triển:
a.Môi trường xã hội – chính trị ổn định, minh bạch và bảo hộ quyền
sở hữu của các chủ thể kinh tế là điều kiện thuận lợi cho CKH ra đời và
phát triển:
Việc mua bán các chứng khoán hóa giữa người kinh doanh và người đầu
tư đòi hỏi phải có sự bảo hộ của xã hội về quyền sở hữu tài sản cũng như bảo
hộ quyền hưởng lợi gắn liền với quyền sở hữu đó. Nếu như sự bảo hộ không
được đảm bảo người đầu tư sẽ rời bỏ thị trường.
Nhân tố xã hội đã ảnh hưởng đến sự an toàn của quyền sở hữu và quyền
hưởng lợi chứa đựng trong các chứng khoán hóa là sự ổn định của chế độ
chính trị và mức độ bảo hộ của luật pháp đối với việc thực thi quyền sở hữu.
Ở những quốc gia mà quyền sở hữu của những thể nhân và pháp nhân không
tồn tại, do đó sự phân phối theo quyền sở hữu không được thừa nhận phổ
biến, thì các quan hệ giao dịch chứng khoán hóa không có điều kiện phát sinh
phát triển. Song ngay ở các quốc gia thừa nhận quyền sở hữu các thể nhân và
pháp nhân, điều kiện thuận lợi cho CKH phát triển cũng khác nhau. Bởi vì sự
an toàn của tài sản tài chính chứa đựng trong các chứng khoán hóa còn phụ
thuộc vào sự ổn định của đường lối phát triển của quốc gia đó. Những đảo lộn
13
trong đường lối trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế- xã hôị, những

thay đổi trong thái độ cư xử đối với các thành phần kinh tế xã hội khác nhau,
sự không ổn định trong cơ cấu các lực lượng xã hội đều gây nên những thay
đổi chính trị xã hội làm tăng áp lực tiêu cực vào thị trường mua bán chứng
khoán hóa, dẫn đến rối loạn thị trường. Trong một môi trường ổn định thì cả
người đầu tư và cả doanh nghiệp đều muốn đầu tư lâu dài. Nói cách khác,
mặc dù sự ổn định về đường lối phát triển và tương quan giữa các lực lượng,
các thành phần kinh tế không phải là điều kiện nội sinh của CKH nhưng nó
làm nên cái nền gọi là niềm tin của cả giới đầu tư và tổ chức phát hành. Niềm
tin này ở những mức độ lớn sẽ hoặc kích thích CKH mở rộng nhanh chóng,
hoặc đưa đến những rối loạn, suy thoái tạm thời.
Ngoài ra, tiền đề xã hội để CKH phát triển nhanh còn là sự duy trì những
quan hê dân sự minh bạch và có hiệu lực trong xã hội. Lĩnh vực chứng khoán
hóa và các giao dịch của nó gắn liền với sự thực thi nghiêm minh trách nhiệm
tài chính của các bên liên quan. Nếu các tranh chấp phát sinh không có cơ sở
và chế tài giải quyết thì mức độ thu hút của CKH sẽ giảm, độ rủi ro bảo toàn
quyền lợi thấp. Mặt khác, sự trong sạch, năng lực của những cán bộ thi hành
chế tài xử lí các tranh chấp dân sự khi tiến hành CKH là yếu tố củng cố lòng
tin cho các nhà đầu tư.
b. Tồn tại một văn hóa chứng khoán là điều kiện cần thiết để dân cư
tham gia vào việc mua bán các chứng khoán hóa:
Khác với các thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường thì thị trường
mua bán các chứng khoán hóa đòi hỏi các nhà đầu tư khi tham gia vào mua
bán chứng khoán hóa phải có những tố chất nhất định, những tố chất đó có
thể tạm gọi là “ văn hóa chứng khoán”.
Yếu tố đầu tiên của văn hóa chứng khoán là sự hiểu biết của nhà đầu tư
về hàng hóa trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là những chứng khoán phát
sinh từ nghiệp vụ CKH . Hàng hóa này không thể thử nghiệm qua quá trình
tiêu dùng, nó phụ thuộc vào thông tin cung cấp từ tổ chức phát hành. Những
thông tin này là các tài liệu kinh tế tài chính phức tạp mà không phải ai cũng
có khả năng hiểu và làm chủ. Chính vì thế khởi nguyên của CKH là những

