Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

đồ án tốt nghiệp phân tích và thiết kế anten cassegrain cho các trạm vệ tinh mặt đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (733.04 KB, 104 trang )

PHẦN 1
LÝ THUYẾT ANTEN
CHƯƠNG I : KHÁI NIỆM TRƯỜNG ĐIỆN TỪ
oOo
I. Đặc điểm sóng điện từ.
Toàn bộ lý thuyết anten được xây dựng trên cơ sở của sóng điện từ.
Điện trường và từ trường đồng thời tồn tại trong không gian thống nhất tạo
thành trường điện từ.
Trường điện từ là một dạng vật chất cơ bản, chuyển động với
vận tốc c trong mỗi hệ quy chiếu quán tính trong chân không; nó thể hiện sự
tồn tại và vận động qua những tương với một dạng vật chất khác là những
hạt hoặc những môi trường chất mang điện.
Trường điện từ có mang năng lượng và nhiệt độ:

)DHBE(
2
1
W +=
(
3
m
J
)
Trường điện từ đặc trưng bởi các đại lượng sau :
E
: vector cường độ điện trường (
m
V
)
D
: Vector cảm ứng điện (


2
m
C
)
B
: Vector cảm ứng từ (
2
m
Wb
)
H
: Vector cường độ từ trường (
m
A
)
Trường điện từ được biểu diễn qua hệ thống phương trình Maxwell .
rot
E
= -
t
B


(1.1)
t
D
JHrot


+=

(1.2)
ρ=Ddiv
(1.3)
0Bdiv =
(1.4)
Ngoài ra còn có phương trình liên hệ :

EED
r
εε=ε=
ο
(
2
m
C
) (1.5)
HHB
r
µµ=µ=
ο
(
T
m
Vs
2
=
) (1.6)
EJ γ=
(
2

m
A
) (1.7)
J
:thông lượng vector mật độ dòng dẫn (
2
m
A
)

ρ
: phân bố điện tích khối (
3
m
C
)
γ
: độ dẫn điện của môi trường dẫn (
m
s
m
1
=

)

hệ số điện thẩm tuyệt đối của môi trường (
m
A
)

Đối với môi trường chân không
)
m
F
(
36
10
9
π
=ε=ε

ο
101
r
÷=ε
:các điện môi thông thường
1
r

: không khí
43
r
1010 ÷=ε
: một số muối senhet

hệ số từ thẩm của môi trường (
m
H
)
Đối với môi trường chân không

)
m
H
(10.4
7−
ο
π=µ=µ
1
r

: đối với môi trường thông thường
Nguồn tạo ra trường điện từ là dòng điện và từ
trường.
Ý nghóa hệ phương trình Maxwell.
- Phương trình Maxwell (1.1)và (1.2) nêu rõ từ trường và điện trường biến
thiên luôn gắn bó với nhau và luôn có tính chất xoáy.
- Phương trình Maxwell (1.3)và (1.4)mô tả dạng hình học của hai mặt thể
hiện điện trường và từ trường.
II. Sóng điện từ :
Phương trình sóng điện từ có dạng.

E
=
Eo
cos( t -
V
x
)
Tương tự :
B

=
Bo
cos( t -
)
V
x
Eo
,
Bo
, phụ thuộc điều kiện đầu.
Hàm
E
( x,t ) và
B
( x,t ) là các hàm sóng, như vậy điện trường và từ trường
lan truyền trong không gian dưới dạng sóng .
Vậy sóng điện từ là trường điện từ biến thiên truyền đi trong không gian. Sự
lan truyền của sóng điện từ thể hiện qua sự lan truyền năng lượng điện từ,
các cường độ trường (sóng E, sóng H )và các thế (sóng A, sóng ϕ).
Theo dạng các mặt phẳng đồng pha của sóng điện từ mà ta có sóng
điện từ phẳng, sóng trụ hoặc sóng cầu Sóng điện từ phẳng là sóng điện từ
có mặt đồng pha là mặt phẳng, phương truyền của sóng phẳng ở mọi nơi đều
vuông góc với một mặt phẳng xác đònh.
Sóng điện từ được gọi là đơn sắc hay đều hòa nếu các vector cường
độ điện trường, từ trường biến đổi hình sin theo thời gian với một tần số wxác
đònh.
- Sóng phẳng gọi là sóng phẳng đồng nhất nếu vector E,H của sóng phụ
thuộc chỉ một tọa độ không gian.
- Sóng trụ tròn là dạng sóng mà trường và năng lượng lan truyền theo chiều
bán kính r tỏa từ một trục ra không gian xung quanh hoặc hướng vào trục.


Tính chất của sóng điện từ tồn tại trong môi trường chất và trong môi
trường chân không.
a. Sóng điện từ có chức năng:
- Tạo chùm tia công suất theo một hướng đònh trước.
- Lái chùm tia để một khu vực nào đó có thể được bao phủ sóng.
- Cho phép đo đạc thông tin về góc để có thể xác đònh hướng.
b. Sóng điện từ là sóng không gian. Tại mọi điểm trong không gian, phương
E
,
B
đều vuông góc với phương truyền sóng. Ta nói sóng điện từ phẳng
thuộc loại sóng điện từ ngang TEM
c.
E
,
H
luôn cùng pha và có trò số luôn tiû lệ với nhau.
d. Biên độ điện trưồng và từ trường của sóng giữ không đổi trong quá trình
lan truyền.
e. Vận tốc dòch chuyển của các mặt đẳng pha được gọi là vận tốc pha
p
v
(hay là vận tốc truyền năng lượng của trường (cả điện và từ kèm theo nhau).

