Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

359 Hoàn thiện thủ tục phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.78 KB, 109 trang )

Luận văn tốt nghiệp 1 Đại học KTQD
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập thị trường, nền kinh tế Việt Nam
cho thấy quá trình tự do hoá không chỉ dừng lại ở các quan hệ giao dịch
thương mại, hàng hoá mà còn mở rộng các quan hệ cung cấp dịch vụ. Nằm
trong xu thế đó, dịch vụ kiểm toán, kế toán ở nước ta hiện nay ngày càng mở
rộng và tự khẳng định mình trong nền kinh tế xã hội.
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán trong nhiều năm qua
vừa là xu hướng tất yếu khách quan có tính qui luật của nền kinh tế thị
trường, vừa là bộ phận quan trọng của hệ thống công cụ quản lý vĩ mô nền
kinh tế tài chính đã đóng vai trò tích cực trong việc phát triển nền kinh tế xã
hội.
Một trong những loại hình dịch vụ chủ yếu mà công ty kiểm toán cung
cấp cho khách hàng đó là hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính. Trong đó,
các công ty kiểm toán xem xét, kiểm tra và đưa ra kết luận về các báo cáo tài
chính có được lập phù hợp với các qui tắc, chuẩn mực và phương pháp kế
toán, có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của doanh nghiệp
hay không.
Với mục đích xây dựng khung pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động kiểm
toán hiệu quả, Bộ tài chính đã ban hành các chuẩn mực kế toán và kiểm toán.
Trong số các chuẩn mực đó có chuẩn mực số 520 “Qui trình phân tích” đã
khẳng định thủ tục phân tích là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng
của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính.
Qua thời gian nghiên cứu tài liệu cùng tìm hiểu thực tế công tác kiểm
toán tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam, em đã nhận thức được tầm
quan trọng của thủ tục phân tích trong qui trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Vì vậy, em đã chọn đề tài “Hoàn thiện thủ tục phân tích trong kiểm toán
Báo cáo tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện”.
Luận văn của em gồm ba phần:
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 2 Đại học KTQD


Chương I: Lý luận chung về thủ tục phân tích trong qui trình kiểm
toán Báo cáo tài chính
Chương II: Thực trạng vận dụng thủ tục phân tích trong qui trình
kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
Chương III: Bài học kinh nghiệm và giải pháp hoàn thiện thủ tục phân
tích trong qui trình kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty Hợp danh Kiểm
toán Việt Nam
Để có thể hoàn thiện được Luận văn này, em đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình của Ths. Nguyễn Hồng Thuý, kiểm toán viên Nguyễn Phú Hà và
các kiểm toán viên tại CPA VIETNAM. Do giới hạn về thời gian và nhận
thức, Luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo tận tình của thầy cô giáo và các kiểm toán viên để Luận văn
của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 3 Đại học KTQD
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC PHÂN TÍCH
TRONG QUI TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. THỦ TỤC PHÂN TÍCH TRONG TRONG KIỂM TOÁN TÀI BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1. Tổng quan về kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1.1. Khái niệm Kiểm toán Báo cáo tài chính
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau, đều bình
đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn nghành nghề, lĩnh vực kinh doanh.
Do vậy có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình doanh nghiệp như: các nhà
tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng, chủ doanh nghiệp..., mỗi đối tượng quan
tâm đến tình hình doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau. Trong đó, Báo cáo
tài chính cũng là đối tượng quan tâm của các tổ chức, cá nhân này. Do vậy,
công việc kiểm toán các Báo cáo tài chính này cần có một công ty (văn

phòng) độc lập thực hiện.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán về Kiểm toán Tài chính, kiểm toán viên
phải kiểm tra và xác nhận tính trung thực và tính hợp lý của Báo cáo tài chính
cũng như xem xét Báo cáo tài chính có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn
mực kế toán và các yêu cầu pháp luật hay không. Kết quả xác minh này được
trình bày trên Báo cáo kiểm toán, đồng thời, trên cơ sở đó kiểm toán viên có
thể đưa ra các phán quyết hoặc những lời khuyên cho những nhà quản lý bằng
thư quản lý.
1.1.1.2. Đặc điểm của Kiểm toán Báo cáo tài chính
Kiểm toán tài chính là một hoạt động đặc trưng và một loại hình kiểm
toán phân theo đối tượng kiểm toán. Cũng giống như các loại hình kiểm toán
khác, kiểm toán tài chính có chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, có đối
tượng chung là các hoạt động được kiểm toán và sử dụng những phương pháp
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 4 Đại học KTQD
kiểm toán cơ bản (phương pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ). Tuy
nhiên, với chức năng, đối tượng và mối quan hệ chủ thể - khách thể khác với
các loại kiểm toán khác nên kiểm toán tài chính có cách thức kết hợp các
phương pháp kiểm toán mang tính đặc thù.
Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, có thể thấy, Kiểm toán tài chính
hướng tới công khai tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau trên cơ sở
bằng chứng kiểm toán đáng tin cậy. Để có được các bằng chứng này, Kiểm
toán tài chính cần triển khai các phương pháp kiểm toán cơ bản theo hướng
tổng hợp hay chi tiết tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
Về đối tuợng kiểm toán, Bảng khai tài chính và những thông tin tổng hợp
phản ánh nhiều mối quan hệ kinh tế, pháp lý cụ thể là đối tượng trực tiếp của
Kiểm toán tài chính. Tuy nhiên, các thông tin tài chính này có liên quan trực
tiếp đến các nghiệp vụ cũng như tình hình thực hiện văn bản pháp lý không
phải là đối tượng trực tiếp của Kiểm toán tài chính. Vì vậy, việc xem xét các
mặt, các yếu tố này trong thực trạng tài chính chỉ trên góc độ có liên quan trên