giao dịch giữa các ngân hàng và tổ chức GNMA là những người rất am hiểu
trong lĩnh vực này. Ngày nay, khi CKH được mở rộng cho quảng đại dân
chúng thì có nhiều phương tiện kỹ thuật thông tin và tư vấn để giúp cho nhà
đầu tư nắm được chất lượng của các chứng khoán hóa. Nhưng mặc dù như
vậy, nhà đầu tư vẫn phải có những hiểu biết cơ bản về hoạt động kinh tế, tài
chính để đọc các bảng báo cáo tài chính khác nhau, để xử lý thông tin đưa ra
từ các tổ chức tư vấn, để nhằm mục đích cuối cùng là có quyết định đúng.
Lực lượng cơ bản để CKH được duy trì và ổn định là giới đầu tư am hiểu và
biết phân tích thị trường trước khi đưa ra quyết định. Sự am hiểu này, ở các
nước có thị trường CKH phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Úc… thì nó hình thành
sau khi thị trường chứng khoán phát triển và vì vậy mà nó gắn với những
14
tầng lớp đặc biệt trong xã hội như doanh nhân, nhân viên ngân hàng, các nhân
viên hoạt động trong lĩnh vực thị trường tài chính…
Yếu tố thứ hai cần thiết là nhà đầu tư am hiểu cơ chế vận hành của thị
trường CKH để dễ dàng nhập cuộc. Giao dịch trên thị trường CKH đa phần
thực hiện thông qua các môi giới trung gian. Do đó, những tri thức về quyền
lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong quan hệ với các tổ chức trung gian phải
được dân chúng hiểu rõ để có thể tiến hành hành động đúng và có thể tự bảo
vệ mình trước những chủ thể khác.
c. Hình thành đội ngũ cán bộ kinh doanh trong thị trường CKH :
Thị trường CKH ra đời kéo theo sự xuất hiện của những người chuyên
làm việc trong lĩnh vực đó. Họ thuộc rất nhiều loại khác nhau. Đa phần là
những nhân viên môi giới hoặc môi giới kiêm tự doanh, các thương gia; một
số khác làm nhiệm vụ nghiên cứu, phân tích thị trường CKH để cung cấp các
sản phẩm tư vấn thông tin; và cuối cùng là các nhà tổ chức quản lý thị trường.
Ngành công nghiệp chứng khoán hóa có thể phát triển mạnh mẽ và sinh lợi
cho từng quốc giá hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự đầy đủ và thành thạo,
tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của những cán bộ này.
Trước hết đội ngũ cán bộ là những người được ví như là chất dầu bôi

trơn để cỗ xe CKH vận hành với hiệu suất cao. Bên cạnh đó là các nhân viên
kinh doan hoạt động trong thị trường mua bán các chứng khoán hóa. Năng lực
chuyên môn phụ thuộc vào sự hiểu biết và thực thi rất thành thạo theo giao
dịch thị trường. Cách giao dịch trên thị trường chứng khoán với các sản phẩm
của chứng khoán hóa cũng rất đặc biệt, đòi hỏi sự thao tác nhanh chóng,
không được sai sót. Về mặt trung thực, các nhân viên môi giới, các nhân viên
tư vấn…cần phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, không được cố tình
làm theo ý muốn chủ quan của mình.
3. Vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện và hỗ trợ CKH phát
sinh và phát triển:
Về mặt khách quan, các yếu tố của thị trường CKH có thể phát sinh và
phát triển một cách tự phát trong môi trường hàng hóa - tiền tệ. Tuy nhiên quá
trình phát triển tự phát này là hết sức chậm chạp. Mặc dù CKH ra đời một
cách tự nhiên để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế, nhưng
ngay cả đối với những nước mà CKH ra đời thì vai trò của Chính phủ cũng là
vô cùng quan trọng. Kinh nghiệm của của nhiều nước chỉ rõ : nếu có sự hỗ trợ
mạnh mẽ từ phía Nhà nước thị thị trường CKH sẽ có điều kiện phát triển
nhanh.. Thị trường CKH ở các nước như Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Hồng Kông…đều ra đời nhờ có sự hỗ trợ đắc lực từ phía Nhà nước. Với mục
tiêu là quản lý kinh tế vĩ mô, các chương trình xã hội thường là lí do để Chính
phủ bảo trợ cho các chương trình CKH . Vì hoạt động CKH các món cho vay
thế chấp như nhà đất, ô tô, các tài sản có giá trị lớn khác sẽ giúp cho thị
trường nhà ở phát triển, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình và
thấp có cơ hội tiếp cận với việc mua bán tiêu dùng các tài sản có giá trị lớn.
15
Như vậy một mặt nó giải quyết được vấn đề cho những người có thu nhập
thấp mặt khác lại mang lại lợi nhuận cho các nhà khởi tạo phát hành chứng
khoán, lợi ích đôi này là điều mà Chính phủ luôn mong tới, vì mục đích của
Chính phủ là hướng tới điều hòa cả hai lợi ích kinh tế và xã hội. CKH thường
được hình thành ở các nước có nhu cầu đảm bảo nhà ở cho dân chúng, nhu

