Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước việt nam - thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.25 KB, 124 trang )

1
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
Chương I: Lý luận cơ bản về Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Trung ương 3
1.1 Ngân hàng Trung ương 3
1.1.1 Lịch sử phát triển hệ thống ngân hàng và sự ra đời của Ngân hàng
trung ương 3
1.1.2 Chức năng của Ngân hàng Trung ương 7
1.1.3 Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 10
1.2 Chính sách tiền tệ 14
1.2.1 Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ 14
1.2.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ 15
1.2.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ 17
1.3 Kinh nghiệm sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của một số nước trên
thế giới 26
1.3.1 CSTT của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBC) 26
1.3.2 CSTT của Thái Lan 30
1.3.3 Bài học kinh nghiệm 32
Kết luận chương I 34
2
Chương II: Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 - 2011 35
2.1 Khái quát về điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2000 -


2011 35
2.2 Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam từ năm 2000 – 2011 39
2.2.1 Quá trình sử dụng công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 39
2.2.2 Thực trạng sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam 45
2.2.3 Việc sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 51
2.2.4 Thực trạng sử dụng công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 60
2.2.5 Thực trạng sử dụng công cụ hạn mức tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 70
2.2.6 Việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 75
Kết luận chương II 88
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ
đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 89
3.1 Chiến lược tài chính tiền tệ của Việt Nam đến năm 2020 89
3.1.1 Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020 89
3.1.2 Định hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đến năm 2020 90
3.2 Các giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ 91
3.2.1 Giải pháp đối với công cụ tái cấp vốn 91
3
3.2.2 Giải pháp thực hiện công cụ dự trữ bắt buộc 92
3.2.3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị trưởng mở 97
3.2.4 Giải pháp về chính sách lãi suất 101
3.2.5 Kiểm soát tăng trưởng tín dụng 103
3.2.6 Giải pháp sử dụng hiệu quả công cụ tỷ giá hối đoái 103

3.3 Điều kiện cho thực thi chính sách tiền tệ 112
KẾT LUẬN 119
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của Đề tài nghiên cứu:
Nói đến chính sách tiền tệ là nói đến một hệ thống các biện pháp điều
tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
bởi nó có tác động mạnh mẽ nhiều mặt đến các biến số vĩ mô như: tốc độ tăng
trưởng kinh tế, lạm phát, công ăn việc làm, Để đạt được các mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, hạn chế thất nghiệp thì việc sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ có vai trò cơ bản, quyết định.
Sau hơn 30 năm tiến hành đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể, trong đó, có vai trò tác động của việc thực hiện các
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, hoạt động tiền tệ - tín dụng tại Việt Nam còn
nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức cao, đồng nội tệ mất
giá Do đó, đòi hỏi việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phải có
sự điều chỉnh linh hoạt để các hoạt động tiền tệ - tín dụng đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn.
Do vậy, đề tài: “Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” luôn mang
tính thời sự, cấp thiết trong từng thời điểm.
Mục đích nghiên cứu của Đề tài: Căn cứ vào cơ sở lý luận, những phân
tích đánh giá thực trạng điều hành các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 – năm 2011, rút ra
những mặt được, hạn chế yếu kém, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
5
- Đối tượng nghiên cứu: lý luận về tiền tệ, tín dụng; thực tiễn sử dụng các
công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ năm
2000 - 2011.
- Phạm vi nghiên cứu: các công cụ chính sách tiền tệ từ năm 2000 - 2011.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp triết học duy vật biện chứng và lịch sử,
cùng với phương pháp logic, phương pháp thống kê, phân tích so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn Luận văn
sử dụng các bảng biểu, đồ thị để minh họa dựa trên các số liệu tin cậy được
lấy từ nguồn Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về Ngân hàng trung ương và chính sách tiền
tệ của Ngân hàng trung ương
Chương II: Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2011
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ
đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
6
Chương I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1- Ngân hàng trung ương
1.1.1- Lịch sử phát triển hệ thống ngân hàng và sự ra đời của Ngân hàng
trung ương
Hoạt động ngân hàng với các nghiệp vụ truyền thống nhận gửi, cho vay
và cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng ra đời khi quan hệ sản xuất