Bảng khai tài chính và được chọn lọc qua điều tra, đối chiếu, phân tích thực tế
tại khách thể kiểm toán.
1
Về trình tự kiểm toán, do mối quan hệ nội kiểm và ngoại kiểm, do Bảng
khai tài chính mang tính tổng hợp, tính công khai, tính thời điểm nên trình tự
mỗi bước kiểm toán cơ bản đều triển khai phù hợp với những đặc điểm của
đối tượng, của quan hệ chủ thể, khách thể. Trong Kiểm toán tài chính, trình tự
phổ biến được thực hiện là tiến hành kiểm toán theo trình tự ngược với trình
tự kế toán.
Trong kiểm toán tài chính, bằng các cách thức hay trình tự xác định trong
việc vận dụng các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng
từ vào việc xác minh các nghiệp vụ, các số dư tài khoản hoặc khoản mục cấu
1
Giáo trình Kiểm toán tài chính - NXB Tài chính , Hà Nội,7/2001- Chủ biên Gs.Ts Nguyễn Quang Quynh - Trang 29 - Khoa Kế toán
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 5 Đại học KTQD
thành bảng khai tài chính đã hình thành nên ba loại trắc nghiệm cơ bản: Trắc
nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích.
• Trắc nghiệm công việc (transaction) là cách thức và trình tự rà soát
nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong quan hệ với sự tồn tại và hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trước hết là hệ thống kế toán. Trắc
nghiệm công việc được chia thành hai loại:
Trắc nghiệm đạt yêu cầu công việc (compliance test of transaction) là
trình tự rà soát các thủ tục kế toán hay thủ tục quản lý có liên quan đến đối
tượng kiểm toán. Trắc nghiệm đạt yêu cầu được thực hiện trong tình huống
sau:
Có để lại dấu vết: Kiểm toán viên cần đối chiếu chữ ký trên các chứng từ
và xem xét chữ ký ký duyệt có đúng của người có thẩm quyền hay không.
Không có dấu vết: Kiểm toán viên cần phỏng vấn cán bộ, công nhân viên
có liên quan hoặc quan sát công việc thực tế của họ.

Trắc nghiệm độ vững chãi công việc (Substantive test of transaction) là
trình tự rà soát các thông tin về giá trị trong hành tự kế toán.
• Trắc nghiệm phân tích (analytical test) hay trình tự thẩm tra phân tích
(analytical review procedures) hay “quy trình phân tích” là cách thức
xem xét các mối quan hệ kinh tế và xu hướng biến động của các chỉ
tiêu kinh tế thông qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu
logic, cân đối...giữa các trị số (bằng tiền) của các chỉ tiêu hoặc bộ
phận cấu thành chỉ tiêu.
• Trắc nghiệm trực tiếp số dư (direct test of balances) là cách thức kết
hợp các phương pháp cân đối, phân tích, đối chiếu trực tiếp với kiểm
kê và điều tra thực tế để xác định độ tin cậy của các số dư cuối kỳ
(hoặc tổng số phát sinh) ở Sổ cái ghi vào Bảng cân đối tài sản hoặc
vào Báo cáo Kết quả kinh doanh.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 6 Đại học KTQD
Từ những trình bày trên, có thể thấy trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm
trực tiếp số dư và trắc nghiệm phân tích có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có
thể khái quát nội dung và mối quan hệ chủ yếu nhất của ba loại trắc nghiệm
cơ bản qua sơ đồ 1.
Sơ đồ 1.1: Các trắc nghiệm kiểm toán
Trắc
nghiệm
công
Trắc nghiệm đạt
yêu cầu
Trắc
nghiệm
trực
Trắc nghiệm
độ vững chãi

Trắc
nghiệm
phân
Trắc
nghiệm
Trắc nghiệm độ
vững chãi
Trắc nghiệm
đạt yêu cầu
1.1.2. Thủ tục phân tích trong hệ thống phương pháp kiểm toán
1.1.2.1. Bản chất của thủ tục phân tích
Thủ tục phân tích là một trong những thủ tục kiểm toán quan trọng. Để
tìm hiểu sâu hơn về thủ tục phân tích trước hết cần làm rõ một số khái niệm
có liên quan.
Theo cuốn Từ Điển Tiếng Việt - năm 2000, thủ tục là những bước liên
quan với nhau theo kiểu hệ quả dùng để giải quyết những vấn đề có cấu trúc
chặt chẽ
(tr 326)
.
Theo cuốn Từ Điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm từ
điển học Hà Nội 1997: Thủ tục là những công việc cụ thể phải làm theo một
trật tự qui định để tiến hành một công việc có tính chất chính thức
(tr 927)
.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Bằng chứng đầy đủ, có hiệu lực với
chi phí kiểm toán thấp
Luận văn tốt nghiệp 7 Đại học KTQD
Thủ tục kiểm toán là các buớc tiến hành để thu thập bằng chứng kiểm
toán và các bước công việc để triển khai các trắc nghiệm cụ thể trong chương

trình kiểm toán.
Cũng theo cuốn Từ Điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm
Từ điển học Hà Nội 1997: Phân tích là phân chia thật sự hay bằng trí tưởng
tượng một đối tượng nhận thức ra thành các yếu tố trái với tổng hợp.
(tr 764)
.
Các thủ tục phân tích được định nghĩa theo giáo trình Kiểm toán tài
chính (chủ biên: GS. TS Nguyễn Quang Quynh): “Thủ tục phân tích là cách
thức xem xét các mối quan hệ và xu hướng biến động của các chỉ tiêu kinh tế
thông qua việc kết hợp giữa đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic, cân đối giữa
các chỉ tiêu, từ đó giúp kiểm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán với
mức chi phí kiểm toán thấp”
(tr 20)
.
Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 56 (AU 318): “Thủ tục phân tích là
quá trình đánh giá thông tin tài chính được thực hiện thông qua việc nghiên
cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính...
bao gồm cả quá trình so sánh số liệu phản ánh trên sổ sách với số liệu ước
tính của kiểm toán viên”.
Theo điều 4 - Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520, thủ tục phân tích
được định nghĩa như sau: “Thủ tục phân tích là việc so sánh các thông tin, các
tỷ lệ bao gồm việc điều tra, xem xét, xu hướng biến động của các thông tin để
phát hiện và giải thích các biến động bất thường”
(3, tr111)
.
Tóm lại, có nhiều khái niệm về thủ tục phân tích nhưng chung qui lại
phân tích là quá trình dự đoán, so sánh, đánh giá các mối quan hệ để xác định
tính hợp lý của số dư tài khoản trên các khía cạnh khác nhau. Bản chất của
thủ tục phân tích là phương pháp tổng hợp nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt
chẽ nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán, đưa ra kết luận chính xác về mức độ