cầu phát triển các khu dân cư, chung cư (đô thị hóa). Các nhu cầu này xuất
hiện từ phía cá nhân, hộ gia đình mong muốn có được nơi ăn chốn ở để an cư
lạc nghiệp và từ phía Chính phủ mong muốn tận dụng nguồn vốn sẵn có trong
dân chúng để cải tạo bộ mặt đô thị, tạo công ăn việc làm , kích thích sản xuất
trong nước; đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội khác. Đây là định hướng
phải có của các nước muốn ứng dụng CKH để giải quyết các nhu cầu trên, và
vì thế nó là kinh nghiệm cho các nước đi sau. Nếu có định hướng rõ ràng và
cụ thể thông qua các quy định cụ thể và rõ ràng, nhà nước mới tích cực đẩy
mạnh CKH bằng những biện pháp hỗ trợ từ kỹ thuật đến pháp lý, từ đó mới
có thể hoàn thành được những mục tiêu đề ra. Từ định hướng của Chính phủ,
thì nhà nước la tổ chức hỗ trợ hoặc trực tiếp thành lập các tổ chức CKH đầu
tiên là cơ sở ban đầu cho CKH từ cơ sở kỹ thuật (tạo lập các tổ chức thực hiện
CKH) đến cơ sở pháp luật (hành lang pháp lý, những ưu đãi trong đầu tư
CKH …), hay nói cách khác, sự tham gia của nhà nước trong quá trình CKH
là cần thiết.
Ngoài ra thị trường CKH hiện đại đòi hỏi phải có một hệ thống luật pháp
chế định và kiểm soát hành vi của các chủ thể tham gia. Thông thường Nhà
nước sẽ quản lý thị trường chứng khoán bằng các văn bản pháp luật, trong đó
căn bản nhất là văn bản về Luật Chứng khoán. Trong luật này, cần phải có
những quy định cụ thể để hướng dẫn các tác nhân tham gia vào quá trình
CKH. Luật này phải có một số nội dung như:
- Các quy định về quy trình CKH : như các mô hình, tổ chức, các
nghiệp vụ liên quan….
- Các quy định về các chủ thể tham gia vào quá trình CKH: như
việc cấp giấy phép cho tham gia vào hoạt động CKH , địa vị pháp lý
của các chủ thể kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của họ khi tiến hành
CKH tài sản …
- Quy định về vai trò quản lý và giám sát hoạt động kinh doanh
CKH của Nhà nước như thanh tra, giám sát, xử phạt…
- Ban hàng các quy định cấm trong khi tiến hành CKH …

