LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế nước nhà, sự hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán là tất yếu. Thị trường chứng khoán
hình thành và phát triển sẽ giải quyết được nhiều vấn đề khó khăn của nền
kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
Ngày 20 tháng 7 năm 2000 trung tâm giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh và cũng là trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của
Việt Nam đã chính thức được thành lập. Như vậy từ đây nền kinh tế Việt
Nam đã có thêm một kênh huy động vốn mới, đây là một sự kiện đáng ghi
nhớ và có ý nghĩa quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của nước ta.
Theo kinh nghiệm của các nước thị trường chứng khoán chỉ ra đời và
phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định mà đặc biệt là đặc
biệt của hệ thống tài chính. Hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu dựa vào hệ
thống các ngân hàng. Hệ thống các ngân hàng có một vị trí đặc biệt quan
trọng đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Không một
nước nào trên thế giới có thị trường chứng khoán phát triển mà không có
một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Tuy nhiên ở Việt Nam các ngân hàng
thương mại hoạt động vẫn còn thiếu năng động và kém hiệu quả với các
nghiệp vụ truyền thống, với trình độ công nghệ truyền thống. Vì vậy đổi
mới hoàn thiện và phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam để
thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam được coi là vấn
đề bức xúc và cần được quan tâm.
Chính vì lẽ đó mà em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy sự tham gia
của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Đức Hiển người đã
giúp em hình thành lên ý tưởng và tư duy cần thiết cho việc hoàn thành đề
án này.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái niệm và bản chất thị trường chứng khoán (TTCK)
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng
khoán
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thị trường vốn là một, chỉ là
tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: thị trường tư bản (Capital
Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ
bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu
hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này
không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan
hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng “thị trường
chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là
một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau,
trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài
hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu Công ty. Các công cụ
tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm
vi sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn
và trong từng điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển
chung của TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi
các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay
bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài
sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự
khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị
trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Marker),
tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung
(Cver - The Counter Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay
đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá
trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá
thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng
hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và
giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là
thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của đầu tư mà ở đó, giá cả
của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu
tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất
và lưu thông hàng hoá.
1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), của Liên minh Châu Âu, của các khối thị
trường chung, đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc
độ và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã
khẳng định vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong phát triển
kinh tế:
Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính
thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn
của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán tạo một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị
trường tài chính, điều này buộc các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính phải quan tâm tới hoạt động của chính họ và làm giảm chi phí tài
chính.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn
tự có của các Công ty và giúp họ tránh được các khoản vay có chi phí cao
cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. TTCK
khuyến khích tính cạnh tranh của các Công ty trên thị trường. Sự tồn tại của
thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vỗn đầu tư
nước ngoài. Đây là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế.
Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối
công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành
chứng khoán ra công chúng, giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các
tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường
tầng lớp trung lưu trong xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với
quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng
và dân chủ. Việc giải toả tập trung quyền lực kinh tế cũng tạo điều kiện cạnh
tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa
sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên,
môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên
trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết
kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám chặt chẽ của
thị trường chứng khoán đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý,
tạo điều kiện kết hợp giữa lợi ích chủ sở hữu, nhả quản lý và những người
làm công.
Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở
cửa thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Điều này cho phép các Công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn,
tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả
năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các Công ty
trong nước.
Thứ năm, TTCK tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài
chính mà không tạp áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc
thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của chính phủ.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về
các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu
hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các Công
ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ.
Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Ngoài những tác động tích cực trên đây, thị trường chứng khoán cũng
có những tác động tiêu cực nhất định. Thị trường chứng khoán hoạt động
trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các thị trường mới nổi, thông tin được
chuyển tải tới các nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc
quyết định giá cả, mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên
cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy, giá cả chứng khoán không phản
ánh giá trị kinh tế cơ bản của Công ty và không trở thành cơ sở để phân phôí
một cách có hiệu quả các nguồn lực.
Một số tiêu cực khác của thị trường chứng khoán như hiện tượng đầu
cơ, hiện tương xung đột quyền lực làm thiệt hại cho quyền lợi của các cổ
đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường làm nản lòng các
nhà đầu tư và như vậy, sẽ tác động tiêu cực tới tiết kiệm và đầu tư. Nhiệm
vụ của các nhà quản lý thị trường là giảm thiểu các tiêu cực của thị trường
nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư và đảm bảo cho chính hiệu quả
của thị trường.