trung thực, hợp lý về Báo cáo tài chính. Trong đó, các mối quan hệ này gồm
mối quan hệ giữa thông tin tài chính với nhau và mối quan hệ giữa thông tin
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 8 Đại học KTQD
tài chính và thông tin phi tài chính. Các khái niệm dự đoán, so sánh, đánh giá
được hiểu như sau:
 Dự đoán: Là việc kiểm toán viên ước đoán về số dư tài khoản, xu
hướng liên quan đến dữ kiện về tài chính và hoạt động.
 So sánh: Là việc kiểm toán viên thực hiện so sánh thông tin tương ứng
kỳ này với kỳ trước, so sánh số thực tế với số ước tính của kiểm toán
viên, so sánh giữa số thực tế của đơn vị trong nghành có cùng qui mô
hoạt động.
 Đánh giá: Bằng trình độ, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kiểm toán
viên phân tích đưa ra kết luận về các chênh lệch xảy ra và giải thích các
chênh lệch đó.
Như vậy, thủ tục phân tích đóng vai trò quan trọng trong tất cả các cuộc
kiểm toán đồng thời là công cụ hữu hiệu trong việc thu thập các bằng chứng
kiểm toán và mức giảm chi phí tới mức có thể. Thủ tục phân tích được áp
dụng xuyên suốt trong toàn bộ kiểm toán báo cáo tài chính.
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán: Thủ tục phân tích được nhằm
đánh giá tổng quan hoạt động của đơn vị được kiểm toán đặc biệt hoạt động
tài chính ứng với rủi ro dự kiến. Từ đó, giúp kiểm toán viên phân tích rủi ro
trong lập kế hoạch đối với khoản mục, chu trình, nghiệp vụ kiểm toán.
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán: Thủ tục phân tích chủ yếu
được áp dụng và đóng vai trò quan trọng. Trong giai đoạn này, thủ tục phân
tích không phải đem lại bằng chứng trực tiếp mà giúp kiểm toán viên suy
đoán khả năng sai phạm ảnh hưởng tiếp đến trắc nghiệm trực tiếp số dư.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán: Thủ tục phân tích không được sử
dụng độc lập. Để củng cố thêm kết luận đưa ra thủ tục phân tích phải được kết
hợp với các thủ tục khác để xem xét tổng quát lần cuối toàn bộ số liệu đã

được kiểm toán hoặc có thể dự đoán nghiệp vụ bất thường hay phát sinh sau
quá trình kiểm toán.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 9 Đại học KTQD
Mối quan hệ giữa thủ tục phân tích và các thủ tục kiểm toán khác
Khi tiến hành kiểm toán, để đảm bảo hiệu quả, kiểm toán viên phải vận
dụng một cách thích hợp các loại hình trắc nghiệm: trắc nghiệm phân tích,
trắc nghiệm trực tiếp số dư và trắc nghiệm công việc. Ngay từ khi bắt đầu tiếp
cận kiểm toán, kiểm toán viên đánh giá về tính hiệu lực, hiệu quả của hệ
thống kiểm soát của khách hàng. Thử nghiệm kiểm soát tỏ ra rất hiệu quả
trong giai đoạn này. Tuy nhiên, thủ tục phân tích góp một phần rất quan trọng
để tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện qui chế kinh doanh của khách hàng. Từ
đó, giúp kiểm toán viên hiểu được bản chất nghiệp vụ kinh doanh, các khoản
mục.
Thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết cũng có mối quan hệ rất chặt chẽ
với nhau. Kiểm tra chi tiết được sử dụng để kiểm tra các tài khoản, khoản
mục và đưa ra kết luận về độ tin cậy của khoản mục đó. Trong khi thủ tục
phân tích đi sâu tìm hiểu về tính hiện hữu, quyền và nghĩa vụ về các khoản
mục được phân tích và cho phép đưa ra kết luận về khoản mục đó xét trên ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác nhau. Chẳng hạn, theo kết quả kiểm tra chi tiết
cho thấy chi phí tiền lương năm nay tăng lên 5% so với năm trước. Tuy nhiên
thông tin này sẽ không đầy đủ so với kết quả thu thập đuợc từ việc tiến hành
phân tích, đó là, chi phí tiền lương tăng lên là nhờ có sự tăng lên 3% mức tiền
lương nhân công và tăng 2% số lượng công nhân.
Đặc biệt, thủ tục phân tích thực hiện hiệu quả hơn kiểm tra chi tiết đối
với các tài khoản có mức độ rủi ro thấp. Ví dụ, khi tiến hành phân tích hoạt
động bán chịu của khách hàng, kiểm toán viên có thể kiểm tra các khoản dự
phòng các khoản phải thu bằng cách so sánh giá trị ghi sổ với giá trị ước tính
độc lập của kiểm toán viên dựa trên số liệu năm trước, doanh số bán hàng…
Trên thực tế, kiểm toán viên đôi khi chỉ sử dụng thủ tục phân tích có thể thu

được bằng chứng rất đầy đủ, thuyết phục. Như vậy, việc thực hiện thủ tục
phân tích trong quá trình kiểm toán sẽ giúp giảm bớt công việc kiểm tra chi
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 10 Đại học KTQD
tiết của kiểm toán viên, nâng cao hiệu quả kiểm toán. Để đảm bảo chất lượng
kiểm toán, các kiểm toán viên phải vận dụng các thủ tục kiểm toán một cách
linh hoạt tuỳ vào từng trường hợp cụ thể.
1.1.2.2. Lựa chọn thủ tục phân tích phù hợp
Khi tiến hành thực hiện thủ tục phân tích, Kiểm toán viên cần quan tâm
đến ba vấn đề sau:
- Lựa chọn loại hình phân tích phù hợp
- Lựa chọn dữ liệu phù hợp
- Thiết lập các qui tắc ra quyết định để xác định các biến động bất
thường
 Lựa chọn loại hình phân tích phù hợp
Khi thực hiện thủ tục phân tích chi tiết, Kiểm toán viên cần xác định các
biến tài chính hoặc các hoạt động và mối liên hệ giữa chúng. Ví dụ: Để tính
toán chi phí tiền lương có thể dựa vào các biến số là số nhân viên và mức tiền
lương bình quân hoặc số lượng sản phẩm và đơn giá tiền lương...Tuỳ thuộc
vào nguồn thông tin về các dữ liệu và độ tin cậy của các thông tin này, kiểm
toán viên lựa chọn các biến phù hợp để xác định mô hình. Vì vậy, với mỗi thủ
tục phân tích chi tiết cần xác định rõ việc phát triển mô hình là để dự đoán số
dư tài khoản hiện tại hay để dự toán thay đổi so với năm trước. Tuy nhiên,
việc dự đoán thay đổi so với năm trước chỉ có hiệu quả khi số dư năm trước
đã được kiểm toán vì khi đó, có thể loại ra khỏi mô hình những biến độc lập
không đổi so với năm trước. Chẳng hạn, có thể tính doanh thu hiện tại dựa
trên doanh thu năm trước và những thay đổi về tỷ lệ thuê phòng trong suốt
năm hiện tại so với năm trước khi giá thuê phòng không thay đổi.
Thông thường, để dự đoán chính xác, kiểm toán viên phải xây dựng mô
hình dựa trên những biến độc lập có liên quan. Trái lại, nếu mô hình đơn giản