Cuối cùng, Nhà nước có những biện pháp hỗ trợ phát triển nhằm giúp
cho hoạt động của thị trường CKH có thể diễn ra thuận lợi: như ưu đãi thuế
cho công ty phát hành và niêm yết chứng khoán hóa trên thị trường, ưu đãi
trả dần thuế trong thời kỳ đầu công khai, hưởng quy chế lỏng khi mua lại
công ty khác, đẩy mạnh khấu hao, dễ tiếp cận hơn với ngân hàng…
4.Kinh nghiệm về mở cửa thị trường CKH :
16
Qúa trình mở cửa thị trường CKH ở các nước đem lại hai điều lợi: Hoạt
động của thị trường CKH ở nước ngòai sẽ giúp mang lại nhiều phí giao dịch
hơn nhờ tăng hoạt động giao dịch của các đối tác nước ngòai; thứ hai lưu
thông nguồn vốn giữa trong nước và quốc tế nhằm bổ sung hoặc tận dụng
tiềm năng vốn của đất nước. Tuy nhiên các nước cũng cần phải thận trọng với
quá trình này bởi nếu mở cửa thị trường thì đồng nghĩa với việc phải đối mặt
với những rủi ro lớn từ những biến động của thị trường trong nước và quốc tế
thường rất khó lường trước. Đi đôi với qúa trình này đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh và phối hợp đồng bộ từ nhiều phía như tự do hóa lãi suất, củng cố hệ
thống ngân hàng, thi hành chính sách tỷ giá linh hoạt, củng cố dự trữ quốc gia
về ngoại tệ…và đặc biệt là phải có sự kiểm soát chặt chẽ từ phía Nhà nước.
PHẦN 2: CKH TRONG CÁC NHTM
I.LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CKH Ở NHTM:
1.Các nghiệp vụ của NHTM:
a.Nghiệp vụ nợ (Nghiệp vụ nguồn vốn): đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu: để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải
có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu
dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành
và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng.
Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng
mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở
hữu Nhà nước, ngân sách nhà nước cấp (vốn của nhà nước). Nếu là ngân hàng

cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân
hàng liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc
sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: từ lợi nhuận, từ phát
hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…
17
Các quĩ: Ngân hàng có nhiều quĩ. Mỗi quỹ có mục đích riêng: quỹ dự
phòng tổn thất, quĩ bảo toàn vốn, quĩ thặng dư… Nguồn hình thành các quỹ
này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng của các quĩ
này vào hoạt động của kinh doanh tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: các khoản vay trung và
dài hạn của ngân hàng thương mại có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ
phần.
Nguồn tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi: là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
Tiền gửi thanh toán : Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi
vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư
cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và các nhân đều được ngân
hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có
thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung lãi suất của
khoản tiền vay này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó được hưởng các
dịch vụ ngân hàng với mức chi phí thấp.
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian
xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền ngân hàng đã đưa ra
các hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Người gửi không được sử dụng các hinh
thức thanh toán đối với hình thức tiền gửi thanh toán để áp dụng cho loại tiền
gửi này nhưng lại được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kì hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và
sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu

hút ngày càng nhiều tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân
cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng
lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh
hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết
kiệm cho mỗi kỳhạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng
để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu ngân
hàng cho phép.
Tiền gửi của các ngân hàng khác: qui mô thường không lớn.
Nguồn đi vay và nghiệp vụ đi vay:
Vay NHNN (vay ngân hàng trung ương): Đây là khoản vay nhằm giải
quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các ngân hàng thương mại. Hình
thức cho vay chủ yếu của ngân hàng trung ương là tái chiết khấu. Thông
thường ngân hàng nhà nước chỉ cho phép tái chiết khấu đối với những thương
phiếu có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng nhà nước trong
từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng nhà nước cho
ngân hàng thương mại vay dưới hình thức hạn mức tín dụng nhất định.
Vay cuả các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các nhân hàng vay
mượn lẫn nhau và vay mượn của các tổ chức tín dụng khác. Quá trình vay
18
mượn rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho
vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý, khoản vay có thể không cần bảo đảm
hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của Kho bạc.
Vay trên thị trường vốn: vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn.
Các nguồn khác:
Nguồn uỷ thác: Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ gây uỷ
thác như: uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân
và thu hộ…Các hoạt động này hình thành nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng,
làm tăng nguồn vốn của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán: séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở

L/C…)
Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
b.Nghiệp vụ có ( Nghiệp vụ sử dụng vốn)
Ngân quĩ:
Tiền mặt trong két: có thể gồm ngoại tệ, nội tệ
Tiền gửi tại ngân hàng khác:
Ngân hàng với vai trò thủ quĩ của cho nền kinh tế, có trách nhiệm chi trả kịp
thời mọi nhu cầu của người gửi tiền dưới hình thức chuyển khoản và cả bằng
tiền mặt. Do vậy ngân hàng luôn phải giữ một lượng tiền mặt trong két và tiền
gửi tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Nhìn chung ngân quĩ của
ngân hàng là không sinh lời (hoặc sinh lời thấp trong trường hợp tiền gửi tại
ngân hàng nhà nước và các ngân hàng khác được hưởng lãi)
Chứng khoán:
Ngân hàng nắm giữ chứng khoán hoá vì mục tiêu kinh doanh và đa dạng hoá
tài sản. Các loại chứng khoán ngân hàng nắm giữ: Chứng khoán chính phủ,
chứng khoán của các ngân hàng khác, Chứng khoán của các công ty…
Tín dụng: là loại tài sản chiếm tỷ trong lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng
thương mại. Phân loại:
Tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn: phân chia tín dụng theo thời gian có
ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết tới tính
an toàn và sinh lời của tài sản. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn ở các ngân hàng
thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn : các ngân hàng chủ yếu
tài trợ cho các tài sản lưu động của khách hàng. Có nhiều yếu tố ảnh hưởg đến
tỷ kệ này như kì hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lí thanh
khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trung và dài hạn…
Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay,bảo lãnh, cho thuê…
Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng (định lượng theo hai chỉ
tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ). Bảo lãnh được ghi vào tài
sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách của mình…
Tín dụng được chia theo bảo đảm: Không có bảo đảm, có bảo đảm bằng tài

sản thế chấp cầm cố.
19
Tín dụng phân loại theo rủi ro: bao gồm các khoản mục có độ an toàn cao,
khá, trung bình và thấp. Để phân chia theo tiêu thức này, ngân hàng cần
nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro.
Tín dụng theo ngành kinh tế (công, nông, …) hoặc theo đối tượng tài trợ
(hàng hóa hoặc bất động sản…) hoặc theo mục đích (tiêu dùng,sản xuất…)
Các tài sản khác
Tài sản uỷ thác: được hình thành theo sự uỷ thác của khách hàng. Ngân
hàng làm dịch vụ uỷ thác cho vay cho các ngân hàng khác, các tổ chức chính
phủ, phi chính phủ…
Phần hùn vốn liên kết: tham gia góp vốn với các tổ chức khác (không thể
hiện dưới hình thức chứng khoán)
Các tài sản khác: Nhà cửa và trang thiết bị của ngân hàng phục vụ cho quá
trình kinh doanh của ngân hàng và cho thuê
Các tài sản ngoại bảng: Ngân hàng đưa ra những cam kết cuả mình đối với
khách hàng hình thành nên một loại tài sản là hợp đồng cam kết.

2.Điều kiện để một NHTM tiến hành kỹ thuật CKH :
- Phải có các tài sản liên quan tương hợp về đặc tính và chất lượng:
Một yếu tố hiển nhiên đảm bảo sự thành công của kĩ thuật chứng khoán hoá là
các tài sản liên quan phải có sự tương hợp về đặc tính và chất lượng. Cho đến
nay hầu hết các tài khoản được thực hiện CKH đều cho những luồng ngân
khoản định kỳ theo các hợp đồng hay các thoả thuận xác định việc chi trả dần,
thời biểu chi trả và lợi suất liên quan.
- Các định chế tài chính thực hiện việc CKH phải thiết lập những hệ thống
phức tạp phù hợp và năng lực công nghệ thông tin:
Các định chế tài chính thực hiện việc CKH phải thiết lập những hệ thống
phức tạp phù hợp và năng lực công nghệ thông tin đủ để đảm bảo rằng danh
mục tài sản liên quan được quản lý và giám sát tại mọi thời điểm. Phân tích