Như vậy, vai trò của thị trường chứng khoán được thể hiện trên nhiều
khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của thị trường chứng
khoán có thực sự được phát huy hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể
tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước.
1.3. Các hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán.
Thực hiện chức năng cơ bản là biến tiết kiệm thành đầu tư, hoạt động
của thị trường chứng khoán chủ yếu diễn ra thông qua các giao dịch - mua,
bán và đầu cơ chứng khoán. Tuy vậy có thể nói rằng các hoạt động của thị
trường chứng khoán diễn ra rất đa dạng, phong phú và rất phức tạp. Chúng
ta chỉ có thể nghiên cứu và mô phỏng một số các hoạt động cơ bản diễn ra
trên thị trường cấp I và thị trường cấp II như dưới đây mà thôi.
1.3.1. Các hoạt động trên thị trường cấp I: phát hành và chuẩn bị giao
dịch.
Hoạt động trên thị trường cấp I bao gồm phát hành chứng khoán và
chuẩn bị đưa chứng khoán vào giao dịch ở thị trường cấp II. Tại thị trường
cấp I, những doanh nghiệp và Nhà nước có nhu cầu về vốn sẽ phát hành ra
các công cụ tài chính để “gọi vốn” và các công cụ tài chính này sẽ được
mua bán lần đầu tiên. Việc mua bán ở đây chỉ diễn ra giữa chủ thể phát hành
ra chứng khoán với các tổ chức tài chính như các ngân hàng thương mại lớn
và các tổ chức chuyên nghiệp trong kinh doanh chứng khoán. trong những
trường hợp nhất định có thể có sự tham gia của cả Ngân hàng Trung ương,
song chưa có những khách hàng - cá nhân, doanh nghiệp, hay những nhà
đầu cơ. Người phát hành ra chứng khoán và chuyển chúng cho các tổ chức
đại diện phát hành hay các trung gian tài chính nói trên. Để số chứng khoán
này có thể được đưa vào giao dịch trên thị trường cấp II, đòi hỏi phải có sự
đánh giá, phân loại theo một số những tiêu thức khác nhau. Một số những
chứng khoán trong số đó hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước
sẽ được lựa chọn quảng cáo và đưa vào niêm yết tại sở giao dịch. Số còn lại
sẽ chỉ được giao dịch ngoài Sở, trên các thị trường bán tập trung và thị
trường vô hình. Vì chưa có các đối tượng khách hàng và nhà đầu cơ do vậy
giá cả của thị trường này sẽ được hình thành trên cơ sở mệnh giá, phụ thuộc
vào chiến lược huy động vốn và lựa chọn cổ đông của người phát hành và
phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường. Như vậy hoạt động chủ yếu của thị
trường cấp I là những hoạt động phát hành, quảng cáo và chuẩn bị đưa các
loại chứng khoán vào giao dịch.
1.3.2. Các hoạt động trên thị trường cấp II.
Khác với hoạt động trên thị trường cấp I, hoạt động của thị trường cấp
II diễn ra rất đa dạng phong phú và rất phức tạp với sự góp mặt của đầy đủ
các chủ tyể và thông qua tất cả các phương thức giao dịch khác nhau. Chúng
ta có thể tìm hiểu hoạt động của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt
động của Sở giao dịch, hoạt động của thị trường bán chính thức và các hoạt
động của thị trường vô hình.
* Hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán
Nhìn chung các hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán diễn ra trên
sàn giao dịch. Tại đây các nhà môi giới, các tổ chức kinh doanh chứng
khoán thương lượng và đấu giá mua bán chứng khoán trên cơ sở các lệnh
đặt hàng của khách hàng. Lệnh đặt hàng chính là yêu cầu của khách hàng về
số lượng, giá cả và thời gian thực hiện các giao dịch nhằm đạt được những
lợi ích mong muốn.
