Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

kiện toàn tổ chức thanh tra nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.33 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
____________________
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
________________________________________

NGHIấM PHÚ TRƯỜNG
KIỆN TOÀN TỔ CHỨC THANH TRA
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NễNG THễN
TỈNH HÀ NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CễNG
Chuyên ngành: Quản lý hành chính công.
Mã số: 60 34 82
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN BÁ CHIẾN
HÀ NỘI - 2011
Lời cảm ơn
Để hoàn thành chương trình cao học và thực hiện luận văn này, tôi đã
nhận được sự quan tâm, giảng dạy, tạo điều kiện giúp đỡ và góp ý tận tình
của Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo Học viện Hành chính thuộc Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Trước hết, tôi xin chân thành cám ơn Ban Giám đốc Học viện Hành
chính và các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy tôi suốt thời gian học tập tại
Học viện.
Đặc biệt cho tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Nguyễn Bá Chiến
– Phó Trưởng khoa Sau đại học – Học viện Hành chớnh đó dành nhiều thời
gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Đồng thời tôi xin chân thành cám ơn các đồng chí Lãnh đạo, Chuyên
viên Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam, Thanh tra tỉnh Hà Nam và các
cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Nam đã tạo điều kiện cho


tôi điều tra, khảo sát để có dữ liệu thực hiện luận văn./.
Hà Nội, tháng 4 năm 2011
Người thực hiện
Nghiờm Phú Trường
2
MỤC LỤC
Đề mục Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA VÀ
THANH TRA CHUYÊN NGÀNH
16
1. Những vấn đề lý luận về thanh tra
1.1 Khái niệm về thanh tra
1.1.2. Đặc điểm Thanh tra 18
1.1.3. Phân biệt giữa Thanh tra và Kiểm tra 19
1.1.4. Vai trò của Thanh tra 21
1.1.5. Hệ thống tổ chức Thanh tra 25
1.1.6. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra 34
1.2. Những vấn đề lý luận về Thanh tra chuyên ngành
1.2.1. Khái niệm Thanh tra chuyên ngành
1.2.2. Đặc điểm Thanh tra chuyên ngành
1.2.3. Vai trò của Thanh tra chuyên ngành
1.2.4. Tổ chức của Thanh tra chuyên ngành
1.2.5. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra chuyên ngành
41
42
44
49
1.3. Kinh nghiệm một số nước về tổ chức Thanh tra 52
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

THANH TRA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TỈNH HÀ NAM
2.1. Những yếu tố, điều kiện tự nhiên tác động đến công tác thanh
tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam.
2.1.1. Yếu tố địa lý và điều kiện tự nhiên
60
2.1.2. Tình hình sản xuất các lĩnh vực Ngành Nông nghiệp & PTNT
quản lý thuộc đối tượng của công tác của Thanh tra Nông nghiệp &
61
3
PTNT Hà Nam.
2.2. Thực trạng tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà
Nam
2.2.1. Giai đoạn chưa tổ chức Thanh tra Sở độc lập:
2.2.2. Giai đoạn thành lập tổ chức thanh tra sở độc lập:
68
69
2.3. Các quy định hiện hành điều chỉnh tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam
2.3.1. Các quy định về tổ chức thanh tra.
2.3.2. Các quy định về thẩm quyền hoạt động của Thanh tra Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam.
72
74
2.4. Những ưu điểm và những hạn chế về tổ chức thanh tra Nông
nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam
2.4.1. Ưu điểm
2.4.2. Hạn chế
77
78

2.4.3. Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế về tổ chức Thanh tra
Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam.
82
2.5. Thực trạng hoạt động của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT Hà
Nam
87
2.5.1. Tình hình hoạt động của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT Hà
Nam.
91
2.5.2. Những kết quả đạt được và những hạn chế hoạt động của Thanh
tra Nông nghiệp & PTNT Hà Nam
93
2.5.3. Nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và và những hạn chế
hoạt động của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT Hà Nam
95
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN
TỔ CHỨC THANH TRA NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN TỈNH HÀ NAM
3.1. Định hướng kiện toàn tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT
Hà Nam.
98
4
3.1.1. Kiện toàn tổ chức Thanh tra phải xuất phát từ đường lối, nhiệm vụ
chính trị của Đảng, mục tiêu quản lý kinh tế xã hội của Tỉnh và của
Ngành Nông nghiệp & PTNT.
3.1.2. Phải thực hiện phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm hành chính một cách hợp lý cả chiều dọc và chiều ngang.
3.1.3. Việc tổ chức lại Thanh tra Nông nghiệp & PTNT phải gắn chặt
với việc xây dựng và nâng cao năng lực của đội ngũ công chức – thanh
tra viờn.