quá nhiều dẫn đến các phép so sánh và bằng chứng kiểm toán không được
đảm bảo. Tuy nhiên, cũng có thể tăng tính chính xác của các dự đoán bằng
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 11 Đại học KTQD
cách phát triển các mô hình ước tính theo hướng chi tiết hoá dữ liệu, thậm chí
chi tiết hoá thành nhiều mô hình nhỏ hơn. Dưới đây là một số loại hình phân
tích phổ biến mà kiểm toán viên thường sử dụng để kiểm tra các thông tin tài
chính của khách hàng.
 So sánh giữa số liệu của khách hàng và số liệu chung của nghành
Mục đích của việc so sánh số liệu chung của toàn nghành mà khách
hàng đang hoạt động là nó giúp kiểm toán viên tìm hiểu về lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng cũng như xác định khả năng xảy ra các sai phạm về
mặt tài chính. Tuy nhiên, việc so sánh này cũng có hạn chế khi có sự khác
biệt giữa bản chất thông tin tài chính của khách hàng so với các doanh nghiệp
cùng nghành. Chẳng hạn, khi các doanh nghiệp cùng nghành sử dụng phương
pháp kế toán (phương pháp tính giá HTK, phương pháp khấu hao...) thì việc
so sánh không còn hiệu quả. Vì vậy, khi thực hiện so sánh này, kiểm toán
viên cần thận trọng trong việc đánh giá kết quả.
 So sánh số liệu năm nay với số liệu cùng kỳ năm trước của khách hàng
Từ kết quả so sánh, kiểm toán viên phát hiện những biến động bất
thường trong hoạt động kinh doanh của khách hàng. Chẳng hạn, trong những
năm trở lại đây, tỷ lệ lãi gộp trung bình đạt khoảng từ 25% đến 27%. Trong
khi đó, năm nay, tỷ lệ này chỉ đạt 18%. Sự sụt giảm này là vấn đề kiểm toán
viên cần quan tâm và xem xét nguyên nhân.
Thông thường, để so sánh số liệu hiện thời với số liệu năm trước, kiểm
toán viên sử dụng một số thủ tục phân tích sau đây:
• So sánh số liệu năm nay với năm trước
Khi so sánh số liệu năm nay với năm trước, kiểm toán viên lập 2 cột
gồm: Cột số dư tài khoản năm trước và số dư tài khoản của năm nay. Từ đó,
kiểm toán viên xác định sự biến động lớn trên số dư và tập trung kiểm tra,

xem xét.
• So sánh số dư của các tài khoản chi tiết qua các năm
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 12 Đại học KTQD
Khi tình hình hoạt động của khách hàng không có biến động mạnh trong năm
hiện tại thì các số dư của các tài khoản chi tiết trong tài khoản tổng hợp hầu
như không thay đổi. Ngược lại, nếu có sự biến động lớn các số dư của các tài
khoản chi tiết năm nay và năm trước, kiểm toán viên có thể khanh vùng xảy
ra rủi ro. Việc so sánh này có thể thực hiện giữa các năm hoặc vào cùng thời
gian nhất định trong năm. Thí dụ, kiểm toán viên có thể so sánh chi phí bán
hàng theo các tháng của năm nay so với cùng kỳ năm trước.
• Tính toán các tỷ suất để so sánh với năm trước
Phương pháp này khắc phục được hai nhược điểm của hai cách so sánh
trên. Đó là, nó đánh giá được sự gia tăng hay giảm sút hoạt động kinh doanh
và mối liên hệ giữa doanh thu và giá vốn hàng bán. Vì vậy, kiểm toán viên
thường sử dụng các tỷ suất này. kiểm toán viên có thể so sánh các tỷ suất giữa
năm nay với năm trước hoặc so sánh với số liệu chung của toàn nghành.
 So sánh số liệu thực tế với dự toán do khách hàng xác định
Phần lớn các doanh nghiệp đều thực hiện dự toán trên mọi lĩnh vực hoạt
động cũng như trong kết quả tài chính. Thực hiện so sánh số liệu thực tế với
dự toán của khách hàng có thể giúp kiểm toán viên xác định những sai phạm
tiềm tàng. Tuy nhiên, nếu không có chênh lệch lớn giữa số liệu thực tế và dự
toán cũng có thể vẫn chứa đựng các sai phạm. Thông thường, kỹ thuật này áp
dụng trong kiểm toán các cơ quan nhà nước. Có hai khía cạnh, kiểm toán viên
cần quan tâm khi thực hiện phương pháp so sánh này, đó là:
 Độ tin cậy của số liệu dự toán của khách hàng
 Các thông tin tài chính hiện tại có bị nhân viên của khách hàng làm sai
lệch để phù hợp với số kết quả dự toán hay không
Vì vậy, để đảm bảo kết quả so sánh chính xác, kiểm toán viên phải tiến
hành thảo luận với nhân viên khách hàng về thủ tục dự toán đồng thời, đánh

giá rủi ro kiểm soát và áp dụng các loại trắc nghiệm chi tiết.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 13 Đại học KTQD
 So sánh số liệu của khách hàng với số liệu ước tính dựa trên thông tin phi
tài chính
• So sánh số liệu của khách hàng với số liệu ước tính dựa trên thông
tin phi tài chính
Phương pháp này có thể hiểu qua ví dụ dưới đây:
Ví dụ: kiểm toán viên thực hiện ước tính doanh thu của một khách sạn
dựa trên số phòng, số phòng ngày trong tháng. Trong trường hợp này, kiểm
toán viên phải chú ý sự chính xác của thông tin sử dụng. Bởi vì, doanh thu
ước tính chỉ có thể trở thành bằng chứng khi kiểm toán viên cảm thấy thoả
mãn về tính hợp lý của số phòng và số phòng ngày trong tháng.
 Lựa chọn số liệu phù hợp
Để việc so sánh đạt hiệu quả, dữ liệu sử dụng trong thủ tục phân tích phải
phù hợp với các mục tiêu đã định. Chẳng hạn, khi đánh giá tính hợp lý trong
việc lập dự phòng phải thu khó đòi thì doanh thu mà kiểm toán viên sử dụng
để tính toán là doanh thu bán chịu, chứ không phải là tổng doanh thu.
Sự hợp lý được hiểu là mối quan hệ sử dụng trong thủ tục phân tích là
hợp lý và có thể dự đoán được. Mối liên hệ được xem là hợp lý khi có mối
liên hệ nhân quả một cách rõ rệt. Ví dụ: Khi kiểm toán viên kiểm tra chi phí
bán hàng (CPBH) thông qua phân tích xu hướng của chúng qua tỷ lệ nhất
định của doanh thu với giả thiết sự thay đổi trong doanh thu sẽ tất yếu dẫn tới
sự thay đổi trong CPBH. Tuy nhiên, đôi khi mối liên hệ giữa các số liệu là
hợp lý nhưng lại không thể dự đoán được một cách đầy đủ. Chẳng hạn, khi
kiểm tra các khoản phải thu (KPT), kiểm toán viên có thể dự toán được là sẽ
thay đổi khi doanh thu thay đổi nhưng mức độ thay đổi lại biến động rất khác
nhau. Do đó, việc sử dụng tỷ suất giữa các KPT và doanh thu để dự toán số
dư KPT có thể không đáng tin cậy. Các nhân tố ảnh hưởng tính có thể dự
đoán và hợp lý của các mối liên hệ bao gồm:

Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 14 Đại học KTQD
 Mối quan hệ trong một môi trường ổn định thì sẽ dễ dự đoán hơn mối
quan hệ trong một môi trường năng động, luôn biến đổi.
 Mối quan hệ liên quan tới các con số trên BCKQHĐKD thường có xu
hướng dễ dự đoán hơn mối quan hệ liên quan tới số dư các tài khoản
 Mối quan hệ liên quan tới các nghiệp vụ phụ thuộc vào sự định đoạt
của Ban Giám đốc thì ít khả năng dự đoán hơn
 Mối quan hệ trực tiếp dễ dự đoán hơn mối quan hệ gián tiếp
 Mối quan hệ được chia nhỏ thì chính xác hơn và cho thấy quan hệ rõ
ràng hơn mối quan hệ tổng hợp
 Các nguyên tắc ra quyết định
Mục đích của thủ tục phân tích là xác định sự hiện hữu hay vắng mặt của
các biến động bất thường. Để đánh giá các biến động bất thường thu được từ
thủ tục phân tích có đáng kể hay không, kiểm toán viên có thể xem xét các
cách tiếp cận phổ biến sau đây:
 Chênh lệch cao hơn một lượng tiền nhất định
Khi nhận thấy chênh lệch vượt quá mức chênh lệch có thể chấp nhận
được thì kiểm toán viên phải tìm hiểu nguyên nhân gây ra chênh lệch này. Ví
dụ: Khi tiến hành kiểm toán chi phí hoa hồng cho một khách hàng. kiểm toán
viên cho rằng một sai phạm vượt quá mức 50 TrVNĐ là trọng yếu. Nếu chênh
lệch thu được qua thủ tục phân tích vượt qua con số trên thì kiểm toán viên có
thể kết luận rằng số dư tài khoản chưa được trình bày hợp lý.
 Chênh lệch vượt quá một tỷ lệ % cụ thể
Ngoài việc sử dụng nguyên tắc quyết định cụ thể dưới dạng con số tuyệt
đối, kiểm toán viên sử dụng nguyên tắc quyết định qua tỷ lệ % nhất định. Ví
dụ: Nếu chênh lệch giữa số dư tài khoản chi phí chi tiết năm nay so với năm
trước vượt quá 10% hoặc một tỷ lệ phù hợp mà kiểm toán viên đã chọn thì
được coi là biến động bất thường.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44

Luận văn tốt nghiệp 15 Đại học KTQD
1.1.2.3. Các loại thủ tục phân tích trong Kiểm toán báo cáo tài chính
Các loại hình phân tích trong kiểm toán báo cáo tài chính bao gồm:
Kiểm tra tính hợp lý
Kiểm tra tính hợp lý là một thuật ngữ dùng để chỉ một phương pháp tính
toán nhằm đưa ra những ước tính về một giá trị nào đó như một số dư tài
khoản hay một loại hình nghiệp vụ.
Bằng việc so sánh số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, số liệu ước tính,
số liệu bình quân nghành, kiểm toán viên xác định được những chênh lệch.
Từ đó, kiểm toán viên tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch nhằm phát hiện ra
những sai sót trong Báo cáo tài chính hoặc những biến động lớn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Các so sánh cơ bản trong kiểm tra
hợp lý bao gồm:
- So sánh giữa chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu bình quân nghành
Bằng việc so sánh với các đơn vị trong cùng nghành, kiểm toán viên hiểu
rõ hơn công việc kinh doanh của khách hàng, đánh giá được thế mạnh tài
chính của khách hàng và triển vọng trong tương lai. Tuy nhiên, việc so sánh
này chỉ mang tính tương đối. Bởi vì, tuy hoạt động trong cùng nghành có
những đặc điểm cơ bản giống nhau, nhưng chúng cũng có những điểm khác
nhau về qui mô hoạt động kinh doanh, mặt hàng kinh doanh, môi trường hoạt
động, phương pháp tính giá. Đặc biệt, ngày nay, khi các doanh nghiệp có xu
hướng mở rộng hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá các sản phẩm của mình thì
việc so sánh chỉ tiêu bình quân nghành trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, kiểm
toán viên phải thận trọng khi sử dụng phương pháp này.
Khách hàng Ngành
2004 2005 2004 2005
Hệ số quay vòng hàng tồn kho 4,2 4,4 4,5 4,9
Tỷ lệ % của tổng số dư 34,3% 34,7% 40,6% 41,4%
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 16 Đại học KTQD

Nếu chỉ nhìn vào hai số liệu trong 2 năm của khách hàng cho thấy dường
như ổn định và không thấy có dấu hiệu khó khăn. Tuy nhiên, so sánh với
nghành tình hình kinh doanh của khách hàng đã trở nên xấu đi. Cụ thể là: năm
2004 khách hàng thực hiện tốt hơn so với nghành về cả hai tỉ lệ nhưng vào
năm 2005, khách hàng có vấn đề. Công ty có thể bị mất thị trường, có thể có
những chi phí bất thường hoặc công ty có hàng tồn kho lỗi thời.Trên cơ sở
những so sánh này, kiểm toán viên sẽ tiếp tục thu thập các bằng chứng để
chứng minh cho những dự đoán trên.
- So sánh thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính
Các thông tin tài chính được lượng hoá bằng các đơn vị tiền tệ. Các
thông tin phi tài chính là các dữ kiện kinh tế kỹ thuật do hệ thống hạch toán
nghiệp vụ, thống kê ... cung cấp. Việc so sánh thông tin tài chính với các
thông tin phi tài chính là việc kiểm toán viên xem xét mối quan hệ giữa các
thông tin này. Từ đó, giúp kiểm toán viên có thể phát hiện ra sai sót trong Báo
cáo tài chính. Ví dụ: Khi ước tính về doanh thu tiêu thụ hàng hoá bằng đơn
giá nhân với lượng hàng xuất bán. Để kết quả ước tính có hiệu quả, bên cạnh
các số liệu kế toán, kiểm toán viên cần xem xét đến những thông tin về thị
trường, nhu cầu khách hàng, chính sách bán hàng. Trong trường hợp, loại sản
phẩm của đơn vị cung cấp không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng,
kiểm toán sẽ tiến hành đi sâu tìm hiểu về chính sách bán hàng và quảng cáo
sản phẩm của đơn vị.
- So sánh số liệu của khách hàng với kết quả dự kiến của kiểm toán viên
Theo hình thức này, kiểm toán viên ước tính số dư của một tài khoản nào
đó bằng cách liên hệ nó với một vài tài khoản khác trên Bảng cân đối hoặc
Báo cáo kết quả kinh doanh. Nếu có sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước
tính và số liệu thực tế thì kiểm toán viên tiến hành thu thập bằng chứng để xác
định nguyên nhân.
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 17 Đại học KTQD
Ví dụ: Để ước tính chi phí lãi vay trên các phiếu nợ dài hạn phải trả bằng cách