Khách hành muốn mua hay bán chứng khoán sẽ kết hợp một hợp
đồng với Công ty môi giới và lệnh đặt hàng sẽ được xác lập để cụ thể hoá
hợp đồng đã được ký kết. Như vậy vấn đề cơ bản về hoạt động của sở giao
dịch là các loại lệnh do khách hàng đặt hàng đối với những người môi giới
của mình và những người môi giới chuyển các lệnh đó đến sàn giao dịch để
các chuyên gia chứng khoán hay còn gọi là người môi giới lập giá thực hiện.
Các hoạt động của sở giao dịch luôn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, rất
nghiêm ngặt bao gồm nguyên tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên
tắc công khai.
* Hoạt động của thị trường bán tập trung (thị trường OTC)
Như chúng ta đã biết, thị trường bán tập trung không phải là thị
trường hiện hữu, trái lại trên thị trường này các giao dịch chứng khoán hoàn
toàn được thực hiện bởi các thành viên - các cttt chứng khoán - thông qua hệ
thống thông tin và máy tính điện tử đã được nối mạng với nhau. Điều đáng
chú ý là các thành viên của thị trường OTC không phải là thành viên của bất
kỳ sở giao dịch chứng khoán nào, và họ thực hiện phần lớn nhưn giao dịch
cho chính mục đích kinh doanh chứng khoán chứ không phải thực hiện lệnh
của khách hàng. Nói cách khác, các Công ty chứng khoán hay các thành
viên của thị trường OTC cũng chính là khách hàng, là người giao dịch hay
những người tạo ra thị trường. Trên thị trường OTC “hàng hoá” là các loại
chứng khoán chưa được niêm yết giá tại bất kỳ sở giao dịch nào. Đây chính
là sự khác biệt giữa thị trường OTC với Sở giao dịch chứng khoán - từ đó là
Sàn giao dịch truyền thống hay sàn giao dịch điện tử.
* Hoạt động của thị trường phi tập trung
Đây là thị trường mà hoạt động mua bán chứng khoán của bất kỳ chủ
thể kinh tế nào, thông qua môi giới hoặc trực tiếp, diễn ra suốt ngày đêm ở
khắp mọi nơi với phần lớn là các giao dịch theo phương thức trao ngay.
Chính vì điều này mà người ta thường ít quan tâm đến thị trường phi tập
trung hoặc coi đó là thị trường vô hình. Trên thực tế, hoạt động của thị
trường vô hình lại chính là cơ sở hình thành và phát triển của thị trường
chính thức và ngay cả khi thị trường chính thức đã ra đời và phát triển thì
những giao dịch của thị trường vô hình vẫn có ý nghĩa rất quan trọng. Thị
trường vô hình không chỉ làm tăng tính sôi động mà còn góp phần vào ổn
định giá cả và lượng cân bằng trên thị trường chính thức, đặc biệt là những
giao dịch với khối lượng lớn từ 10.000 chứng khoán - giao dịch khối.
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại (NHTM)
2.1.1. Quan niệm về Ngân hàng tmn
Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng NHTM là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Là một doanh nghiệp NHTM cũng có tổ chức hoạt động theo mô hình
như bất kỳ doanh nghiệp nào khác, dựa trên cơ sở pháp lý và mục đích lợi
nhuận. Điều khác biệt của một NHTM với một loại hình doanh nghiệp nào
đó chính là ở đối tượng và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã
rất đặc biệt - tiền tệ và tín dụng. Ngoài ra do các hoạt động kinh doanh tiền
tệ và tín dụng của NHTM luôn có những ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng
đến toàn bộ nền kinh tế do vậy mà các NHTM luôn được coi là những doanh
nghiệp đặc biệt. Chính vì điều này mà ngoài những quy định pháp lý chung
đối với các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng được quản lý theo những luật
định và các cơ quan chức năng nhất định của Nhà nước.
2.1.2.Phân loại.
* NHTM quốc doanh: Là NHTM được thành lập từ 100% vốn ngân
sách Nhà nước
* NHTM cổ phần: Là NHTM được thành lập dưới hình thức Công ty
cổ phần trong đó có một cá nhân hoặc một tổ chức không được sở hữu số cổ
phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN quy định.
* Ngân hàng nước ngoài: Là ngân hàng được thành lập theo pháp lệnh
ngân hàng nước ngoài. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là cơ sở của ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam hoạt động theo pháp lệnh Việt Nam.