β
ω
=
p
v

(1.8)
trong đó β gọi là hệ số pha (rad/m)
f. Năng lượng và năng thông.
- Năng lượng sóng điện từ là năng lượng của trường điện từ.
Năng lượng này tồn tại trong vùng không gian có sóng điện từ.
- Năng thông là năng lượng truyền đi một đơn vò diện tích trong một đơn vò
thời gian.
Đònh nghóa :Vectơ Poynting.
Là vector mật độ dòng công suất điện từ, vector đó bằng công suất điện từ
chảy qua một đơn vò diện tích đặt vuông góc với dòng chảy
ExH=δ
III. Sóng điện từ trong môi trường bán dẫn điện đồng chất:
Ta có điện dẫn suất của môi trường γ

0 khi đó hệ thống các
phương trình Maxwell là:
rot
H
=

+
t
D


rot
E
= -
t
B



0Bdiv =

ρ=Ddiv
Nếu nguồn trường biến thiên theo qui luật điều hòa

.
jwt
)eERe(E =
(1.9)
Re là phần thực của đại lượng phức. Từ các phương trình liên hệ, lấy đạo
hàm (1.9), kết hợp với các phương trình liên hệ và so sánh với phương trình
Maxwell ta có:

)
m
F
()i1(
p
εω
γ
−ε=ε
Từ sự tương ứng trên sau khi khảo sát người ta rút ra kết luận :
1. Sóng thộc loại sóng ngang.
2. Vectơ cường độ điện trường và từ trường vuông góc với nhau và cả hai đều
vuông góc với phương truyền sóng.
3. Sóng lan truyền bò môi trường hấp thụ làm suy giảm biên độ. Mức độ suy
giảm theo hàm mủ đặc trưng bởi thừa số với σ =
ρ

λ
π

2
c
w
(1.10) là hệ số
hấp thụ.
4. Điện trường và từ trường truyền đi với vận tốc giống nhau v= c/n (m/s).
5. Ở một điểm trong không gian từ trường lệch pha với điện trường một góc.
ϕ = arctg
n
ρ
(độ)
6. Biên độ cường độ điện trường và từ trường có quan hệ với nhau bởi biểu
thức :
H
m
=
π
ρ+
120
n
22
E
m
(
m
A
)

Qua biểu thức của hệ số hấp thu (1.10)ï ta thấy rằng khi điện dẫn càng
tăng và bước sóng càng ngắn thì hấp thụ càng nhiều .
Truyền sóng qua môi trường bán dẫn điện (mặt đất, mặt biển) để giảm
bớt tổn hao nên dùng sóng có bước sóng lớn.
IV. Sóng vô tuyến:
1. Đặc điểm của sóng vô tuyến:
Sóng vô tuyến có chung đặc tính với các dạng chuyển động khác. Có
thể nói một cách gần đúng, chuyển động sóng là bao gồm sự kế tiếp liên tục
những đỉnh sóng và đáy sóng với những khoảng cách bằng nhau và chuyển
động theo một tốc độ cố đònh. Ví dụ ta nhìn một mảnh gỗ nổi trên mặt nước
bò nâng lên và hạ xuống khi sóng đi qua, nhưng nếu không có gió và dòng
nước thì nó sẽ không dòch chuyển về bất cứ hướng nào. Điều đó chỉ ra rằng
sóng được tạo ra đầu tiên bởi một sự biến động nào đó ở xa, tònh tiến qua
môi trường (trong trường hợp này là biển) với một tốc độ cố đònh nhưng bản
thân môi trường thì không dòch chuyển. Khoảng cách giữa hai sóng liên tục
gọi là bước sóng (kí hiệu λ). Một dao động hoàn chỉnh từ một đỉnh sóng qua
đáy sóng đến đỉnh sóng kế tiếp gọi là chu kì. Số chu kì sóng đi qua một điểm
cố đònh trong một khoảng thời gian cho sẵn gọi là tần số (kí hiệu f), có thể
giải thích tần số bằng số chu kì trên giây gọi là Hez (Hz). Rõ ràng là số chu
kì trong một giây phụ thuộc vào bước sóng và tốc độ mà sóng truyền lan (tốc
độ kí hiệu là c). Sóng có bước sóng 2m chuyển động với tốc độ 10m trên giây
phải dao động với tần số là 5 chu kì trên giây.Mối quan hệ giữa các yếu tố
như sau:
Tốc độ bằng tần số x bước sóng
Hoặc C = f x λ (1.11)
Bằng cách suy luận từ sóng biển có thể chứng minh được sự thật xa hơn.
Một hòn đá ném xuống hồ cho thấy sóng sẽ truyền lan ra với tốc độ cố đònh
ở mọi hướng nếu như nó không bò cản trở.
Sóng vô tuyến có đầy đủ các đặc tính vừa mô tả khác nhau về bản chất ở
chổ sóng vô tuyến là sóng điện từ nó tạo nên bởi trường điện và trường từ,

mà không phải là chấn động cơ học. Sóng điện từ có đặc tính với sóng ánh
sáng, mặc dù bước sóng của chúng dài hơn yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến
đặc tính của chúng. Khi nói đến chúng người ta thường dùng khái niệm điện
hơn khái niệm từ, cường độ của chúng đựơc đo bằng vol/
m
, công suất đo
bằng oat/
2
m
. Sự tồn tại của năng lượng trong sóng điện từ được chứng minh
bởi một sự thực là nó cảm ứng dòng điện trong vật chất mà nó tiếp xúc. Sóng
vô tuyến có trục điện và trục từ vuông góc nhau. Sự đònh hướng các trục này
trong không gian gọi là phân cực và chúng đựơc biểu diễn theo hướng của
trục điện. Bước sóng của sóng vô tuyến hiện nay thường nằm trong khoảng
20.000m đến 4mm . Tốc độ của chúng trong không gian tự do là cố đònh
khoảng 300 triệu mét hoặc 161800 hải lý trên giây. Giá trò này được sử dụng
rộng rãi khi xét sự truyền lan của sóng trong khí quyển. Vì tốc độ là cố đònh,
khi tần số tăng thì bước sóng giảm. Ví dụ dưới đây chỉ rõ công thức đưa ra ở
trên được sử dụng như thế nào để đổi bước sóng ra tần số: Hãy tìm tần số của
một đài phát sóng vô tuyến phát trên bước sóng 1500m.