nhân số dư chiết khấu hàng tháng trên các phiếu nợ phải trả với lãi suất hàng
tháng. Từ đó, kiểm toán viên so sánh thực tế chi phí lãi vay phát sinh với lãi
vay ước tính của kiểm toán viên để xem xét chi phí có hợp lý hay không.
- So sánh số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán
Bằng việc so sánh các chỉ tiêu tài chính giữa số liệu thực tế và số liệu kế
hoạch hoặc dự toán sẽ giúp kiểm toán viên phát hiện những chênh lệch lớn
giữa số liệu kế hoạch và dự toán. Từ đó, kiểm toán viên thấy được những sai
sót trong báo cáo tài chính hoặc những biến động lớn về sản xuất kinh doanh
cần kiểm tra.
Ví dụ: Khi so sánh chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi
phí tài chính giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch của khách hàng, kiểm
toán viên nhận thấy:
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch
Chi phí tài chính 143.453.266 420.200.400 276.747.134
Chi phí QLDN 569.000.782 900.564.200 331.156.418
Chi phí bán hàng 892.502.000 920.341.000 27.839.000
Qua quá trình kiểm tra cho thấy, chi phí tài chính tăng lên so với kế
hoạch chủ yếu là do lãi vay phải trả tăng lên 190.500.000, đồng thời khách
hàng đã trích rủi ro tài chính là 23.534.000 (không có qui chế tài chính qui
định cho việc trích lập này). Chi phí bán hàng tăng lên là do chi phí hoa hồng
trong năm tăng lên một cách đáng kể. Do đó, kiểm toán viên phải tiến hành
kiểm tra các khoản hoa hồng đã trích đúng hay chưa.
Phân tích xu hướng
Phân tích xu hướng (phân tích ngang) là sự phân tích những thay đổi
theo thời gian của số dư hay nghiệp vụ. Phân tích xu hướng thông qua so sánh
thông tin tài chính kỳ này với thông tin tài chính kỳ trước hay so sánh thông
tin tài chính giữa các tháng trong kỳ hoặc so sánh số dư (số phát sinh) của các
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 18 Đại học KTQD
tài khoản cần xem xét giữa các kỳ, nhằm phát hiện những biến động bất

thường để tập trung kiểm tra, xem xét.
Với phân tích xu hướng thường có hai cách tiếp cận: Tiếp cận nhân quả
và tiếp cận dự đoán. Tiếp cận dự đoán là so sánh số liệu hiện tại và xu hướng
biến động của chúng qua các thời kỳ trước đó để xem xét tính hợp lý của
chúng. Khi áp dụng tiếp cận dự đoán, kiểm toán viên không phải đưa ra con
số ước tính cụ thể cũng không phải giả định có vấn đề tồn tại nếu như số tài
khoản không có sai lệch so với xu hướng biến động. Tuy nhiên, một khoản
mục nào đó có thể phản ánh phù hợp với xu hướng biến động nhưng vẫn có
sai sót trọng yếu. Vì vậy, trong quá trình thực hiện phân tích, kiểm toán viên
cần thận trọng trong việc sử dụng cách tiếp cận này. Đối với cách tiếp cận
nhân quả đòi hỏi phải đưa ra một con số dự kiến cụ thể bằng cách xem xét và
phân tích nguyên nhân, các yếu tố gây ra sự thay đổi và căn cứ vào đó đưa ra
một con số dự kiến để so sánh với số liệu thực tế. Cách tiếp cận nhân quả đòi
hỏi nhiều công sức nên chi phí thường cao. Do đó, kiểm toán viên cần cân
nhắc chi phí của mỗi cách tiếp cận để lựa chọn phương pháp sử dụng. Tuy
nhiên, theo Chuẩn mực Kiểm toán Hoa Kỳ SAS số 56, cách tiếp cận của thủ
tục phân tích là cách tiếp cận nhân quả.
Ngoài ra, thủ tục phân tích còn có thể chia thành hai loại: Phân tích xu
hướng giản đơn và phân tích xu hướng hồi qui.
Phân tích xu hướng giản đơn: Là xác định con số ước tính dựa trên số
dư tài khoản của các kỳ trước.
Phân tích hồi qui: Được sử dụng để đánh giá mối quan hệ tương quan
giữa các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này xác định độ biến thiên của tiêu
thức kết quả theo sự biến thiên của tiêu thức ngyên nhân. Cụ thể, phương
trình hồi qui:
Y= ac + a1x1+ a2x2 +....+ akxk
Trong đó:
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 19 Đại học KTQD
- a0: Phản ánh mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khác đến chỉ tiêu phân

tích các ngoài các nhân tố đã phân tích
- a1 (i=1...k): Các hệ số hồi qui
- Y là chỉ tiêu phân tích
- x là chỉ tiêu nguyên nhân
Phân tích tỷ suất
Đây là hình thức phân tích được sử dụng phổ biến. Phân tích tỷ suất là
cách thức so sánh những số dư tài khoản hoặc những loại hình nghiệp vụ.
Phương pháp này giúp kiểm toán viên so sánh tính hợp lý về tình hình tài
chính của một công ty nào đó với công ty khác trong cùng một tập đoàn hay
nghành đó. Thông thường, khi phân tích tỷ suất, kiểm toán viên cần xem xét
xu hướng của tỷ suất đó.
Nhìn chung, phân tích tỷ suất áp dụng hiệu quả đối với Bảng cân đối kế
toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, phân tích tỷ suất
giữa các tài khoản trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn,
trong khi đó, các tài khoản trong Bảng cân đối kế toán đưa ra giá trị tại một
thời điểm, chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố nên dự đoán xu hướng biến động của
các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán gặp nhiều khó khăn.
Trong cách tiếp cận với phân tích tỷ suất thường có hai loại: Phân tích
theo chuỗi thời gian và phân tích theo nghành. Trong đó, phân tích theo chuỗi
thời gian là so sánh các tỷ suất của đơn vị qua các thời kỳ khác nhau còn phân
tích theo ngành là so sánh các tỷ suất giữa các vị trong cùng nghành tại một
thời điểm xác định.
Thông thường, kiểm toán viên sử dụng hai phương pháp: Phân tích tỷ
suất tài chính, phân tích theo qui mô.
Phân tích tỷ suất tài chính: Được xác định dựa trên mối quan hệ giữa các
số dư trên các khoản mục của báo cáo tài chính, qua đó, đưa ra các nhận xét
về những biến động tỷ suất năm trước và năm nay. Các tỷ suất tài chính
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 20 Đại học KTQD
thường được áp dụng là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán, khả năng sinh