3.1.4. Thực hiện kiện toàn tổ chức gắn với chất lượng, hiệu quả công tác
và trách nhiệm của công chức – thanh tra viên.
3.2. Thiết kế tổ chức Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nam
99
100
102
3.2.1. Xác định mục tiêu.
3.2.2. Xác định chức năng, thẩm quyền.
3.2.3. Xác định cơ cấu tổ chức của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh
Hà Nam.
3.2.4. Định biên.
3.3. Giải pháp kiện toàn toàn tổ chức Thanh tra Nông nghiệp &
PTNT Hà Nam.
3.3.1. Tên gọi và tổ chức bộ máy của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT
tỉnh Hà Nam:
3.3.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh
Hà Nam.
3.3.3. Điều kiện và kinh phí hoạt động của Thanh tra Nông nghiệp &
PTNT tỉnh Hà Nam
3.3.4. Tổ chức thực hiện:
103
105
108
111
113
115
KẾT LUẬN 116
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước, hoạt động
thanh tra luôn gắn liền với chủ thể quản lý, vì vậy, hình thức nhà nước nào –
hình thái xã hội nào cũng cần đến hoạt động thanh tra. Ở Việt Nam ngay từ
6
thời kỳ phong kiến (các triều đại Lý, Trần, Lê) có cơ quan gọi là “Ngự sử
đài” (chức danh này tương đương Tổng thanh tra ngày nay) có nhiệm vụ
giúp Vua trong việc xem xét, trình tấu những công việc hệ thống, có quyền
can gián Vua và đối với những nghĩa sĩ trung thực, dám nói thẳng, nói thật
mới được phong hàm “Giỏn nghị đại phu” (có thể hiểu giống như ngạch
Thanh tra viên hiện nay).
Từ Hiến pháp năm 1946 với khái niệm “Ban kiểm soỏt” của Ban
Thường vụ Nghị viện để kiểm soát, phê bình Chính phủ đến Sắc lệnh số
64/SL thành lập “Ban Thanh tra đặc biệt” của Chính phủ; việc ghi nhận
trong Hiến pháp năm 1959 (Điều 76), Hiến pháp 1980 (Điều 107, 110),
Hiến pháp năm 1992 (Điều 112, 115, 116. 124) và Pháp lệnh thanh tra năm
1990, Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010 là quá trình đúc
kết kinh nghiệm và dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm thanh tra.
Đặc điểm của thanh tra là gắn liền với quản lý nhà nước, mang tính
quyền lực nhà nước, độc lập, tuân theo pháp luật. Căn cứ vào phạm vi hoạt
động thanh tra có thể hiểu một khái niệm: Thanh tra là một dạng hoạt động,
là một chức năng của quản lý nhà nước được thực hiện bởi chủ thể quản lý
có thẩm quyền, nhân danh quyền lực nhà nước nhằm tác động đến đối tượng
quản lý trên cơ sở xem xét, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
những năm qua đất nước ta đã thu nhiều thành tựu quan trọng trờn cỏc lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để bước vào thời kỳ