và trao đổi hàng hóa của xã hội đã phát triển ở mức độ cao. Quá trình hoàn
thiện các nghiệp vụ ngân hàng và sự ra đời một ngân hàng hoàn chỉnh kéo dài
hàng nghìn năm, bắt đầu từ hoạt động ngân hàng sơ khai vào khoảng 3500
năm trước Công nguyên cùng với sự khởi đầu của các thiết chế tổ chức xã
hội. Có thể chia quá trình phát triển hệ thống ngân hàng thành các giai đoạn
chủ yếu sau:
1.1.1.1- Thời kỳ hoạt động của các ngân hàng sơ khai
Từ năm 3500 trước CN đến 1800 trước CN là giai đoạn các ngân hàng
sơ khai. Nghiệp vụ ban đầu của nghề kinh doanh tiền tệ là nhận giữ tiền vàng
và các tài sản có giá trị khác được thực hiện bởi các nhà thợ vàng, các lãnh
chúa, nhà thờ. Người gửi tiền được nhận lại một tờ biên lai làm căn cứ để xác
định quyền sở hữu và trả lệ phí gửi tiền.
Dần dần những người gửi tiền nhận ra rằng thay vì sử dụng tiền kim
loại vốn khó bảo quản và vận chuyển khó khăn họ có thể sử dụng các loại
giấy chứng nhận quyền sở hữu vàng để thanh toán. Người nhận các chứng thư
này không gặp khó khăn gì trong việc chuyển chúng sang tiền mặt. Việc
thanh toán dễ dàng hơn nếu hai người cùng gửi tiền ở một nơi. Đây là mầm
mống đầu tiên của nghiệp vụ phát hành dấu hiệu giá trị. Mặt khác, những
người nắm giữ tiền cũng nhận thấy rằng trong cùng một khoảng thời gian có
7
một số người đến đổi chứng thư lấy tiền, nhưng cũng có những người khác
gửi tiền vào. Sự bổ sung qua lại giữa lưu lượng gửi tiền vào và rút tiền ra làm
xuất hiện một lượng tiền nhàn rỗi trong kho. Điều này chứng tỏ những người
thợ vàng giờ đây chỉ cần dự trữ tiền mặt với một tỷ lệ nhất định so với tổng số
tiền gửi, phần còn lại có thể sử dụng để cho vay. Đến đây các ngân hàng bắt
đầu tham gia vào quá trình cung ứng tiền.
1.1.1.2- Giai đoạn từ thế kỷ thứ V đến XVII
Đây là giai đoạn phát triển và hoàn thiện các nghiệp vụ của một ngân
hàng thương mại. Các nghiệp vụ ghi chép sổ sách, hình thành các số hiệu tài
khoản, chi tiết đến đối tượng cho vay, mục đích vay cũng như nguồn vốn cho

vay – tiền thân của kế toán ngân hàng – ra đời từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ
X. Cho đến thế kỷ thứ XVII các nghiệp vụ của một ngân hàng kinh doanh đã
được hoàn thiện, bao gồm:
- Nhận gửi, cho vay;
- Phát hành tiền;
- Chiết khấu thương phiếu;
- Chuyển khoản, thanh toán bù trừ và bảo lãnh.
Một ngân hàng hoàn chỉnh các nghiệp vụ này đã hình thành đầu tiên ở
Hà Lan – 1609, sau đó là Thụy Điển -1656, hệ thống ngân hàng Anh – 1694,
hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ - 1791, ngân hàng Pháp – 1800.
1.1.1.3- Giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến XX
Đến thế kỷ XVIII, các ngân hàng bắt đầu lợi dụng ưu thế của mình để
phát hành khối lượng lớn các kỳ phiếu tách rời khỏi dự trữ vàng để cho vay,
điều này đe dọa dự trữ vàng và khả năng chuyển đổi ra tiền mặt của các kỳ
phiếu được phát hành. Vì tất cả các ngân hàng đều có quyền phát hành tiền
nên nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền trong lưu thông và
càng không thể kiểm soát được tính chất đảm bảo của lượng tiền lưu thông
8
đó. Mặt khác, mỗi ngân hàng có quy mô hoạt động, uy tín và khả năng ảnh
hưởng khác nhau nên công chúng bắt đầu có sự lựa chọn kỳ phiếu được phát
hành bởi những ngân hàng khác nhau. Kết quả là, các kỳ phiếu do các ngân
hàng lớn có uy tín phát hành dần dần chiếm lĩnh thị trường và đẩy kỳ phiếu
của các ngân hàng nhỏ ra khỏi lưu thông. Tình trạng này kéo dài gây sự bất
ổn định trong lưu thông tiền tệ và nhà nước buộc phải can thiệp nhằm thiết
lập trật tự và sự thống nhất cho việc phát hành tiền và đảm bảo an toàn cho
các giấy chứng nhận nợ của ngân hàng. Kết quả của sự can thiệp này là chỉ
còn có một số các ngân hàng lớn được quyền phát hành tiền kèm theo nghiệp
vụ kinh doanh. Các ngân hàng khác chỉ được phép hoạt động kinh doanh tiền
tệ và tín dụng, không được quyền phát hành tiền. Chúng được quyền mở tài
khoản và thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng phát hành, biến ngân hàng