lời, đòn bẩy kinh doanh, chỉ tiêu về năng lực kinh doanh, khả năng hoạt động.
Sau đây là một số tỷ suất thường dùng trong kiểm toán
Nhóm tỷ suất khả năng thanh toán
Tỷ suất khả năng thanh
toán hiện thời
=
Tổng tài sản ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ suất này đo lường khả năng thanh toán, xem tổng tài sản ngắn hạn
gấp bao nhiêu lần nợ ngắn hạn phải trả. Khi tỷ suất này bằng 1, nghĩa là tài
sản ngắn hạn vừa đủ để thanh toán nợ ngắn hạn. Để đảm bảo vốn vừa đủ
thanh toán nợ ngắn hạn, vừa tiếp tục hoạt động bình thường tỷ suất bằng 2
được xem là hợp lý. Nếu tỷ suất lớn hơn 2 có thể xem là đầu tư thừa tài sản
ngắn hạn.
Tỷ suất thanh toán hiện thời tăng thể hiện khả năng thanh toán của khách
hàng tốt hơn. Tuy nhiên, kiểm toán viên phải xem xét liệu khoản phải thu
hoặc hàng tồn kho có bị trình bày tăng lên hay không.
Tỷ suất khả năng thanh toán hiện thời giảm xuống phản ánh khả năng
thanh toán của doanh nghiệp kém đi. Doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng
thiếu vốn kinh doanh hoặc có vấn đề thanh toán trong tương lai. Tuy nhiên,
kiểm toán viên cần phải xem xét các khoản dự phòng phải thu khó đòi, dự
phòng giảm giá hàng tồn kho và dự phòng đầu tư tài chính, các khoản khấu
hao... đã được phản ánh đầy đủ hay chưa.
Tỷ suất khả năng
thanh toán nhanh
=
Vốn bằng tiền + Đầu tư tài chính ngắn hạn + Các KPT
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ suất này mô tả khả năng thanh toán tức thời với tiền và các phương
tiện có thể chuyển hoá thành tiền.

Tỷ suất này bằng 1 là hợp lý, càng lớn hơn 1 càng thể hiện doanh nghiệp
có khả năng thanh toán nhanh. Nếu tỷ suất này nhỏ hơn 1 và càng nhỏ thì
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 21 Đại học KTQD
doanh nghiệp càng khó khăn trong thanh toán nợ ngắn hạn. Nhưng nếu lượng
tiền mặt dự trữ quá lớn sẽ không tốt vì lượng tiền nhàn rỗi trong két không tạo
ra lợi nhuận thay vì đem chúng giữ tiết kiệm.
Tỷ suất khả năng
thanh toán dài hạn
=
Tổng tài sản ngắn hạn
Tổng nợ phải trả
Tỷ suất khả năng thanh toán dài hạn không những có ý nghĩa đối với việc
đánh giá lại khả năng thanh toán mà còn có tác dụng xem xét khả năng tiếp
tục hoạt động của doanh nghiệp để có ý kiến nhận xét thích hợp trong báo cáo
kiểm toán. Tỷ suất này càng lớn hơn 1 cho thấy doanh nghiệp càng có khả
năng thanh toán. Ngược lại, tỷ suất này càng nhỏ hơn 1 thì nguy cơ phá sản
của doanh nghiệp càng lớn. Khi tỷ suất này bằng 0 thì doanh nghiệp không
còn khả năng thanh toán, bị phá sản.
Số vòng thu
hồi nợ
=
Doanh thu ròng
Số dư các khoản phải thu bình quân
Thời gian
Thu hồi nợ
=
365
Số vòng thu hồi nợ
Chỉ tiêu này sử dụng để xem xét số ngày trung bình để chuyển đổi số dư

tài khoản phải thu thành tiền. Từ đó, kiểm toán viên so sánh kết quả này với
hạn mức tín dụng của đơn vị và của nghành.
Để tìm hiểu nguyên nhân của sự biến động, kiểm toán viên tiến hành soát
xét số dư khoản phải thu, hàng bán thu tiền ngay, tỉ lệ bán hàng chịu và dự
phòng phải thu, hàng bán bị trả lại, các khách hàng có số dư lớn, bất thường
hoặc có thể xem xét trong mối liên hệ với tỷ suất thanh toán nhanh, phân tích
tuổi nợ.
Số ngày bình
quân phải trả
=
Số dư phải thu bình quân x 365
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 22 Đại học KTQD
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân đơn vị phải thanh toán khoản
mua hàng cho nhà cung cấp. Qua đó, kiểm toán viên thấy được vấn đề về khả
năng thanh toán hoặc khả năng bỏ sót nghĩa vụ thanh toán công nợ của đơn vị
khách hàng trong kỳ báo cáo.
Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động
Số vòng luân chuyển
hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Số dư tồn kho bình quân
Một vòng luân chuyển hàng hoá được tính từ lúc xuất tiền mua cho đến
khi bán hàng thu lại tiền. Chỉ tiêu này không những cho thấy số lần luân
chuyển một năm của hàng tồn kho mà còn phản ánh năng lực của đơn vị trong
quản lý và bán hàng tồn kho.
Sự biến động giữa số vòng luân chuyển hàng tồn kho năm nay so với
năm trước có thể không gây ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán như: do khó