công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cùng với việc phát triển kinh tế và
giải quyết các vấn đề xã hội khác, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây
dựng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm
7
là cải cách nền hành chính. Hoạt động Thanh tra đã góp phần tăng cường
pháp chế, thiết lập kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền – lợi
ích hợp pháp của công dân và cơ quan, tổ chức. Thông qua đó nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa.
Đất nước ta đang dần hội nhập sâu rộng, mặc dù cơ cấu nền kinh tế đó
cú những thay đổi căn bản nhằm tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
nhưng lực lượng sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm số lượng không nhỏ, hoạt
động sản xuất nông nghiệp có tác động đến đời sống, sinh hoạt của bộ phận
lớn người dân trong xã hội. Vì vậy, quản lý nhà nước trong các hoạt động
lĩnh vực nông nghiệp rất cần thiết và hoạt động thanh tra Nông nghiệp &
PTNT luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước trên cùng lĩnh vực.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã kéo theo một loạt
những thay đổi. Đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp
hơn với sự gia tăng về số lượng các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần
kinh tế cũng như quá trình xã hội hoá nhiều lĩnh vực, trong đó Nhà nước
không còn can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính, mà quản lý xã hội
thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, bằng luật pháp cho mọi thành phần
kinh tế hoạt động và phát triển cũng như thực hiện chức năng thanh tra,
kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu. Theo quan niệm, nhận thức mới, Nhà nước
thực hiện vai trò phục vụ xã hội với tính chất là một tổ chức dịch vụ công;
Nhà nước có trách nhiệm tạo ra một hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp
và cá nhân tự do phát triển. Nhà nước có quyền và có nhiệm vụ tạo ra một
môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật,
công bằng. Bản thân các cơ quan nhà nước cũng phải hoạt động trên cơ sở

pháp luật, tuân thủ pháp luật. Việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật lĩnh vực Nông nghiệp & PTNT phải được
8
tiến hành chuyờn sõu, do các cơ quan quản lý nhà nước ngành Nông nghiệp
& PTNT thực hiện.
Mục đích của hoạt động Thanh tra Nông nghiệp & PTNT là bảo đảm
sự chấp hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự,
kỷ cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động kinh tế tài chính,
kinh tế xã hội trong lĩnh vực Nông nghiệp & PTNT. Đối tượng thanh tra của
hoạt động thanh tra Nông nghiệp & PTNT có phạm vi rộng, bao quát toàn
bộ các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Thanh tra Nông nghiệp
& PTNT có quyền xử phạt hành chính, trong đó tập trung vào hoạt động
kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý, kết hợp với xử lý vi phạm.
Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tổ chức và hoạt động theo qui định
của Luật Thanh tra và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ
quy định trên cơ sở chức năng quản lý của Ngành. Tiến trình cải cách hành
chính đã làm tăng qui mô quản lý với đặc điểm đa ngành – đa lĩnh vực trong
khi đó cũng còn nhiều vấn đề chưa theo kịp, chưa thực sự cải cách nên hiện
nay các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và thực tiễn về mô hình
tổ chức và hoạt động Thanh tra Nông nghiệp & PTNT rất phức tạp, xung
đột pháp lý trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật qui định về tổ chức,
nhiệm vụ, thẩm quyền Những yếu tố này tác động không nhỏ đến hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước.
Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nam được thành lập khi tỉnh Hà Nam
được tái lập từ năm 1997 sau khi chia tách từ tỉnh Nam Hà, là một tỉnh có
diện tích và qui mô dân số nhỏ nhưng tỷ trọng nông nghiệp chiếm ưu thế
lớn, trình độ nhận thức pháp lý và khả năng tự bảo vệ trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp của nông dân còn yếu nên đòi hỏi công tác thanh tra lĩnh
vực nông nghiệp và phát triển nông thôn cần được tổ chức sao cho đủ về số
lượng, gọn về bộ máy, tinh về trình độ chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ thanh