phát hành thành trung tâm thanh toán.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nước Châu Âu (trừ Italia và Thụy
Sĩ), cùng với một vài nước thuộc châu Á và châu Phi như Nhật Bản, Java,
Angerie đã hình thành ngân hàng phát hành với quyền lực và sự ưu tiên đặc
biệt từ Chính phủ. Tất cả các ngân hàng này, với mức độ khác nhau, từng
bước đã thực hiện các chức năng của một NHTW: phát hành tiền, kiểm soát
lưu thông tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng trung gian và là ngân hàng
của Chính phủ. Với ý nghĩa như vậy, khái niệm “Ngân hàng trung ương” bắt
đầu được nhắc đến từ cuối thế kỷ XIX.
1.1.1.4- Giai đoạn từ thế kỷ XX đến nay
Là giai đoạn hoàn thiện hoạt động NHTW về tổ chức và chức năng,
đồng thời là giai đoạn thành lập một loạt các NHTW mới.
Trước hết là sự tách rời chức năng độc quyền phát hành ra khỏi chức
năng kinh doanh tiền tệ trực tiếp với công chúng, được thực hiện đầu tiên bởi
Ngân hàng Anh và sau đó là các ngân hàng phát hành các nước khác, nhằm
9
hoàn thiện chức năng quản lý của NHTW. Các NHTW giờ đây chỉ quan hệ
trực tiếp với các ngân hàng trung gian, với Chính phủ và ngân hàng nước
ngoài, thông qua các hoạt động kiểm soát tín dụng, quản lý dự trữ của các
ngân hàng trung gian cũng như dự trữ vàng và ngoại tệ của nhà nước và thực
hiện điều hòa vốn khả dụng cho toàn hệ thống ngân hàng trong nước.
Có thể nói, cho đến trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, NHTW với
các chức năng đầy đủ của nó đã thực sự ra đời phổ biến ở các nước Châu Âu,
mà điển hình cho mô hình này là Ngân hàng Anh, sau thời kỳ phát triển hàng
nghìn năm từ hoạt động ngân hàng sơ khai.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới 1929 – 1933 và sự phát
triển học thuyết của Keynes vào cuối những năm 30 (và sau đó được phát
triển bởi Milton Friedman 1960) về sự cần thiết của vai trò quản lý vĩ mô của
nhà nước đối với nền kinh tế, cũng như ảnh hưởng của khối lượng tiền cung
ứng đối với các biến số kinh tế vĩ mô đã tạo nên sự thay đổi toàn bộ trong

nhận thức của các quốc gia về vai trò của NHTW. Cho đến trước Chiến tranh
Thế giới thứ hai, phần lớn các ngân hàng phát hành là ngân hàng tư nhân hoặc
cổ phần, vai trò điều tiết kiểm soát các hoạt động kinh tế của nhà nước thông
qua ngân hàng phát hành là hết sức hạn chế. Vì thế, sau Chiến tranh Thế giới
thứ hai phần lớn các NHTW được quốc hữu hóa, trở thành ngân hàng của nhà
nước. Đây là giai đoạn bắt đầu hoạt động của NHTW hiện đại với các chức
năng: độc quyền phát hành tiền; là ngân hàng của các ngân hàng; là ngân
hàng của Chính phủ và thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô: thực hiện chính sách
tiền tệ và đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính.
Như vậy, NHTW có thể ra đời từ sự phát triển và phân hóa hệ thống
ngân hàng thương mại kéo dài nhiều thế kỷ theo mô hình Ngân hàng Anh và
các nước Châu Âu, bằng cách thành lập hoàn toàn mới vào nửa đầu thế kỷ
XX. Dù hình thành bằng con đường nào thì các NHTW đều có chung một bản
10
chất: là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc Chính phủ;
thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân
hàng, ngân hàng của Chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý
Nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu phát triển và
ổn định của cộng đồng.
1.1.2- Chức năng của Ngân hàng trung ương
Hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, điều hòa lưu
thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo cho lưu thông tiền
tệ ổn định. Từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Để đạt được
mục đích trên, NHTW phải hoạt động theo ba chức năng cơ bản sau:
1.1.2.1- Chức năng phát hành tiền
Tiền trong lưu thông bao gồm các loại: giấy bạc ngân hàng, tiền kim loại
và tiền chuyển khoản (bút tệ).
- Ngân hàng trung ương giữ độc quyền phát hành giấy bạc Ngân hàng và
tiền kim loại.
Ngày nay, việc phát hành giấy bạc Ngân hàng và tiền kim loại không