λ
=
c
f
, hoặc tần số =
Hz000.200
500.1
000.000.300
=


Tần số sóng vô tuyến thường được đo bằng các bội số của Hz như: 1
kilôhec (Khz) = 10
3
Hz, 1mêgahec (Mhz) = 10
6
Hz, 1gigahec (Ghz)=10
9
Hz.
Đối với một khoảng cách thời gian rất ngắn, thời gian thường được tính
bằng micrô giây( tức một phần triệu của giây). Sóng vô tuyến có bước sóng
ngắn như vậy gọi là sóng siêu ngắn (viba ).
Từ những so sánh đơn giản ở trên ta hiểu được bản chất chung của
sóng vô tuyến. Thuộc tính của chúng phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp
bức xạ chúng vào không gian. Nhưng điều cần nói ở đây là sóng vô tuyến có
thể được tập trung lại thành chùm tia theo một hướng nhất đònh và có thể bò
phản xạ, khúc xạ, tán xạ hay nhiễu xạ giống như sóng ánh sáng tùy thuộc
vào bản chất môi trường mà chúng đi qua và những mục tiêu mà chúng tiếp
xúc.
2. Sự đònh hướng.
Ta chỉ xét thời điểm mà lúc sóng bắt đầu truyền trong không gian.
Kích thước cần thiết của bộ phản xạ để tập trung sóng vô tuyến vào một
chùm tia với độ rộng cho trước, phụ thuộc vào bước sóng được sử dụng, bước
sóng càng dài thì bộ phản xạ càng rộng. Vì vậy để có một bộ phản xạ có kích
thước thích hợp, để nhận được một chùm tia hẹp phải sử dụng sóng có bước
sóng rất ngắn. Với bước sóng 3cm bộ phản xạ rộng 5 fút thì sẽ cho một chùm
tia rộng khoảng 1.5 độ với bộ phản xạ rộng 10 fút sẽ cho chùm tia rộng 0.75
độ.
Độ chính xác của việc do hướng chỉ cần thiết trên mặt phẳng ngang tức
là phương vò. Chúng ta dễ nhận thấy rằng, ở bất kỳ phương vò nào chùm tia

càng rộng thì cường độ của nó càng yếu.
Bộ phản xạ phát năng lượng đi theo một chùm tia hẹp với góc độ
nhất đònh, năng lượng ấy được phát từ tiêu điểm mặt phản xạ thì bộ phản xạ
cũng tập trung tất cả năng lượng từ nguồn bên ngoài đi đến nó rồi phản xạ về
cùng một tiêu điểm ấy theo cùng góc độ như lúc nó phát đi. Điều đó nói lên
rằng anten có tính đònh hướng cho cả thu và phát. Nó không những có lợi cho
độ chính xác của việc do hướng mà còn làm tăng cường độ của sóng thu
được.
Sự suy giảm cường độ tín hiệu theo khoảng cách: cường độ của tín hiệu
thu được ở một điểm sẽ biến đổi khi thay đổi khoảng cách của điểm đó đến
máy phát như sau:
+ Cường độ trường( đo bằng vol/
m
) tỉ lệ nghòch với khoảng cách.
+ Công suất( đo bằng oat/
2
m
) tỉ lệ nghòch với bình phương khoảng cách. ï
V. Công suất truyền sóng lý tưởng.
Giả sử nguồn bức xạ là đẳng hướng và được đặt trong một không
gian tự do. Nghóa là trong một môi trường đồng nhất, đồng hướng không hấp
thụ và có hệ số điện thẩm tương đối bằng một.
Ta tính mật độ thông lượng năng lượng của trường bức xạ ở một
khoảng cách kể từ nguồn và giả thuyết là năng lượng bức xạ phân bố đồng
đều trên mặt cầu bán kính r.
Biểu thò công suất bức xạ bằng W. Đơn vò chiều dài là m , ta có
biểu thức thông lượng năng lượng qua một đơn vò điện tích của mặt cầu bán
kính r trong một đơn vò thời gian là:
S =
)m/W(

r4
2
2
π
ρ
(1.12)
Giá trò của biểu thức (1.12) cũng chính bằng giá trò trung bình của
vector Poynting ở trên mặt cầu ấy:
S = E
n
H
n
(1.13)
E
h
(V/m); H
n
(A/m) gọi là trò hiệu dụng của vectơ cường độ điện trường và từ
trường .
Trong đơn vò đo lường hợp pháp
H = E/120 ( A/m )
khi đó (1.13) được viết lại
S =
π
120
2
E
(W/
2
m

) Eh =
r
p30
(V/m)
Trong thực tế người ta dùng những hệ thống bức xạ có tính phương
hướng. Mức độ đònh hướng được đánh giá bởi hệ số phương trình D, hệ số D
là một hệ số đặc trưng cho mật độ tập trung năng lượng bức xạ của anten
theo một hướng nào đó. Có thể hiểu một cách đơn giản như sau: một anten có
hướng công suất bức xạ P và có hệ số tính phương hướng ở một hướng nào đó
là D sẽ tạo ra điểm thu ở hướng đó một cường độ trường có trò sẽ giống như
một anten về hướng có công suất PD tạo ra. Như vậy việc sử dụng anten có
hướng sẽ tương đương với việc tăng công suất bức xạ lên so với anten vô
hướng khi đó:
Eh =
r
PD90
Trò số biên độ của cường độ trường E
m
=
r
pD60
(V/m)
Trò số tức thời của cường độ trường bằng :
E =
r
pD60
cos ( t-
r
pD
c

n 60
) =
cos( wt-Kr )
w : tần số góc của sóng
K=
wc
w
π
2
=
là hệ số sóng

λ
: bước sóng không gian tự do.
Trường hợp nguồn bức xạ không phải đặt trong không gian tự do
mà đặt trên mặt đất dẫn điện lý tưởng, khi ấy năng lượng sẽ phân bố theo
một nữa hình cầu, trò số D sẽ tăng gấp đôi và cường độ trường sẽ tăng lên
2
lần.
VI. Phân loại sóng theo vô tuyến điện theo băng sóng và theo phương
thức lan truyền .
Các sóng vô tuyến điện chia thành 5 băng sóng.
1. Sóng cực dài: sóng có bước sóng lớn hơn 10.000 m (tần số thấp hớn 30
Khz ).
2. Sóng dài: là sóng có bước sóng từ 10.000 m đến 1.000 m.
3. Sóng trung: là sóng có bước sóng từ 1.000 m đến 100m ( tần số
300Khz đến 3 Mhz ).
4. Sóng cực ngắn : là sóng có bước sóng 10m đến 1mm (tần số 30 Mhz
đến 300.000 Mhz ).
 Những phương thức lan truyền của sóng vô tuyến điện