tra và được trang bị đầy đủ công cụ, phương tiện hoạt động cũng như đảm
bảo tính thẩm quyền luật định trong quá trình thực hiện công vụ.
9
Hiện trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT
tỉnh Hà Nam trong những năm qua còn bất cập bởi nhiều nguyên nhân,
trong đó tựu trung nhất là do mô hình tổ chức chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả
hoạt động chưa đạt được mong muốn của tiến trình cải cách quản lý nhà
nước
Việc tổ chức lại cơ quan thanh tra NN&PTNT Hà Nam để đáp ứng
đòi hỏi thực tế, đảm bảo đầy đủ chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền nhằm
tuân thủ tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật là một đòi hỏi thực
tế và rất cần thiết. Việc tổ chức lại cơ quan thanh tra NN&PTNT Hà Nam
phải được thực hiện trên cơ sở căn cứ pháp lý và luận cứ khoa học về công
tác thanh tra. Là cán bộ đang trực tiếp công tác tại Thanh tra Sở Nông
nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam; tác giả chọn đề tài “Kiện toàn tổ chức
Thanh tra Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Nam” để thực
hiện Luận văn cao học chuyên ngành Quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với hệ thống cơ quan Thanh tra nhà nước, trong nhiều luật và
pháp lệnh hiện hành đều quy định việc tổ chức Thanh tra chuyên ngành.
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước. Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ
của Thanh tra chuyên ngành về từng lĩnh vực đều được giao cho Chính phủ
quy định. Trên thực tế ở nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và một số Sở ở địa phương ngoài cơ quan thanh tra nhà nước làm chức
năng thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ kế hoạch nhà
nước của các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Bộ, Sở; xem xét việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo lại song song tổ chức hệ thống cơ quan Thanh
tra chuyên ngành từ trung ương đến địa phương, độc lập với Thanh tra Bộ,
thanh tra Sở, thậm chí có Bộ, Sở có tới 3 - 4 đầu mối Thanh tra chuyên

10
ngành. Các cơ quan thanh tra chuyên ngành đã được thành lập bằng các nghị
định, quyết định của Chính phủ.
Thực tế của các mô hình nói trên đó gõy không ít lúng túng cho các
Cơ quan hữu quan dự thảo quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của các chức vụ Thanh tra chuyên ngành, nhất là đối với thẩm quyền
xử phạt cho Thanh tra chuyên ngành cấp Cục, Chi cục. Trong quá trình
soạn thảo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi) khi trình Uỷ ban
thường vụ Quốc hội về việc sửa đổi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
Chính phủ cũng cho rằng, nếu bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính cho Thanh tra chuyên ngành cấp Cục, Chi cục là không hợp lý, như
vậy sẽ làm phân tán hệ thống tổ chức cơ quan Thanh tra trong từng ngành,
tăng đầu mối, làm tăng biên chế rất lớn, không phù hợp với chủ trương cải
cách hành chính, tinh giản bộ máy hiện nay.
Việc nghiên cứu chức năng hoạt động, phạm vi, thẩm quyền của
Thanh tra chuyên ngành nói chung đã được nhiều chuyên gia quan tâm bằng
những công trình, những bài viết rất có ích. Tuy nhiên chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ để quyết
định mô hình tổ chức của Thanh tra Nông nghiệp & PTNT cấp tỉnh mà cụ
thể là ở tỉnh Hà Nam. Nói cách khác chưa có công trình nghiên cứu toàn vẹn
vấn đề tổ chức Thanh tra Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam được tiếp
cận dưới góc độ khoa học hành chính.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu về Thanh tra là những nguồn tài
liệu vô cùng bổ ích có giá trị để tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu, trong
đó cơ bản gồm các đề tài sau: “Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của
ngành Thanh tra trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi Luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật
về thanh tra.” do đồng chí Trần Văn Truyền – Tổng Thanh tra, làm Chủ
11
nhiệm; “Thực trạng hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội của Thanh tra Chính