còn dựa trên cơ sở dự trữ vàng. Nó được thực hiện dựa trên cơ sở đảm bảo
bằng giá trị hàng hóa, dịch vụ thể hiện trên các giấy nhận nợ do các doanh
nghiệp phát hành hoặc trái phiếu chính phủ. Thông qua cơ chế tín dụng ngắn
hạn, NHTW thực hiện tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các chứng từ có giá để
đưa tiền vào lưu thông. Khối lượng tiền phát hành phụ thuộc vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế và nhu cầu tiền trong từng thời kỳ.
- Ngân hàng trung ương tham gia và kiểm soát chặt chẽ việc tạo tiền
chuyển khoản của các ngân hàng thương mại (NHTM) và tổ chức tín
dụng (TCTD).
Tiền chuyển khoản được tạo ra thông qua nghiệp vụ tín dụng và thanh
toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng. Cơ chế tạo tiền này không
11
thể thiếu được sự tham gia và kiểm soát chặt chẽ của NHTW. Nghiệp vụ kiểm
soát này được thực hiện bằng việc định ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cơ cấu hợp lý
giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản, lãi suất tái chiết khấu Và giao dịch tín
dụng, thanh toán với các NHTM và TCTD là NHTW thực hiện nội dung chức
năng phát hành tiền.
Việc phát hành tiền của NHTW theo các kênh sau:
- Cho vay các NHTM và TCTD: NHTW phát hành tiền qua hoạt động cấp
tín dụng, dưới hình thức tái chiết khấu, hoặc tái cầm cố các chứng từ có
giá của các NHTM và TCTD. Đây là kênh phát hành tiền quan trọng nhất
và phù hợp với cơ chế phát hành tiền hiện nay.
- Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ: NHTW phát hành tiền để mua
vàng và ngoại tệ nhằm tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều tiết tỷ giá
hối đoái khi cần thiết.
- Ngân sách nhà nước vay: Chính phủ vay của NHTW trong trường hợp
ngân sách nhà nước bị thiếu hụt tạm thời hoặc bội chi. Cũng có thể NHTW
phải ứng trước cho Chính phủ, trong trường hợp ngân sách nhà nước chi
trước và thu sau. Những khoản cho Chính phủ vay quan trọng nhất là
NHTW tái chiết khấu, tái cầm cố các loại trái phiếu của Chính phủ thông

qua các NHTM.
- Phát hành qua nghiệp vụ thị trường mở: NHTW phát hành tiền mua các
chứng từ có giá ngắn hạn trên thị trường mở nhằm tăng khối lượng tiền
cung ứng khi có sự tăng lên của nhu cầu tiền.
Thông qua các kênh phát hành tiền nêu trên NHTW không những đảm
bảo được nhu cầu tiền cho lưu thông, mà còn kiểm soát được lượng tiền trong
lưu thông.
1.1.2.2- Chức năng ngân hàng của các ngân hàng
Nội dung của chức năng này được thể hiện ở các nghiệp vụ:
12
- Quản lý tài khoản và nhận tiền gửi của các NHTM và TCTD.
• Tài khoản tiền gửi thanh toán: Các NHTM phải mở tài khoản tiền gửi
thanh toán và duy trì thường xuyên một lượng tiền trên tài khoản này
để thực hiện nghĩa vụ chi trả với các ngân hàng khác trong toàn hệ
thống ngân hàng.
• Tài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc: NHTW nhận tiền gửi dự trữ bắt
buộc của các NHTM theo quy định. Mục đích của dự trữ bắt buộc là
nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và sử dụng nó là công cụ để điều
tiết lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
- Cho vay đối với các NHTM và TCTD
NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm
cố các chứng từ có giá. Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW
luôn là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM.
- Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt
Các NHTM đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán và gửi tiền vào tài
khoản này tại NHTW. Cho nên, nó có thể tổ chức thanh toán không dùng tiền
mặt cho các NHTM thông qua hình thức thanh toán bù trừ trong toàn hệ
thống ngân hàng.
- Thực hiện quản lý nhà nước và kiểm soát hoạt động đối với các NHTM
và TCTD, thông qua các hoạt động:

• Cấp giấy phép hoạt động cho các NHTM, TCTD.
• Quy định nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh và các quy chế
nghiệp vụ đòi hỏi các NHTM phải tuân thủ.
• Kiểm tra, giám sát mọi mặt hoạt động của các NHTM.
• Đình chỉ hoạt động hoặc giải thể NHTM trong trường hợp mất khả
năng thanh toán.
1.1.2.3- Chức năng Ngân hàng Nhà nước
13
Nội dung của chức năng này được thể hiện trên các phương diện quản lý
nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng sau đây:
- NHTW xây dựng và thực thi CSTT quốc gia, quản lý nhà nước về các hoạt
động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng đối nội cũng như đối ngoại.
- Nhận tiền gửi của kho bạc nhà nước, cho ngân sách nhà nước vay khi ngân
sách bị thiếu hụt tạm thời hoặc bội chi, quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Thay mặt Chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng, thanh toán với
nước ngoài và tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế.
- Đại diện cho Chính phủ tham gia vào một số tổ chức tài chính - tín dụng
quốc tế với cương vị là thành viên của các tổ chức này.
1.1.3- Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Sự ra đời NHTW của Việt Nam dưới tên gọi Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam không giống với nguồn gốc ra đời truyền thống của các NHTW trên thế
giới. Quá trình phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân
hàng hai cấp cùng với sự tách bạch và hoàn thiện chức năng quản lý Nhà
nước và chức năng kinh doanh từ hệ thống ngân hàng một cấp gắn liền với sự
ra đời và hoàn chỉnh chức năng của NHTW ở Việt Nam.
1.1.3.1- Hệ thống ngân hàng một cấp (1951 – 1987)
Hệ thống NHNN VN mà tiền thân là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
được thành lập vào năm 1951 – giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống
Pháp và trong điều kiện nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu. Chức năng chủ yếu
của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là: phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc,