a. Những sóng vô tuyến điện lan truyền ở mặt đất sẽ lan truyền theo đường
thẳng với vận tốc không đổi. Do sự có mặt của mặt đất là dẫn điện, một mặt
gây phản xạ sóng, làm biến dạng cấu tạo của sóng và gây ra hấp thụ sóng
trong đất, mặt khác bò cuốn đi theo độ cong mặt đất do hiện tượng nhiễu xạ.
Những sóng này gọi là sóng đất. Vậy sự lan truyền sóng đất có thể bao gồm
tất cả các băng sóng đã nêu ở trên.
b. Tầng đối lưu là một lớp khí quyển nằm trực tiếp sát mặt đất lên đến độ
cao khoảng 10 – 15 km. Đó là một môi trường không đồng nhất.
c. Những sóng vô tuyến điện được truyền đi do sự khuếch tán trong tầng
đối lưu gọi là sóng tầng đối lưu. Những sóng với bước sóng ngắn hơn 10 m
mới có thể truyền đi theo dạng này. Tầng điện ly là một miền của khí quyển
cao nằm từ độ cao 60 km đến 500 km trên mặt đất. Tầng điện ly là môi
trường bán dẫn điện và sóng có thể phản xạ, từ đó ở những sóng dài hơn 10
m. Ở tầng điện ly là môi trường không đồng nhất nên nó có khả năng khuếch
tán sóng truyền đến những sóng ngắn hơn 10m.
Như vậy, những sóng vô tuyến điện được truyền
đi do sự phản xạ (một lần hoặc nhiều lần ), hoặc do
khuếch tán từ tầng điện ly gọi là sóng điện ly.
VII . Truyền sóng của những dải sóng khác nhau.
1. Đặc điểm lan truyền của sóng dài và sóng cực dài.
Từ việc truyền sóng ở trên mặt đất tầng đối lưu, tầng điện ly ở phần
trước ta sẽ rút ra kết luận cho việc truyền sóng của từng dải trong phương
thức nào cho thích hợp.
Đối với sóng dài và sóng cực dài, mặt đất có tính dẫn điện tốt. Do đó
khi truyền sóng theo phương thức sóng đất nó sẽ bò mặt đất hấp thụ ít hơn đối
với sóng trung và sóng ngắn. Mặt khác, do bước sóng của dải sóng này khá
lớn có thể so sánh với độ cong mặt đất nên sóng mặt đất có thể lan truyền
theo phng thức nhiễu xạ. Uốn cong theo mặt đất và đạt cự ly khá lớn. Do
những lý do trên sóng dài và sóng cực dài có thể truyền lan theo phương thức
sóng đất để đạt đến những cự ly khoảng 3000 km.

Với những cự ly lớn hơn 3000 km phải thực hiện sự truyền sóng bằng
tầng điện ly vì bước sóng lớn nó bò tầng điện ly hấp thụ mạnh nên người ta ít
sử dụng.
Khi lan truyền sóng dài và cực dài, người ta quan sát còn thấy
hiện tượng đối cực. Biết rằng, càng đi xa đài phát thì cường độ trường càng
giảm nhỏ. Nhưng nếu tăng cự ly lên nữa thì sẽ đến một miền mà ở đó cường
độ trường lại tăng lên. Miền này nằm đối diện với đài phát qua tâm trái đất
và gọi là miền đối cực.
Sóng dài và sóng cực dài không bò hiện tượng fading so với các sóng
khác nó truyền đi không được xa nhưng có ưu điểm là ổn đònh.
Ở các nước ôn đới người ta sử dụng các loại sóng này dùng cho đài
phát thanh đòa phương và thông tin cự ly gần không quá 1000 km.
Ở các nước nhiệt đới như Việt Nam sóng này bò ảnh hưởng nhiều của điện
trời (sầm sét, giông bảo, sự phóng điện của khí quyển ) nên không được sử
dụng
2. Đặc điểm truyền của sóng trung :
Sóng trung được ứng dụng chủ yếu trong truyền thanh, nó thể lan
truyền bằng sóng đất như sóng điện ly.
Cự ly truyền lan của sóng trung bằng phương thức sóng đất không
vượt quá 500km đến 700 km , với cự ly lớn hơn phải truyền lan bằng tầng
điện ly .
Sự biến đổi điều kiện truyền sóng về ban đêm và ban ngày.
- Ban đêm sóng trung truyền lan bằng cách phản xạ trên lớp E (lớp E mật độ
điện tử tương đối lớn ) nên về ban đêm có thể thực hiện bằng cả sóng đất lẫn
sóng trời.
- Ban ngày do sự xuất hiện của lớp D (có mật độ điện tích nhỏ )nên sóng này
sẽ cho truyền qua và chòu sự hấp thụ rất mạnh. Ban ngày chỉ có hiệu quả đối
với sóng đất.
Sự nhiễu loạn của điện ly không có ảnh hưởng đến
sóng trung vì sóng phản xạ ở lớp E là lớp rất ít bò

phá hoại trong thời gian bảo điện ly.


Hiện tượng fading của sóng trung :
Ở cự ly ngắn hiện tượng fading là hiện tượng giao thoa gọi là sóng đất và
sóng trời.
Ở cự ly xa hiện tượng fading là do giao thoa giữa sóng trời và sóng trời tại
điểm thu. Do mặt tầng điện ly thay đổi theo chiều cao, phản xạ của sóng
cũng biến đổi dẩn đến sự thay đổi quãng đường đi của sóng.
3. Đặc điểm truyền lan của sóng ngắn :
Sóng ngắn có thể truyền lan bằng sóng đất và sóng điện ly.
Khi tần số tăng sự hấp thụ của mặt đất đối với sóng mặt đất sẽ tăng.
Vì vậy, đối với sóng ngắn nếu dùng đài phát có công suất trung bình chỉ có
thể truyền lan được bằng sóng đất trong cự ly không vượt quá vài chục km.
Đối với cự ly lớn phải truyền sóng bằng sóng điện ly. Khi ấy có thể dùng
máy phát có công suất trung bình cũng có thể thông tin được và cự ly rất xa
tới hàng nghìn km.
CHƯƠNG II : SƠ LƯC VỀ ANTEN VÀ THÔNG TIN VỆ
TINH.
oOo
A. Sơ lược về Anten.
Trong một hệ thống vô tuyến, một sóng điện từ lan truyền từ máy
phát đến máy thu qua không gian. Việc truyền năng lượng điện từ trong
không gian có thể được thực hiện theo hai cách:
- Dùng các hệ truyền dẫn nghóa là các hệ dẫn sóng điện từ như đường dây
song hành, đường truyền đồng trục, ống dẫn sóng kim loại hoặc điện môi
Sóng điện từ truyền lan trong các hệ thống này thuộc loại sóng điện từ ràng
buộc.
- Bức xạ sóng ra không gian. Sóng sẽ được truyền đi dưới dạng sóng điện từ
tự do.