* Ngân hàng Liên doanh: Là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp
của bên NHVN và bên ngân hàng nước có có trụ sở tại Việt Nam, hoạt động
theo pháp lệnh Việt Nam.
* Ngân hàng đầu tư và phát triển: là ngân hàng quốc doanh, nhận vốn
đầu tư phát triển từ NHNN để đầu tư cho các dự án phát triển kỹ thuật củann
và huy động vốn trung, dài hạn trong nước, ngoài nước để cho vay trung
hạn, dài hạn là chủ yếu.
2.2. Các hoạt động của NHTM thị trường chứng khoán
2.2.1. Mỗi ngân hàng là một nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
Ngân hàng thương mại ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một
trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy đoọng được để tiến hành cho
vay mà còn thực hiện hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán
như một nhà đầu tư. Hoạt động đầu tư này cho chính ngân hàng bằng nguồn
vốn kinh doanh của mình (trong điều kiện luật pháp quốc gia cho phép các
ngân hàng thực hiện kinh doanh chứng khoán) nhưng cũng có thể là ngân
hàng mua bán, kinh doanh chứng khán theo sự uỷ thác của khách hàng.
Cùng với việc đầu tư, các ngân hàng còn có thể đầu cơ chứng khoán
trên thị trường. Qua việc đầu cơ chứng khoán, các ngân hàng có thể thu hút
được lợi nhuận bằng cách tiến hành mua chứng khoán để bán chứng khoán
tại các thời điểm khác nhau khi có sự biến động về tỷ giá.
Hai hoạt động này chính là nghiệp vụ kinh doanh trực tiếp cua các
ngân hàng trên thị trường chứng khoán. Các ngân hàng có thể kiếm được
nhiều lời hơn trong loại chứng khoán nào và họ cũng giảm được chi phí giao
dịch do tiến hành mua chứng khoán đối với khối lượng lớn.
2.2.2. Ngân hàng thực hiện thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán.
Cùng với việc áp dụng công nghệ tin học và viên thông hiện đại mọi
lĩnh vực kinh tế - xã hội, kỹ thuật tin học phát triển khiến cho công nghệ
thanh toán qua ngân hàng trở nên ngày càng hiện đại. Ngày nay, ngành ngân
hàng đã và đang phát triển một hệ thống thanh toán bù trừ tiền và những
giấy tờ có giá riêng cho ngành. Hệ thống này có thể mở rộng và cho phép
thanh toán bù trừ ghi sổ trong một thời gian rất nhanh chóng. Nhờ có hệ
thống thanh toán bù trừ của ngân hàng mà hoạt động thanh toán chứng
khoán đảm bảo được yêu cầu về thời gian, độ chính xác nhằm phục vụ cho
các đối tượng mua bán chứng khoán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng với cơ sở vật chất, độ chuyên môn nghiệp vụ
cũng như những kinh nghiệm trong hoạt động bảo quản và các giấy tờ có giá
vốn rất được tín nhiệm của công chúng sẽ đảm nhiệm tốt dịch vụ lưu ký
chứng khoán bao gồm bảo quản an toàn chứng khoán, giữ gìn bí mật về
thông tin chứng khoán, thực hiện thanh toán cho tất cả các chứng khoán gia
dịch. Đồng thời, khi khách hàng lưu ký có liên quan như thu lãi chứng
khoán hộ khách hàng hay chuyển nhượng chứng khoán theo sự uỷ quyền
của khách hàng.
2.2.3. Ngân hàng thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Ngân hàng thương mại hoàn toàn có khả năng bảo lãnh chứng khoán
và làm đại lý thực hiện bao tiêu số chứng khoán sắp phát hành đồng thời
cũng là người xác định giá cả, khối lượng chứng khoán phát hành. Khi
muốn phát hành chứng khoán ra thị trường, các doanh nghiệp cũng như các
tổ chức chính phủ cần phải có sự bảo lãnh của các ngân hàng thương mại,
bởi vì với sự bảo lãnh này thì công chúng sẽ tin tưởng và dễ dàng chấp nhận
đối với các chứng khoán mới. Với mạng lưới tổ chức rộng rãi gồm nhiều chi
nhánh, những kinh nghiệm trong kinh doanh, những quan hệ với nhiều đối