thực hiện chính sách tín dụng và quản lý tiền tệ. Chức năng này được thực
hiện thông qua một mô hình tổ chức gọn nhẹ, phù hợp với điều kiện thời
chiến bao gồm ba cấp quản lý: trung ương, liên khu, tỉnh và thành phố.
Cùng với thời gian và sự thay đổi của nhiệm vụ xây dựng và phát triển
kinh tế, hệ thống NHNN VN đã được mở rộng và hoàn thiện về cơ chế tổ
14
chức và hoạt động nghiệp vụ. Tuy nhiên cho đến năm 1987 hoạt động của
NHNN VN vẫn mang tính chất lưỡng tính: nó vừa thực hiện chức năng quản
lý và điều tiết lưu thông tiền tệ vừa thực hiện chức năng của ngân hàng trung
gian và được tổ chức thống nhất từ trung ương xuống cơ sở.
Hình 1.1 Mô hình tổ chức hệ thống NHNN VN trước năm 1988
Gần 40 năm hoạt động theo mô hình một cấp, NHNN VN đã góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế trong điều kiện chiến
tranh. Tuy nhiên những hạn chế của nó dần được bộc lộ, đặc biệt trong thập
kỷ 80. Vừa là cơ quan phát hành và quản lý tiền tệ, vừa trực tiếp cấp tín dụng
cho ngân sách và nền kinh tế, trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế tập trung
và bao cấp NHNN không thể thực hiện kinh doanh theo đúng nghĩa của nó,
đồng thời cũng không làm tròn chức năng quản lý Nhà nước các hoạt động
tiền tệ ngân hàng. Kết quả là nền kinh tế Việt Nam trong những năm 80 rơi
vào tình trạng vừa thiếu tiền mặt vừa lạm phát. Hoạt động mang tính bao cấp
của hệ thống ngân hàng đã dẫn đến sự phân bổ và sử dụng vốn thiếu hiệt quả
và làm suy giảm lòng tin của công chúng.
HỆ THỐNG NGÂN HÀNG NNVN
NH Ngoại thương
(1959)
NH đầu tư và
xây dựng (1981)
Chi nhánh
NHNN tỉnh, TP
Quỹ tiết kiệm

Chi nhánh tỉnh,
TP
Chi nhánh tỉnh,
TP
Chi điếm NH
huyện
Chi nhánh
tỉnh, TP
Chi điếm huyện Chi điếm huyện
Chi điếm huyện
15
Vì thế cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ cơ chế quản lý
hành chính và trực tiếp chuyển sang việc sử dụng các biện pháp kinh tế theo
cơ chế thị trường, từ năm 1988 hệ thống ngân hàng đã được cải cách từng
bước nhằm mục đích phân định rõ ràng hai chức năng quản lý Nhà nước và
chức năng kinh doanh của hệ thống ngân hàng, đồng thời chuyển hẳn hệ
thống ngân hàng sang cơ chế kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế.
1.1.3.2- Hệ thống ngân hàng hai cấp (từ 1988 – nay)
Bước sơ khai của hệ thống ngân hàng hai cấp được thể hiện trong Nghị
định 53 ngày 26/3/1988, theo đó hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm:
NHNN và các ngân hàng chuyên doanh. NHNN hoạt động với tư cách là
ngân hàng độc quyền phát hành, là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín
dụng và là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối của Nhà nước. Với chức năng
như vậy, NHNN VN thực sự trở thành một NHTW.
Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước 5/1990 thực sự đánh dấu bước đổi mới
căn bản hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam và khẳng định lại sự
đúng đắn của cải cách ngân hàng trong Nghị định 53. Khái niệm NHTW lần
đầu tiên được đề cập đến trong định hướng của các Pháp lệnh ngân hàng.
Định hướng chỉ rõ: “NHNN là NHTW, có chức năng quản lý Nhà nước đối
với hệ thống ngân hàng. Chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng

thuộc về các ngân hàng và TCTD”.
Sau thời gian thử nghiệm và khẳng định tính hiệu quả của mô hình
ngân hàng hai cấp, cùng với sự hoàn thiện dần chức năng NHTW của NHNN
VN, khái niệm NHTW đã được quy định cụ thể trong Luật Ngân hàng Nhà
nước 12/1997 như sau: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của
Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam…, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và
16
hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”.
Quyền lực điều hành hoạt động NHNN tập trung vào ban lãnh đạo
NHNN gồm Thống đốc và các Phó Thống đốc. Thống đốc NHNN là thành
viên của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về các vấn đề tiền tệ
và hoạt động ngân hàng của quốc gia. NHNN được tổ chức thành hệ thống
tập trung thống nhất, có trụ sở chính đặt tại Thủ đô và các chi nhánh NHNN
tỉnh, thành phố. Các chi nhánh này thực hiện chức năng NHTW tại phạm vi
tỉnh và chịu sự lãnh đạo của NHNN TW về tổ chức cũng như hoạt động
nghiệp vụ.
Hình 1.2 Mô hình tổ chức của hệ thống NHNN VN
17
Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống Ngân hàng
đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cách mạng Việt Nam, góp
phần củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2- Chính sách tiền tệ
1.2.1- Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ của NHTW là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Nhà nước. “Chính sách
tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, mà NHTW thực hiện
thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối

lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất
nước trong một thời kỳ nhất định”. (Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - Học viện
Tài chính).
Trong nền kinh tế thị trường, CSTT được sử dụng như một công cụ
điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với hoạt động của nền kinh tế. Nó được
hoạch định trên cơ sở mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng
giai đoạn phát triển. Dựa trên cơ chế thị trường và các quy luật vận động của
nó, CSTT được hoạch định đảm bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và được điều
hành chủ yếu bằng hệ thống các công cụ gián tiếp. CSTT rất nhạy cảm và có
vị trí chủ đạo trong hệ thống chính sách kinh tế vi mô.
CSTT có thể được điều hành theo một trong hai hướng sau:
- CSTT mở rộng: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.
- CSTT thắt chặt: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn chế
đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế. CSTT theo hướng
này nhằm đạt mục tiêu kiềm chế lạm phát.
18
Nền kinh tế thường xuyên biến động, do vậy có lúc thừa và có lúc thiếu
tiền. Do đó, CSTT được vận hành theo xu hướng nào là tùy thuộc vào thực
trạng kinh tế và nhu cầu tiền trong từng thời kỳ.
1.2.2- Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ do NHTW thực thi nhằm đạt tới một hệ thống các
mục tiêu:
a) Mục tiêu cuối cùng
- Ổn định tiền tệ:
Ổn định tiền tệ là ổn định sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của
đồng tiền quốc gia.
 Ổn định sức mua đối nội là ổn định sức mua của tiền đối với hàng hóa
và dịch vụ trong nước (ổn định giá cả). Nền kinh tế có lạm phát hoặc
thiểu phát tức là sức mua đồng tiền không ổn định. Do đó, kiểm soát

lạm phát và duy trì lạm phát thấp là thể hiện cụ thể của mục tiêu này.
Khi có mức lạm phát thấp sẽ là nhân tố cần thiết thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế bền vững.
 Ổn định sức mua đối ngoại là ổn định tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối
đoái biến động quá mức sẽ ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập
khẩu, các hoạt động đối ngoại khác làm giảm thấp uy tín quốc gia và sự
ổn định kinh tế trong nước. Do đó, ổn định tỷ giá hối đoái được coi là
mục tiêu quan trọng.
- Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế được đo bằng tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế, hoặc
là tỷ lệ tăng trưởng GDP danh nghĩa sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát cùng kỳ.
Một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, bền vững là mục tiêu của mọi
chính sách kinh tế vĩ mô. Khi đạt được mục tiêu này sẽ tạo ra nhiều lợi thế:
tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nâng cao thu nhập cho người lao
19
động, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng, nâng cao vị
thế quốc gia trên trường quốc tế, …
Để thực hiện mục tiêu này, NHTW cung ứng thêm tiền vào lưu thông,
làm cho lãi suất thị trường giảm. Lãi suất thấp sẽ kích thích nhà đầu tư, các
doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Thêm vào đó chi phí, cơ hội của việc giữ tiền
giảm sẽ khuyến khích dân chúng tiêu dùng, dẫn tới tổng cầu tăng, sản lượng
của nền kinh tế sẽ tăng.
- Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ:
Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì
hiện tượng thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy, đảm bảo
công ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường trực của các quốc gia.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng
trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm được
tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì
công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng.