Do đó thiết bò dùng để bức xạ sóng điện từ hoặc thu nhận sóng từ không
gian bên ngoài được gọi là Anten.
Anten là một thiết bò bức xạ và thu năng lượng.
Chúng ta đã thấy anten là bộ phận quan trọng không thể thiếu được của
bất kỳ hệ thống vô tuyến điện nào, bởi vì đã là hệ thống vô tuyến nghóa là hệ
thống trong đó có sử dụng sóng điện từ thì không thể không dùng đến thiết bò
để bức xạ hoặc thu sóng điện từ. Anten quyết đònh rất nhiều các tính chất
khác nhau của tuyến thông tin liên lạc.
Anten có nhiều dạng và nhiều cấu trúc khác nhau có loại rất đơn
giản nhưng có loại rất phức tạp. Ta có hai loại anten là anten vô hướng và
anten có hướng.
a. Anten vô hướng: là anten có bức xạ công suất một cách đồng nhất
trong một góc khối 4π.
b. Anten có hướng: là anten mà nó tập trung công suất theo một hướng
nhất đònh vì vậy nó phụ thuộc vào hệ số hướng tính D( θ,φ ) và độ lợiG(
θ,φ ).
D( θ,φ) mô tả kiểu bức xạ, G( θ,φ ) cho ta biết sự tổn hao( nhiệt hay công suất
bức xạ vào các búp phụ )
Tuy nhiên phần tử phát xạ chính và thu chính chính là phần tử đối xứng
và không đối xứng.
Thông thường giửa anten phát và anten thu không nối trực tiếp với
nhau mà được ghép với nhau qua đường truyền năng lượng điện từ, gọi là
fiđe. Anten phát có nhiệm vụ biến đổi sóng điện từ ràng buộc trong fiđe
thành sóng điện từ do bức xạ ra không gian. Anten thu thì có nhiệm vụ ngược
với anten phát là tiếp nhận sóng điện từ tự do từ không gian bên ngoài và
biến đổi chúng thành sóng điện từ ràng buộc. Sóng này được truyền theo các
fiđe.
Yêu cầu của thiết bò anten – fiđe là phải thực hiện việc truyền và
biến đổi năng lượng với hiệu suất cao nhất và không gây méo dạng tín hiệu.
- Chấn tử đối xứng là một trong những nguồn bức xạ được sử dụng khá phổ

biến trong kỹ thuật anten. Nó gồm hai dây dài bằng nhau(hình trụ, chóp,
elipsôit) giữa dây fiđe như hình (2.1). Thường dùng nhất là chấn tử đối xứng
có chiều dài bằng nửa bước sóng và được gọi là chấn tử nữa bước sóng.
- Chấn tử không đối xứng có một đầu dây nối và một đầu của máy phát(hay
máy thu )còn đầu còn lại của máy phát (hay máy thu ) thì được nối đất hình
(2.2).
Hình 2-1.Chấn tử đối xứng. Hình 2-2.chấn tử không đối xứng.
Tùy theo ứng dụng của anten trong các hệ thống
thông tin vô tuyến, vô tuyến truyền thanh, truyền
hình, vô tuyến đạo hàng, vô tuyến thiên văn, vô
tuyến điều khiển từ xa , rada mà người ta dùng
các kết cấu tương tự của anten.
- Đối với các đài phát thanh và vô tuyến truyền hình thì anten cần bức xạ
đồng đều trong mặt phẳng ngang (mặt đất ), để cho các máy thu đặc ở các
hướng bất kỳ đều có thể thu được tín hiệu của đài phát. Song anten cần bức
xạ đònh hướng trong mặt phẳng đứng, với hướng cực đại song song mặt đất để
các đài thu trên mặt đất có thể nhận được tín hiệu lớn nhất và để giảm nhỏ
năng lượng bức xạ theo các hướng không cần thiết.
- Trong thông tin mặt đất hay vũ trụ thông tin chuyển tiếp, rada, vô tuyến
điều khiển từ xa thì yêu cầu anten bức xạ với hướng tính cao, nghóa là sóng
bức xạ chỉ tập trung vào một góc hẹp trong không gian.
Như vậy nhiệm vụ của anten không phải chỉ đơn giản là biến đổi năng lượng
điện từ cao tần thành sóng điện từ tự do mà phải bức xạ sóng ấy theo những
hướng nhất đònh, với các yêu cầu kỹ thuật cho trước.
I. Nguồn bức xạ nguyên tố của anten.
Khi khảo sát của anten phức tạp, ta phải khảo sát các nguồn bức
xạ nguyên tố để làm cơ sở. Nguồn bức xạ nguyên tố gồm có: lưỡng cực điện
và lưỡng cực từ.
1.Lưỡng cực điện.
Lưỡng cực điện là một đoạn dây dẫn mãnh và chiều dài l rất nhỏ so

với bước sóng (l<< λ ). Trên lưỡng cực điện dòng điện xoay chiều tại mọi nơi
đều cùng biên độ và pha.
Ở khoảng cách xa r>>l cường độ điện trường xác đònh bằng biểu thức :
E(
r
eKIlsisn
j
jKr−
=
θ
θ
30
)
(2.1)
Với K=
:,
2
λ
λ
π
bước sóng
Ta thấy cường độ trường phụ thuộc vào toạ độ khảo
sát, dòng điện trên lưỡng cực và bước sóng.
II. Lưỡng cực từ.
θ
ϕ
r
E(
θ
)

Vòng dây có diện tích s <<
2
λ
. Trên đó có một dòng xoay chiều Iv tạo nên
một trường điện từ xung quanh nó. Ta xem vòng dây này là một lưỡng cực từ
với dòng từ Im. Cường độ điện trường ở khu xa của vòng dây và lưỡng cực
này hoàn toàn giống nhau. Có khái niệm như vậy làm cho bài toán bớt phần
phức tạp.
Theo nguyên lý đổi tần, thường bức xạ của lưỡng cực là :
Em(
r
e
l
j
rjK−
−=
θ
λ
ϕ
sin
2
Im
)
(2.2)
Cường độ trường của lưỡng cực từ phụ thuộc vào dòng từ, kích thước của nó
trong tọa độ và bước sóng.
Trường bức xạ của một hệ thống anten được tính bằng cách cộng các trường
bức xạ của các nguyên tố riêng rẽ của hệ thống anten. Khi cộng ngoài biên
độ phải chú ý góc pha.
II. Các thông số của anten phát.