phủ trong thời gian qua, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong thời
gian tới” do đồng chí Ngô Văn Khánh – Phó Vụ trưởng Vụ II, Thanh tra
Chính phủ làm Chủ nhiệm; “Đổi mới công tác văn phòng phục vụ sự chỉ
đạo, điều hành của lãnh đạo Thanh tra Chính phủ” do đồng chí Hà Trọng
Công – Chánh Văn phòng Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiợŠm; “Đổi mới
công tác tổ chức cán bộ của ngành Thanh tra” do đồng chí Nguyễn Khắc
Hường – Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ làm Chủ nhiệm; “Một số giải pháp
nhằm hạn chế trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động thanh tra” do đồng chí
Lê Đức Trung, Phó trưởng phòng Quản lý Khoa học, Viện Khoa học Thanh
tra làm chủ nhiệm.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có tính lý luận nhưng đi sâu vào thực tiễn, vì vậy mục tiêu
của luận văn là làm rõ quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ thẩm
quyền của cơ quan thanh tra cũng như các đối tượng hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp & PTNT trên địa bàn tỉnh Hà Nam, qua đó để đưa ra giải
pháp về tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT Hà Nam đảm bảo hiệu quả
trong hoạt động quản lý nhà nước.
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ cụ thể của Luân văn là:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thanh tra và thanh tra
chuyên ngành. Nghiên cứu các chế định pháp luật về thanh tra trong đó tập
trung vào nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan thanh
tra ngành cấp Sở.
Nhiệm vụ trung tâm của Luận văn là đi sâu tìm hiểu, đỏnh giá hiện
trạng tổ chức, nhiệm vụ được giao và thẩm quyền luật định đối với hoạt
động của các tổ chức, các chức danh thuộc hệ thống thanh tra Nông nghiệp
12
& PTNT tỉnh Hà Nam, làm rõ những nguyên nhân và hạn chế. Từ đó, Luận
văn đề ra các giải pháp để kiện toàn tổ chức Thanh tra Nông nghiệp &
PTNT tỉnh Hà Nam theo yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước, cân đối
các điều kiện vật chất để đảm bảo yêu cầu cho hoạt động thanh tra chuyên

ngành độc lập, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là: Tổ chức Thanh tra Nông
nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức Thanh tra
Nông nghiệp & PTNT một địa phương cụ thể là tỉnh Hà Nam trong giai
đoạn từ năm 2000 đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam và chủ trương
chính sách của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới phục vụ công tác quản lý lĩnh vực Nông nghiệp & PTNT nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hà Nam nói riêng,
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khi thực hiện đề
tài là: phương pháp phõn tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp
so sánh, phương pháp thống kê và điều tra.
6. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp của Luận văn.
13
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về
tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam, là cái nhìn tổng quát
từ lý luận đến thực tiễn, từ qui định của pháp luật đến việc áp dụng pháp luật
trong tổ chức và hoạt động của thanh tra nói chung và riêng biệt của thanh
tra nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam .
Là đề tài đầu tiên nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của thanh tra
nông nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam sẽ giỳp cỏc nhà quản lý tỉnh Hà Nam
nhìn nhận chân thực nhất về thanh tra Nông nghiệp & PTNT cũng như
những mặt đã làm được, những điểm chưa làm được và nguyên nhân của nó

để giải quyết khắc phục.
Luận văn đưa ra cách tiếp cận mới có tính hệ thống về bản chất của
cơ quan Thanh tra Nông nghiệp & PTNT cấp Tỉnh và bổ sung thêm một số
vấn đề lý thuyết tổ chức Thanh tra thuộc Sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực,
làm sáng tỏ một số vấn đề thực tiễn của tổ chức Thanh tra cấp Sở thuộc
Tỉnh.
Luận văn đề xuất giải pháp tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT
tỉnh Hà Nam để đáp ứng đòi hỏi của công tác quản lý nông nghiệp và nông
thôn trong giai đoạn mới.
7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài lời mở đầu, mục lục, kờt luận và phụ lục, luận văn được chia
thành 3 chương.
Chương I: Những vấn đề lý luận về thanh tra và thanh tra chuyên
ngành
Chương II: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nông
nghiệp & PTNT tỉnh Hà Nam
14
Chương III: Giải pháp tổ chức Thanh tra Nông nghiệp & PTNT tỉnh
Hà Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA
VÀ THANH TRA CHUYấN NGÀNH
15
1.1. Những vấn đề lý luận về Thanh tra
1.1.1. Khái niệm Thanh tra
Thanh tra - tiếng Anh - Inspect - xuất phát từ gốc La tinh (In spectare)
có nghĩa là nhìn vào bên trong "chỉ" một sự xem xét từ bên ngoài vào một
đối tượng nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt: Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan xí nghiệp