khăn trong sản xuất, sự yếu kém trong quản lý hàng tồn kho như dự trữ hàng
hoá không phù hợp với sản xuất kinh doanh, giá mua hàng hoá quá cao...
Các biến động có thể ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán như: Việc lập
dự phòng hàng tồn kho không phù hợp, ghi giảm giá trị hàng tồn kho với qui
mô lớn và không ghi nhận nghiệp vụ hàng bán bị trả lại...
Để làm sáng tỏ những biến động có thể gây rủi ro đối với cuộc kiểm
toán, kiểm toán viên có thể soát xét sự biến động ở cấp số dư tài khoản (thành
phẩm, nguyên vật liệu, hàng hoá, chi phí sản xuất kinh doanh) và tiến hành
phân tích chỉ tiêu này trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác như số ngày
phải trả, tỷ suất thanh toán nhanh...
Nhóm tỷ suất khả năng sinh lời
Tỷ lệ lãi gộp =
(Doanh thu – giá vốn) x 100%
Doanh thu
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 23 Đại học KTQD
Kiểm toán viên sử dụng chỉ tiêu này nhằm mục đích đánh giá khả năng
của đơn vị trong việc quản lý giá vốn.
Các yếu tố gây sự biến động của tỷ lệ này có thể ảnh hưởng đến kế hoạch
kiểm toán như: tăng giá bán hàng, bán nguyên vật liệu, sự yếu kém trong
quản lý sản xuất...
Sự biến động có ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán như doanh thu, giá
vốn bỏ sót không được ghi nhận hay doanh thu, giá vốn không có thật.
Tỷ suất hiệu quả kinh
doanh
=
Lãi kinh doanh trước thuế + Chi phí tiền lãi
Tổng giá trị tài sản bình quân
Từ tỷ suất này, kiểm toán viên so sánh với tỉ lệ lãi gộp để đánh giá ảnh
hưởng của chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng đến lợi nhuận của

doanh nghiệp. Ngoài ra, kiểm toán viên có thể so sánh tỷ suất này với các
năm hoặc tỷ suất dự kiến nhằm thấy rõ xu hướng phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để đánh giá tỷ suất này kiểm toán viên còn phải xét đến tính chất
của nghành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính
Tỷ suất đầu

=
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tổng số tài sản
Tỷ suất đầu tư đo lường năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá
trình độ trang bị máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật...
Tỷ suất này luôn luôn nhỏ hơn 1 và mức độ cao thấp của nó tuỳ theo
doanh nghiệp hoạt động trong nghành nào, lĩnh vực nào. Tỷ suất này càng lớn
càng chứng tỏ vị trí quan trọng của tài sản cố định trong tổng số tài sản hiện
có của doanh nghiệp.
Thông thường, tỷ suất đầu tư được coi là hợp lý trong từng nghành nếu
đạt được mức cụ thể sau:
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 24 Đại học KTQD
Công nghiệp thăm dò khai thác dầu khí: Tỷ suất này khá cao, khoảng 0.9
(90% tổng tài sản).
Công nghiệp luyện kim: Khoảng 0.7 (70% tổng số tài sản).
Công nghiệp chế biến thực phẩm: Khoảng 0.1 đến 0.3.
.....
Tỷ suất nợ =
Tổng số nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
Hoặc có thể dùng tỷ suất tài trợ ngược với tỷ suất nợ để đánh giá
Tỷ suất tài

trợ
=
Nguồn vốn chủ sở hữu
= 1- Tỷ suất nợ
Tổng nguồn vốn
Tỷ suất tài trợ được sử dụng để xem xét khả năng tự đảm bảo về mặt tài
chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với chủ nợ (ngân hàng, chủ
đầu tư, các đối tượng khác), hoặc những khó khăn tài chính mà doanh nghiệp
phải đương đầu. Tỷ suất tài trợ càng lớn thể hiện doanh nghiệp có nhiều vốn
tự có và hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu, chủ động trong
kinh doanh.
Các yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến kế hoạch kiểm toán như công nợ
vay phải trả cao, chi phí lãi suất vay không phù hợp.
Để tìm hiểu nguyên nhân sự biến động, kiểm toán viên tiến hành soát xét
các biến động trên số dư tài khoản (tài sản, lãi phải trả, công nợ, nguồn vốn),
so sánh trong mối quan hệ với chỉ tiêu khác.
Tỷ suất tự tài trợ =
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tài sản cố định + Đầu tư dài hạn
Tỷ suất tự tài trợ được kiểm toán viên sử dụng để xem xét mối quan hệ
giữa nguồn vốn chủ sở hữu và giá trị tài sản cố định và khoản đầu tư dài hạn.
Tỷ suất này cho biết nguồn vốn chủ sở hữu đã dùng vào tài sản cố định và các
khoản đầu tư dài hạn là bao nhiêu. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài chính
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44
Luận văn tốt nghiệp 25 Đại học KTQD
tốt thì nguồn vốn chủ sở hữu phải đủ đầu tư TSCĐ và các khoản đầu tư dài
hạn để hoạt động.
Tuy nhiên, cũng phải thấy mặt trái ở đây là tài sản cố định chu chuyển
chậm nên đầu tư quá nhiều vốn chủ sở hữu vào mục tài sản cố định thì sẽ
không có lợi vì lợi nhuận kinh doanh thu được chủ yếu do chu chuyển chậm

các tài sản lưu động).
Tỷ suất khả năng
thanh toán lãi vay
=
Tổng số lợi tức trước thuế + Chi phí lãi vay
Chi phí lãi vay
Tỷ suất này đo lường khả năng thanh toán lãi vay và phản ánh lợi nhuận
sinh ra từ hoạt động kinh doanh do sử dụng vốn để đảm bảo khả năng thanh
toán lãi vay. Có thể so sánh tỷ suất này giữa các kỳ hoặc với tỷ suất trung
bình về khả năng thanh toán lãi vay của ngành.
Trên đây là một số tỷ suất thường dùng để phân tích, cũng cần phải chú ý
rằng kỹ thuật phân tích dọc còn có thể nghiên cứu các mối quan hệ giữa các
thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính.Trên cơ sở mối quan hệ hợp
lý giữa chúng, kiểm toán viên có thể phát hiện sai sót và những vấn đề bất
thường.
Phân tích theo qui mô
Được thực hiện trên cơ sở số dư của các tài khoản trên báo cáo tài chính
được tính theo tỉ lệ %.
Đối với phân tích theo qui mô, kiểm toán viên có thể tiến hành theo hai
cách tiếp cận đó là, tiếp cận theo chuỗi thời gian và tiếp cận theo nghành. Tuy
nhiên, phân tích theo chuỗi thời gian được áp dụng phổ biến hơn. Phân tích
theo qui mô thường được áp dụng với Bảng cân đối kế toán và cũng hữu hiệu
đối với Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Trong ba loại hình phân tích nêu trên, độ tin cậy của bằng chứng thu thập
được khi kiểm tra tính hợp lý được xem là cao nhất và phân tích xu hướng
Trần Thị Nam Vinh Kiểm toán 44

×