1. Điện trở bức xạ của anten Rbx (Ω ).
Rbx là 1 tham số biểu thò quan hệ giữa công suất bức xạ (W) với dòng điện
(A) chạy qua một điểm nào đó của anten.
Rbx=
ì
I
Pbx
(2.3)
Người ta thường xác đònh Rbx ở đoạn anten mà dòng điện có biên độ cực đại
hoặc ở các đầu vào.
Rbx phụ thuộc vào kích thước của anten so với bước sóng, hình
dạng anten và các yếu tố khác. Điện trở bức xạ là một hàm theo (l;λ )đối với
chấn tử đối xứng, nó chỉ phụ thuộc vào độ dài chấn tử chứ không phụ thuộc
đường kính của chấn tử.
Bảng (1). Điện trở bức xạ của chấn tử đối xứng có đội dài khác nhau:
L/λ RΣb l/λ RΣb l/λ RΣb
0.250
0.300
0.350
0.400
0.450
0.500
0.550
0.600
6.4
13
23
36
54
73.1

96
120
0.650
0.700
0.750
0.800
0.850
0.900
0.950
1.00
144
168
187
200
209
212
210
199
1.050
1.100
1.150
1.200
1.250
1.300
1.350
1.400
185
166
145
121

105
93
87
85
2. Tổng trở của anten :Ra
Tổng trở của anten gồm điện trở bức xạ (Rbx ) và điện trở tổn thao (Rth). Rth
biểu thò năng lượng tổn hao vào việc nung nóng dây dẫn và vật cách điện.
Ra =Rbx +Rth (2.4)
Nếu tính tổng trở đối vối dòng điện ở các đầu cắm anten thì gọi là điện trở
vào của anten (Ra vào).
Rth phụ thuộc vào kết cấu anten và dải sóng làm việc. Khi bước sóng giảm
thì Rth giảm. Ở các dải sóng ngắn thường có thể bỏ qua Rth.
3.Hiệu suất của anten.
Hiệu suất của anten là quan hệ giữa công suất bức xạ (Pbx)với toàn bộ công
suất đưa vào anten. Toàn bộ công suất đưa vào anten được bằng công
cộng với công suất tổn hao (Pth ).

Rbx
Rth
RthRbx
Rbx
PthPbx
Pbx
A
A
A
+
=
+
=

+
=
1
1
)(
2
2
η
(2.5)
Hiệu suất của anten cũng là một trong các thông số quan trọng đặc trưng cho
mức độ tổn hao công suất của anten.
4. Đồ thò phương hướng của anten.
Biểu thò sự phụ thuộc biên độ theo phương hướng bằng phương pháp toán học
hoặc đồ thò.
Khi biểu thò đặc tính phng hướng bằng đồ thò người ta dùng các đường cong
phẳng vẽ đặc tính phương hướng theo hai mặt phẳng chính, mặt phẳng ngang
và mặt phẳng đứng (đối với mặt đất ).
Búp của đặc tính phương hướng ứng với hướng phát cực đại gọi là búp
chính còn các búp khác gọi là búp phụ.
Ví dụ : búp hướng của anten đứng nối đất.
Hình 2-3.Búp hướng của anten nối đất.
5. Hệ số tác dụng phương hướng D.
Đó là tỷ số của bình phương cường độ trường ở hướng khảo sát trên
cường độ điện trường trung bình hay nói cách khác đó là tỉ số của mật độ
công suất bức xạ bởi anten ở điểm nào đó nằm trên hướng ấy, trên mật độ
công suất bức xạ bởi anten chuẩn cũng tại hướng và khoảng cách trên.
D=
2
)(
Etb

E
θ
(2.6)
Điện trường trung bình suy ra từ công suất bức xạ:

Stbr
2
4
ο
πρ
=

(2.7)
Stb :mật độ công suất bức xạ trung bình .
Stb=
π
240
2
Etb
(2.8)
Suy ra: Etb=
2
60
ο
ρ
r

(2.9)
Vậy: D=


ρ
θ
ο
60
)(
2
2
rE
(2.10)
Chú ý : khi dùng anten có tính phương hướng thì điều quan trọng là phải
hướng thật đúng hướng bức xạ cực đại về phía mà ta đònh thông tin.
6. Hệ số tăng tích của anten (G).
Hệ số tăng tích của anten là một thông số biểu thò cho đặc tính bức xạ của
anten so với hệ số đònh hướng vì nó không chỉ biểu thò đơn thuần đặc tính
đònh hướng của anten mà còn biểu thò sự tổn hao trên anten.
Hệ số tăng tích là tích số của hệ số tác dụng phương hướng với hiệu suất
anten. G là một tham số đầy đủ hơn nhất vì nó không những kể đến tác dụng
phương hướng mà còn kể đến cả công suất tiêu hao vô ích trong anten.
7. Đặc tính tần số với dải thông tần của anten.
Anten cũng là một hệ thống dao động có tính chọn lọc. Anten phải bảo đảm
được hiệu suất bức xạ cũng như đặc tính phương hướng trong bảng tần số làm
việc. Người ta chia ra :
a. Anten dải rộng:là anten dùng để làm việc ở một tần số sóng mang nhưng
bảo đảm bức xạ không méo nhưng tín hiệu có dải tần số rất rộng.
b. Anten băng sóng: là anten làm việc ở một vài tần số sóng mang.
8. Hệ số khuếch đại ε của anten.
Hệ số khuếch đại ε là tích số của hệ số tính phương hướng D với hiệu suất η:

ηε
.D=

(2.11)
ε: biểu thò mật độ công suất bức xạ ở một điểm quan sát náo đó lớn hơn bao
nhiêu lần so với trường hợp công suất vào Pv của anten được phân bố đều
trong không gian.
9. Độ dài hiệu dụng.
Độ dài hiệu dụng là chiều dài của một cạnh hình chữ nhật, có diện tích bằng
tích của biên độ dòng điện tại điểm cấp điện và độ dài ấy. Từ đây ta có thể
nói: độ dài hiệu dụng của anten là độ dài của một anten dây giả đònh có dòng
điện phân bố đồng đều với biên độ bằng biên độ dòng điện tại điểm cấp điện
của anten khảo sát. Độ dài hiệu dụng của anten có giá trò khác độ dài hình
học, và phụ thuộc vào bước sóng. Đối với dây dẫn có độ dài l=
2
λ
thì độ dài
hiệu dụng có giá trò
π
λ
nghóa là chỉ bằng 0.637l. Trường hợp dây dẫn có độ
dài rất nhỏ so với bước sóng thì độ dài hiệu dụng tiến đến độ dài hình học
của anten.
Anten có kết cấu hình học khác nhau nhưng nếu có cùng chiều cao hiệu dụng
như nhau thì mức độ thu như nhau.
B. Giới thiệu thông tin vệ tinh.
I. Giới thiệu chung.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ quá độ tới một xã hội đònh
hướng thông tin tiên tiến nhờ có các công nghệ mới trong nhiều lónh vực khác
nhau. Các loại thông tin truyền trên sóng vô tuyến, đó là viễn thông vô
tuyến, đã đi vào đời sống hằng ngày của chúng ta và chúng ta có thể cảm
nhận cuộc sống hiện tại của thế giới xung quanh chúng ta nhờ các phương
tiện truyền hình và điện thoại quốc tế.

Về đại thể các thông tin có thể được phân ra các loại như thông
tin dùng cáp đồng trục hoặc cáp sợi quang và thông tin vô tuyến sử dụng
sóng vô tuyến điện nối liền nhiều nơi trên thế giới vượt qua thời gian và
không gian.
Hiện nay, các hệ thống cáp biển dung lượng lớn sử dụng các cáp sợ quang đã
được đưa vào sử dụng cho thông tin quốc tế. Đối với thông tin vô tuyến quốc
tế, thông tin vệ tinh đã cung cấp các đường thông tin dung lượng lớn thay thế
cho thông tin sóng ngắn trước đây được sử dụng thường xuyên hơn.
Để đạt được thông tin vệ tinh hiệu quả hơn, cần phải hiểu rõ hệ
thống truyền dẫn, các công nghệ và cấu hình hệ thống trạm mặt đất.
1. Nguyên lý thông tin vệ tinh.
Một vệ tinh, có khả năng thu, phát sóng vô tuyến điện sau khi
được phóng vào vũ trụ dùng cho thông tin vệ tinh; khi đó vệ tinh sẽ khuếch
đại sóng vô tuyến điện nhận được từ các trạm mặt đất và phát lại sóng vô
tuyến đến các trạm mặt đất khác. Loại vệ tinh nhân tạo sử dụng cho thông tin
vệ tinh như thế được gọi là vệ tinh thông tin.
Do vệ tinh chuyển động khác nhau khi quan sát từ mặt đất, phụ thuộc
vào quỹ đạo bay của vệ tinh, vệ tinh có thể được phân ra vệ tinh quỹ đạo
thấp và vệ tinh đòa tónh.
Vệ tinh quỹ đạo thấp là vệ tónh mà nhìn từ mặt đất nó chuyển
động liên tục, thời gian cần thiết cho vệ tinh để chuyển động xung quanh quỹ
đạo của nó khác với chu kỳ quay của quả đất xung quanh trục của nó.Vệ tinh
đòa tónh là vệ tinh được phóng lên quỹ đạo tròn ở độ cao khoảng 36.000 km
so với đường xích đạo. Vệ tinh loại này bay xung quanh quả đất một vòng
mất 24 giờ. Do chu kỳ bay của vệ tinh bằng chu kỳ quay của quả đất xung
quanh trục của nó theo hướng đông cùng với hướng quay của quả đất, bởi
vậy vệ tinh dường như đứng yên khi quan sát từ mặt đất. Do vậy nó được gọi
là vệ tinh đòa tónh. Bởi vì một vệ tinh đòa tónh có thể bảo đảm thông ổn đònh
liên tục nên có nhiều ưu điểm hơn vệ tinh quỹ đạo thấp dùng làm vệ tinh
thông tin.

Nếu ba vệ tinh đòa tónh được đặt ở các vò trí cách điều nhau bên trên
xích đạo thì có thể thiết lập thông tin hầu hết các vùng trên quả đất bằng
cách chuyển tiếp qua một hoặc hai vệ tinh.
Cấu hình cơ bản nhất của một hệ thống thông tin từ trạm mặt đất qua vệ tinh
đến trạm mặt đất khác được trình bày như hình (2.5):
Hình 2-5. Cấu hình cơ bản của một hệ thống thông tin.
Đường hướng từ trạm mặt đất phát đến vệ tinh được gọi là đường lên và
đường hướng từ vệ tinh đến trạm mặt đất thu gọi là đường xuống. Hầu hết,
các tần số trong khoảng 6 GHz và/hoặc 14GHz được dùng cho đường lên và
các tần số ở khoảng 4GHz hoặc 11GHz được sử dụng cho đường xuống.
Quỹ đạo của vệ tinh nhân tạo có ba thông số quan trọng: khoảng
cách từ quỹ đạo vệ tinh đến mặt đất, hình dạng và góc nghiêng so với mặt
bình độ. Một thông số chung là mặt phẳng chuyển động của vệ tinh phải đi
qua tâm quả đất. Thời gian vệ tinh đi hết một đường quỹ đạo tỉ lệ thuận với
căn bậc ba của phân nửa trục quỹ đạo. Có ba dạng quỹ đạo cơ bản được dùng
cho vệ tinh: quỹ đạo êllip, quỹ đạo đồng bộ con, quỹ đạo đòa tónh.
Đối với quỹ đạo êlip và quỹ đạo đồng bộ con, thời gian đi của vệ tinh
hết một quỹ đạo khác với thời gian quay quanh trục của vệ tinh, nghóa là vệ
tinh chuyển động nhanh hơn khi càng gần mặt đất. Các vệ tinh viễn thông
đầu tiên được đặt trên các quỹ đạo thấp, từ 200 đến 500km. Chúng quay
vòng quanh trái đất trong khoảng hai tiếng đồng hồ. Các vệ tinh chụp ảnh,
hay quan sát mặt đất, cũng như các tàu con thoi và phòng thí nghiệm vũ trụ,
luôn luôn được đặt trên quỹ đạo thấp. Các loại vệ tinh này được gọi là vệ
tinh tònh tiến. Nó đòi hỏi anten thu luôn luôn phải di chuyển theo chúng,
trong thời gian nó xuất hiện. Thời gian này bằng khoảng một nửa thời gian
tồn tại của nó.
Nhờ vào sự phát triển của tên lửa phóng và các vệ tinh nên có thể đạt đến
quỹ đạo mà thời gian di chuyển của vệ tinh chung quanh trái đất trong 24 giờ,
quỹ đạo này gọi là quỹ đạo đòa tónh và vệ tinh nằm trên nó gọi là vệ tinh đòa
tónh.