danh mục tài sản là một trong những biện pháp đánh giá mức độ tín nhiệm
cần thiết để có thể thực hiện kỹ thuật này. Đồng thời, thông tin cũng là một
yếu tố thiết yếu phục vụ cho việc phân tích cũng như việc giám sát diễm biến
của danh mục tài sản và chứng khoán các khoản liên quan.
3. Các tài sản CKH trong NHTM:
Là các tài sản tài chính và thường được biểu hiện qua 3 hình thức:
a. MBSs: CKH dựa trên tài sản thế chấp cho vay
Mô hình này được thực hiện theo trình tự sau:
* Phương thức chứng khoán hoá qua chung gian thanh toán (Pay-
Through)
Các khoản nợ phải thu của định chế tài chính nói chung, đặc biệt là của
ngân hàng thương mại được đem bán hoặc giao phó cho một tổ chức gọi là
20
Special Purpose Vehicle (SPV) quản lý. Đây là một tổ chức đặc biệt, được
thành lập để thực hiện việc tổ chức, kinh doanh CKH .
SPV mua lại các khoản nợ phải thu của các tổ chức tài chính, sau đó
phân tách thành các lô chứng khoán căn cứ vào tính đồng nhất về lãi suất, về
thời hạn thanh toán, điều kiện thanh toán…rồi bán cho công chúng đầu tư
nhằm mục đích kiểm lời từ phần chênh lệch và thu phí.
Để an toàn và tăng tính hấp dẫn cho chứng khoán, SPV thường thuê
thêm một tổ chức thứ 3 có uy tín đứng ra đảm bảo cho các chứng khoán thông
qua cơ chế tăng cường tín nhiệm.
Khi đến hạn thanh toán SPV thu tiền từ người có trách nhiệm từ người
trách nhiệm phải trả nợ ban đầu thông qua tổ chức khởi tạo rồi thanh toán gốc
và lãi cho người đầu tư chứng khoán theo qui định.
Đề việc chứng khoán hoá vận động thông suốt thì cần có một cơ chế
tăng cường tín nhiệm. Cơ chế tăng cường tín nhiệm mang tính chất nội sinh
hoặc ngoại sinh nghĩa là có thể dưới hình thức thiết lập một quỹ dự trữ, phát
hành ít chứng khoán hơn các tài sản liên quan hoặc dưới hình thức có sự bảo
lãnh từ một bên thứ 3 có đủ uy tín, đặc biệt là chính phủ. Những phương tiện

này được kết hợp với nhau trong giao dịch đảm bảo rằng không có sự thiếu
các luồng tiền chi trả cho người đầu tư chứng khoán.
* Phương thức chứng khoán qua trung gian chuyển đổi (pass
-through)
Về cơ bản hoạt động của mô hình chứng khoán qua trung gian chuyển
đổi giống mô hình qua trung gian thanh toán. Nhưng nó có một số điểm khác
biệt như sau:
Thứ nhất, tổ chức tài chính sau khi bán các khoản nợ của mình cho
trung gian đặc biệt SPV sẽ không tham gia vào quá trình thanh toán. Tổ chức
tài chính này không có trách nhiệm phải thanh toán cho chủ đầu tư chứng
khoán, mà chỉ tham gia với tư cách là trung gian chuyển tiền để thu phí dịch
vụ. Như vậy là sau khi bán các khoản nợ của mình tổ chức tài chính có thể
xoá nợ khỏi sổ sách kế toán của mình.
Thứ hai, trung gian đặc biệt SPV phải có trách nhiệm thanh toán gốc và
lãi cho nhà đầu tư chứng khoán.
Thứ ba, việc thanh toán gốc và lãi của khoản vay chưa được tách rời
như mô hình qua trung gian thanh toán mà thanh toán cả lãi và gốc theo hợp
đồng khá phức tạp. Vì vậy, người đầu tư chứng khoán khi đưa ra các quyết
21
định đầu tư thì phải biết cách tính toán để biết được số tiền mình có thể thu
được khi đầu tư vào mua các chứng khoán hoá qua trung gian chuyển đổi.
Để biết được số tiền mà mình nhận được hàng tháng thông qua việc đầu
tư vào một chứng khoán qua trung gian chuyển đổi, nhà đầu tư cần tính toán
dư nợ còn lại của tiền vay thế chấp bất động sản, số tiền thanh toán lãi và gốc
hàng tháng của trái phiếu. Công thức sau đây được sử dụng để tính toán phần
nợ gốc chưa trả tại một thời điểm nhất định đối với những khoản vay thế chấp
bất động sản:

M
I

I
D
m
t
*
1)1(
1)1(
1








−+
−+
−=
Trong đó:
D = Số nợ gốc chưa trả tính theo USD tại một thời điểm nào đó.
I = Lãi suất vay thế chấp, bất động sản tính theo tháng.
t = Số tháng đã thực hiện thanh toán nợ
m = Thời hạn vay tính theo tháng.
M = Tổng số tiền vay ban đầu.
Có thể tóm lược quá trình chứng khoán hoá tài sản của ngân hàng như
sơ đồ sau:
22
b. Mô hình chứng khoán hoá trên cơ sở có tài sản cầm cố là các chứng
khoán loại MBS – Mortgage Backed Securities (Collater - Alised –

Mortage Obligations – CMO)
Trên thế giới, phương thức CKH thông qua trung gian vẫn là phương
thức cơ bản và phổ biến để CKH tài sản của ngân hàng, còn phương thức tạo
chứng khoán có tài sản cầm cố là các chứng khoán tái thế chấp (CMO) lại là
một công cụ mới đang được phát triển. Phương thức này được ra đời vào năm
1983 bởi Công ty The Federal Home Loan Mortgage Corporation (FHLMC)
và Fisrt Boston đều là của Mỹ, CMO được sử dụng nhằm mục đích tạo ra sự
hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư CKH tài sản ngân hàng. Để tạo được sự
hấp dẫn hơn, các chứng khoán CMO được phát hành thành nhiều dạng của
các nhà đầu tư. Trong khi theo phương thức CKH thông qua trung gian thì
mỗi nhà đầu tư hàng tháng nhận được khoản tiền là tỷ lệ với giá trị chứng
khoán mà mình nắm giữ đối với khoản tiền vay tín dụng hoàn trả cho ngân
hàng (bao gồm khoản trả góp cố định hàng tháng – gốc và lãi; và khoản tiền
gốc hoàn trả trước hạn), thì CMO lại là phương thức CKH đa hạng, nghĩa là
những nhà đầu tư được phân thành các thứ hạng khác nhau theo một số tiêu
Bảo hiểm tín
dụng thế chấp
Bảo hiểm thanh
toán chứng khoán
1. Ngân h ng.à
tạo tín dụng
có thế chấp
5. Khoản thu từ
phát h nh CK à
chuyển cho
ngân h ngà
Phát h nh à
chứng khoán
Nh à đầu tư CK
(bảo hiểm nhân

thọ, quĩ hưu trí )…
2. Cty tín thác.
H.toán ngoại
bảng khoán tín
dụng thế chấp
23
chí nhất định về chứng khoán. Hai đặc điểm cơ bản của phương thức CKH
CMO là:
- Có mức lãi xuất coupon của trái phiếu là cố định nhưng khác nhau
giữa các hạng trái phiếu khác nhau.
- Khoản tiền hoàn trả trước hạn được sử dụng để thanh toán phần gốc
trái phiếu chỉ cho một hạng trái phiếu nhất định, còn các trái phiếu của các
hạng khác vẫn được giữ nguyên.
Qui trình tạo trái phiếu CMO được tiến hành như sau:
Bước 1: Ngân hàng tạo khoản tín dụng có thế chấp, có bảo hiểm tín
dụng.
Bước 2: Trên cơ sở có bảo hiểm, ngân hàng tiến hành chứng khoán hó
các khoản tín dụng vừa tạo thông qua công ty tín thác để tạo các chứng khoán
tái thế chấp – The Mortgage Backed Security (MBS). Các chứng khoán MBS
là các chứng khoán tái thế chấp là vì xét về mặt nguyên thuỷ, thì các bất động
sản được dùng để thế chấp trực tiếp cho các khoản vay tín dụng đã được
CKH, thì tài sản thế chấp này trở thành tài sản thế chấp của các chứng khoán
MBS.
Bước 3: Những nhà đầu tư mua chứng khoán MBS, sau đó dùng nó làm
tài sản thế chấp cầm cố tại công ty tín thác để phát hành các chứng khoán đa
hạng CMO.
Chúng ta thấy rằng quá trình phát hành chứng khoán đa hạng CMO tương tự
như quá trình chứng khoán hoá kép. Khoản tín dụng có thế chấp được khoanh
lại và được chuyển ra hạch toán ngoại bảng, trên cơ sở đó ngân hàng (thông
qua trung gian) phát hành chứng khoán MBS. Những nhà đầu tư chứng khoán