Giữa ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm có mối
quan hệ mật thiết với nhau. NHTW không thể cùng một lúc đạt được cả ba
mục tiêu trên. Chẳng hạn, kiềm chế lạm phát có thể dẫn đến tăng trưởng kinh
tế thấp, thất nghiệp gia tăng. Ngược lại, thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo thêm
công ăn việc làm có thể dẫn tới lạm phát. Do vậy, đưa mục tiêu nào lên hàng
đầu tùy theo điều kiện nền kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Đa số các
nước coi ổn định tiền tệ là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của CSTT.
b) Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian là mục tiêu được NHTW lựa chọn để đạt tới mục
tiêu cao nhất của CSTT.
NHTW các nước thường dựa vào ba tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu
trung gian: (1) phải đo lường được, (2) phải kiểm soát được, (3) phải có khả
20
năng tác động trực tiếp tới mục tiêu cao nhất. Hai chỉ tiêu: khối lượng tiền
cung ứng và lãi suất thị trường đều đáp ứng đủ cả ba tiêu chuẩn trên, vì vậy
nó đều có thể được chọn làm mục tiêu trung gian của CSTT.
c) Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều
chỉnh của CSTT.
Tiêu chuẩn để chọn mục tiêu hoạt động như tiêu chuẩn để lựa chọn
mục tiêu trung gian. Các chỉ tiêu được chọn làm mục tiêu hoạt động là dự trữ
của NHTM và lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Các loại mục tiêu của CSTT có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Mục
tiêu cao nhất được coi là mục tiêu cơ bản nhất, là đích cuối cùng của CSTT.
Hình 1.3 Quy trình thực hiện CSTT
1.2.3- Các công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp nhằm tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền để đạt được các mục tiêu đề ra. Tùy
thuộc vào cơ chế tác động của các công cụ mà nó được chia ra thành công cụ
trực tiếp và công cụ gián tiếp.

a) Các công cụ trực tiếp
Quyết định
chính sách
Công cụ
CSTT
Mục tiêu
hoạt động
Mục tiêu
trung gian
Mục tiêu
cuối cùng
Các biến số
chỉ báo
21
- Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
Tùy theo mức độ phát triển của cơ chế quản lý tín dụng, NHTW có thể
sử dụng công cụ này trên hai phương diện sau:
 Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
Nếu lãi suất tiền gửi quy định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm
gia tăng tiền vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi suất tiền gửi thấp sẽ
làm giảm lượng tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín dụng.
Nếu lãi suất cho vay thấp, các doanh nghiệp có cơ hội vay được nhiều
vốn cho sản xuất kinh doanh. Nếu lãi suất cho vay cao, nó sẽ kìm hãm bớt sự
phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Nhược điểm của việc sử dụng công cụ này là làm cho các NHTM mất
đi tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, có thể dẫn đến tình trạng ứ đọng
vốn ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng
tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền
mặt cũng như nguồn vốn cho vay. Hơn nữa, khi ngân hàng cho vay với mức
lãi suất thấp có thể dẫn đến cơ chế “xin cho” làm cho vốn vay được sử dụng

kém hiệu quả.
 Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
NHTW có thể quy định khung lãi suất dưới các hình thức: lãi suất sàn -
lãi suất trần, lãi suất trần - mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và
lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần - lãi suất cơ bản, … và bắt buộc các
NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi suất.
Biện pháp này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng các mức
lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ quy định mức lãi suất kinh
doanh; đồng thời giúp cho các ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho
vay, loại bỏ dự án kinh tế kém hiệu quả.
- Hạn mức tín dụng:
22
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa NHTW cho phép các NHTM
cung ứng cho nền kinh tế. Hạn mức này được quy định cho từng ngân hàng,
căn cứ vào đặc điểm kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho các đối tượng chính sách
và nằm trong tổng dự nợ tín dụng của toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian
nhất định. NHTM chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức
tín dụng.
Hạn mức tín dụng là công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính
của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền
kinh tế, nhằm đảm bảo mức tăng trưởng khối lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu đã đề ra.
Công cụ này kém hiệu quả điều tiết, thiếu linh hoạt, không thể thay đổi
thường xuyên vì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình kinh doanh của các
NHTM. Việc xác định hạn mức tín dụng cho các NHTM rất khó, nhiều khi
thiếu chính xác. Khi hạn mức tín dụng lớn hơn nhu cầu tín dụng thì công cụ
này không có ý nghĩa. Ngược lại, nếu hạn mức tín dụng quá nhỏ, nó có thể
làm tăng lãi suất tín dụng, thúc đẩy “thị trường vốn ngầm”.
b) Các công cụ gián tiếp
Đó là những công cụ NHTW có thể sử dụng để tác động trước hết vào