Các đònh luật cơ học trong không gian, hay đònh luật Kepler đặt ra ba điều
kiện:
* Quỹ đạo phải nằm ở mức xích đạo để vệ tinh di
chuyển không lệch hướng.
* Quỹ đạo phải tròn để tốc độ vệ tinh không thay
đổi.
* Bán kính quỹ đạo phải đạt 42.200km hay 35.800km
cách mặt đất, do bán kính trái đất là 6.366km. Với
điều kiện như vậy thì chu kỳ quay vòng của vệ tinh
có thời gian bằng với trái đất tức là 23 giờ 56
phút. Lực hút của trái đất với lực li tâm của vệ
tinh sẽ bằng nhau. Bán kính của quỹ đạo, không lệ
thuộc vào khối lượng của vệ tinh, mà lệ thuộc vào
tốc độ góc của tốc độ góc của vòng quay.
Vệ tinh đòa tónh chuyển động với quỹ đạo trùng với chiều quay của trái đất sẽ
có tốc độ góc giống như tốc độ góc của trái đất. Vận tốc của vệ tinh trong
quỹ đạo đòa tónh là 3075m/s. Vì lý do này mà không có sự chuyển động tương
đối giữa vệ tinh đòa tónh và trái đất. Quỹ đạo đòa tónh ngày nay được sử dụng
phổ biến cho việc thực hiện truyền hình từ vệ tinh.
a.Tỉ số sóng mang trên nhiễu C/N (Carrier/Noise).
Đó là tỉ số giữa công suất của tín hiệu nhận được
với công suất N của tiếng ồn:
C/N = E+G-A-10logT-10logB-logK (2.12)
Trong đó: E = PIRE (dBW): công suất đẳng hướng bức xạ tương đương PIRE
được tính theo công suất của máy phát sóng và độ lợi của anten:
PIRE = 10log(
)GP
t
(2.13)
Với mật độ công suất trên diện tích phía bên trong hình cầu là

2
t
R4/P π
(W/
)m
2
.
G: độ lợi anten (dB).
A: sự suy giảm chung (dB).
T. nhiệt độ tiếng ồn của anten và đầu thu SHF(
)K
ο
.
B: độ rộng dải tần F của máy thu (MHz).
với 10logK=+226.6 dB (hằng số
Boltzmann).
Tỉ số C/N = 6:quá ồn chất lượng xấu.
8:mức giới hạn, một vài vệt nhiễu.
10: thu tốt, màu sắc đẹp.
12: thu rất tốt, chất lượng truyền hình bằng cáp
Để đảm bảo tỉ số tín hiệu trên nhiễu tại điểm thu cần đảm bảo các
thông số sau:
- Độ tăng tích của anten: khoảng 48.5dB (đối với anten thu 3m).
- Nhiệt độ nhiễu của anten: khoảng 23
K
ο
.
- Mật độ công suất tại ngõ vào máy thu: khoảng –110dBw/
2
m

.
b. Hệ số nhiễu nhiệt G/T của trạm thu.
Hệ số này biểu thò ảnh hưởng của nhiệt độ lên độ lợi của vệ tinh.
Nhiệt độ càng tăng thì nhiễu càng lớn, thường tại giá trò nhiệt độ là 0
K
ο
thì
không bò ảnh hưởng của nhiễu. Giá trò này cho phép chọn anten thu thích hợp
tùy theo C/N. Chúng ta có:
G/T = C/N+E+A+logB+10logK (2.14)
Tùy theo PIRE của vệ tinh, chúng ta sẽ khẳng đònh chất lượng hình ảnh C/N.
Sau đó chọn giá trò tiếng ồn của đầu SHF thêm vào, sự suy giảm chung A, độ
rộng dải tần B và 10logK sẽ cho ra giá trò của độ lợi anten tính bằng dB.
c. Góc ngẩng tối thiểu.
Vùng phủ sóng của một vệ tinh được giới hạn bởi góc ngẩng. Đó
là góc bù hình thành từ đường thẳng nối liền nơi thu đến vệ tinh, với đường
thẳng đứng tại nơi thu. Về mặt lý thuyết vệ tinh đòa tónh có thể phủ sóng 1/3
trái đất. Tuy nhiên, trong thực tế không thể thực hiện được, bởi vì góc ngẩng
của anten bò hạn chế để loại trứ sự che khuất của đòa hình. Góc ngẩng này
không thể nhỏ hơn 20
ο
, vì vậy vùng thu tín hiệu trên mặt đất giới hạn giữa
60
ο
kinh tuyến bắc-nam và 60
ο
vó tuyến đông- bắc. Các vùng rừng núi, thung
lũng góc ngẩng tối thiểu phải là 30
ο
.

Các vệ tinh cùng công tác trong một dải tần số phải được đặt
trong quỹ đạo đòa tónh với góc chênh lệch nhau 2
οο
−3
và đảm bảo vò trí vệ
tinh sao cho anten phát luôn hướng đúng về vùng phủ sóng trên mặt đất.Điều
này rất quan trọng vì anten phát trên vệ tinh có tính đònh hướng cao. Nếu
không đảm bảo tốt điều kiện này thì vùng phủ sóng của anten sẽ lệch sang
một số nước lân cận.
Góc ngẩng (E) và góc phương vò (Az) sẽ đònh vò anten thu để thu
bất kỳ một quả vệ tinh nào, các quả vệ tinh khác nhau thì hai thông số trên
của anten phải được tính toán đúng vò trí của anten phát trên vệ tinh có kinh
độ khác nhau trên từng vệ tinh.
Anten thu sẽ có các giá trò góc ngẩng và góc phương vò tương ứng khác
nhau, phù hợp với quả vệ tinh cần thu.
Ta có thể dùng một gương anten thu cùng 3 quả vệ tinh đồng thời và có
ưu điểm:
- Tiết kiệm được gương anten thu.

×