MSB như các ngân hàng đầu tư chứng khoán MBS như các ngân hàng đầu tư,
các ngân hàng thương mại có thể mua toàn bộ hay một phần lớn của đợt phát
hành chứng khoán MBS. Nhưng nhà này dùng các chứng khoán MBS làm tài
24
NH
tạo
tín
dụng

thế
chấp
NH phát
h nh à
chứng
khoán
MBS
Nh à
đầutư
mua
chứng
khoán
MBS
Cầm cố
MBS tại
công ty
tín thác
Hạng 1
Hạng 2
Hạng 3
Bảo lãnh phát h nhà

Mô hình tạo các chứng khoán hoá CMO
sản cầm cố tại công ty tín thác để phát hành các chứng khoán CMO. Kết quả
là, những nhà đầu tư vào chứng khoán đa hạng CMO được đảm bảo bằng các
chứng khoán MBS (Còn các chứng khoán MBS thì được bảo đảm bằng các
tài sản thế chấp là bất động sản). Thông qua phát hành chứng khoán CMO,
ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại nhằm mục đích kiếm lợi nhuận,
bởi vì các chứng khoán CMO rất hấp dẫn các nhà đầu tư thuộc các đối tượng
khác nhau. Tổng số tiền thu được từ việc bán 3 hạng trái phiếu CMO là lớn
số tiền để mua trái phiếu MBS.
c. Mô hình chứng khoán hoá có tài sản thế chấp không qua trung gian
(The Mortgage Backed Bond – MBB)
Mô hình phát hành MBB là mô hình thứ ba của công nghệ chứng khoán
hoá. Sự khác nhau giữa trái phiếu MBB so với hai loại chứng khoán thuộc hai
phương thức trước là MBS và CMO ở hai điểm sau đây:
- Trong khi MBS và CMO giúp ngân hàng chuyển các khoản cho vay
có thế chấp bằng bất động sản từ nội bảng ra ngoại bảng để hạch toán, thì
phương thức phát hành MBB thông thường vẫn duy trì các khoản cho vay này
ở nội bảng.
- Trong khi MBS và CMO có mối liên hệ trực tiếp giữa các luồng tiền
của khoản vay có thế chấp và các luồng tiền có thế chấp và các luồng tiền của
các chứng khoán, thì mối quan hệ này trong MBB chỉ là mối quan hệ cầm cố,
không trực tiếp giữa các luồng tiền của khoản vay có thế chấp và các luồng
tiền thanh toán lãi suất và gốc trái phiếu MBB.
Về bản chất khi một ngân hàng phát hành MBB và sau đó nếu ngân
hàng này bị phá sản, thì những người nắm giữ trái phiếu MBB là những người
được tiếp cận và có quyền được chia các tài sản để thế chấp phát hành MBB.
Hay nói cách khác, ngân hàng đã tách nhóm tài sản cho vay có thế chấp ở nội
bảng thành một nhóm (nhưng vẫn duy trì ở nội bảng) và dùng nó làm tài sản
cầm cố để phát hành trái phiếu MBB. Thong thường, có một công ty tín thác
luôn giám sát số tài sản đã được tách này. Do đó, các trái phiếu MBB do ngân

hàng phát hành luôn được bảo đảm bằng tài sản cầm cố có giá trị lớn hơn tổng
mệnh giá phát hành trái phiếu. Mô hình chứng khoán hoá thông qua MBB có
đặc điểm như sau:
- Giá trị tài sản cầm cố luôn lớn hơn tổng mệnh giá phát hành MBB.
- Người nắm giữ các trái phiếu MBB luôn là người có quyền đầu tiên
được phân chia tài sản cầm cố nếu như ngân hàng phá sản.
Cho nên, các trái phiếu MBB luôn được xếp hạng tín dụng rất cao, ví
dụ AAA, cho dù hệ số xếp hạng của toàn bộ hoạt động ngân hàng có thể là
BBB hoặc thậm chí thấp hơn. Do được xếp hạng tín dụng cao, cho nên các
trái phiếu MBB có mức lãi suất coupon thấp, đây là một lợi thế rất lớn đối với
ngân hàng.
Tuy nhiên ở một số nước mà điển hình là Mỹ mô hình này không được
khuyến khích lắm và luôn đứng trước rủi ro bị can thiệp bất cứ lúc nào bởi
25

×