mục tiêu hoạt động, nhờ sự lan truyền của cơ chế thị trường ảnh hưởng tới
mục tiêu trung gian, từ đó đạt được mục tiêu cao nhất của CSTT. Các công cụ
gián tiếp thường được sử dụng ở những nền kinh tế thị trường phát triển và có
mối liên hệ chặt chẽ giữa các mức lãi suất thị trường.
- Lãi suất tái chiết khấu:
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với
các NHTM và TCTD dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa
đến thời hạn thanh toán.
23
NHTW ấn định lãi suất tái chiết khấu cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục
tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được sử dụng để kiểm soát sự biến động
lãi suất trên thị trường và điều tiết lượng tiền cung ứng.
Cơ chế sử dụng:
Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả
năng vay của ngân hàng thương mại và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng
lên hay giảm xuống.
 Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên, các NHTM sẽ bất lợi trong việc vay
vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các NHTM không có khả năng
mở rộng tín dụng. Nghĩa là nhu cầu vay vốn của các NHTM giảm,
lượng tiền cung ứng giảm.
 Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các NHTM có khả năng mở
rộng cho vay đối với khách hàng, do được lợi trong việc vay vốn
NHTW. Như vậy, lượng tiền cung ứng tăng lên.
Sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu coi như dấu hiệu của định hướng
chính sách tiền tệ của NHTW. Khi có chiều hướng biến động lãi suất tái chiết
khấu tăng lên là dấu hiệu của chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc giảm xuống là
dấu hiệu của chính sách tiền tệ nới lỏng. Tuy nhiên hiệu ứng thông báo chỉ có
hiệu quả khi lãi suất tái chiết khấu phù hợp với mức lãi suất thị trường.
Công cụ lãi suất tái chiết khấu có khả năng điều tiết một cách linh hoạt
các mục tiêu trung gian. Tuy nhiên mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này

căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW, vì thế nó là
công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược điểm này người ta thường sử
dụng kết hợp với công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Theo luật định, khi các NHTM huy động được vốn tiền gửi trong xã
hội phải trích ra một phần của số tiền gửi này để gửi vào tài khoản dự trữ bắt
24
buộc tại NHTW và để tại quỹ của mình. Số tiền gửi được trích ra theo tỷ lệ dự
trữ bắt buộc quy định của NHTW.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền dự trữ bắt buộc và
tổng số dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc các NHTM thu hút được trong
một khoảng thời gian nhất định.
Tùy theo điều kiện từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều quy định về
việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể
quy định chung cho tất cả các NHTM hoặc có thể quy định riêng cho từng
ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được quy định chung cho toàn bộ các
loại tiền gửi hoặc có thể quy định đối với từng loại tiền gửi (tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi ngắn hạn dưới 1 năm, tiền gửi có kỳ hạn dưới 2 năm,…).
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tạo điều kiện để NHTW kiểm soát
quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng
để tác động đến mức cung tiền tệ.
Cơ chế sử dụng:
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, làm thay đổi mức dự trữ bắt buộc,
từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng trên các phương diện sau:
 Khi NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, làm giảm
hoặc tăng khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó,
làm giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ.
 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của công thức tạo
tiền. Vì thế sự tăng lên hoặc giảm xuống của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ
làm giảm hoặc tăng hệ số mở rộng tiền gửi và do đó khả năng mở rộng

tiền gửi của hệ thống Ngân hàng sẽ giảm hoặc tăng lên.
Ưu điểm: công cụ này có thể tác động một cách đầy quyền lực và như
nhau đến tất cả các NHTM. Cụ thể là, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ
25
DTBB thì tác động của nó đến khối lượng tiền tệ rất lớn. Vì đây là biện pháp
mang tính bắt buộc nên lãi suất của các NHTM chắc chắn tăng hoặc giảm.
Nhược điểm: công cụ dự trữ bắt buộc có thể gây ra các tác động tiêu
cực đến nền kinh tế. Khi các NHTW muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ
thì khó có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, việc
thay đổi tỷ lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM
có mức dự trữ vượt quá ở mức thấp, nền kinh tế rơi vào tình trạng thiếu vốn
và rơi từ khó khăn này đến khó khăn khác. Hơn nữa nếu thường xuyên thay
đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng không ổn định cho các NHTM
và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này gặp khó
khăn. Công cụ này còn có độ trễ về mặt thời gian nên một sự gia tăng hay
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi hỏi NHTW phải nghiên cứu trước sự chịu đựng
của các NHTM.
- Nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của
NHTW trên thị trường tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ
quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Thông qua
việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các NHTM và điều tiết
mức cung ứng tiền tệ.
Cơ chế sử dụng:
Công cụ này được sử dụng theo cơ chế là mua hoặc bán các chứng từ
có giá của NHTW với các thành viên tham gia thị trường mở.
 Khi muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng
cho nền kinh tế, NHTW thực hiện mua các chứng từ có giá trên thị trường.
 Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền, thu hẹp tín dụng, NHTW bán

các chứng từ có giá đang nắm giữ.

×