(TĐTV Viện ngôn ngữ học NXB TP HCM, TPHCM 2002, tr 838). Với
nghĩa này thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: "xem xét phát hiện ngăn
chặn những gì trái với qui định" Thanh tra thường đi kốm với một chủ thể
nhất định: "Người làm nhiệm vụ thanh tra", "đoàn kiểm tra" và "đặt trong
hành vi quyền hành của một chủ thể nhất định".
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt nam, Thanh tra được
thể hiện mức độ khác nhau, phụ thuộc vào ý chí chủ quan và nhu cầu quản
lý xã hội từng thời kỳ:
Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được sử dụng, nhưng
có các chức quan làm công việc giống như thanh tra, đó là: thời Lý có chức
quan Gián nghị đại phu; thời Trần có cơ quan gọi là "Ngự sử đài" với chức
năng gần giống như cơ quan Thanh tra nhà nước hiện nay và có chức quan
Ngự sử đứng đầu Ngự sử đài: thời Lê có hàm Gián nghị đại phu phong tặng
cho bất cứ bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật; đời Lê Thánh Tông
(1460- 1497) đặt ra chức giám sát ngự sử để xem xét công việc ở các đạo
cho khỏi sự nhũng nhiễu (Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim); nhà
Nguyễn (thời Gia Long 1802- 1819) có Lục bộ: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ
Hình, Bộ Công ngoài lục bộ có Đô sát viện để giữ việc can gián Vua và dàn
hạch các quan với các chức Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các
đạo, trong Viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu" Việt
nam sử lược Tr 172 Trần Trọng Kim).
16
Thời kỳ sau 2/9/1945, sau khi giành độc lập, nước Việt Nam dõn chủ
cộng hòa ra đời, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
64/SL thành lập Ban thanh tra đặc biệt, thuật ngữ "thanh tra" xuất hiện
quyền thanh tra được xác định và chớnh thức được giao cho Chớnh phủ.
Hiến pháp năm 1946 chưa sử dụng thuật ngữ "thanh tra", hoạt động
thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách nào, quyền
kiểm soát đối với Chớnh phủ được giao cho Ban thường vụ của Nghị viện.
Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc

thi hành các quyết định quản lý nhà nước.
Hiến pháp năm 1980 sử dụng thuật ngữ "thanh tra" với nội dung là
một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước.
Hiến pháp năm 1992: Khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rừ
hơn tại các điều 112, 115, 116, và 124; khoản 7 điều 112 qui định Chớnh
phủ có nhiệm vụ "tổ chức và lónh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà
nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy Nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dõn".
Pháp lệnh thanh thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ
chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản
lý Nhà nước.
Luật Thanh tra năm 2004 khẳng định và làm rừ hơn vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra nhà nước.
Sau 5 năm thực hiện, tổng kết đánh giá trên thực tế, Luật Thanh tra
năm 2010 đã được Quốc hội thông qua trên cơ sở khắc phục những hạn chế
và chỉnh sửa cho phù hợp với tốc độ phát triển của kinh tế xã hội:
Thanh tra là một tổ chức thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt động
kiểm tra xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan nhà nước đối với việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhõn được
thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật qui định nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
17
luật để kiến nghị các biện pháp khắc phục và phát huy nhõn tố tích cực, góp
phần năng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhõn.
1.1.2. Đặc điểm Thanh tra
Thanh tra gắn liền với quản lý Nhà nước, tất cả các giai đoạn của chu
trình quản lý nhà nước đều thông qua thanh tra để có thông tin đầy đủ,
chớnh xác.

Thứ nhất: Thanh tra luôn mang tớnh quyền lực nhà nước, là một chức
năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích
cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản
lý. Thanh tra là một hoạt động luôn mang tớnh quyền lực Nhà nước. Chủ thể
tiến hành thanh tra (ở đõy được dùng với tớnh chất là một danh từ chỉ cơ
quan có chức năng này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong
quá trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhõn danh Nhà nước khi áp
dụng quyền năng đó.
Thứ hai: Thanh tra có tớnh độc lập tương đối, đõy là đặc điểm vốn có,
xuất phát từ bản chất của thanh tra, đặc điểm này phõn biệt thanh tra với các
loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước.
Theo quy định của Luật hiện hành, Thanh tra nhà nước bao gồm
thanh tra hành chớnh và thanh tra chuyên ngành:
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
18
Tóm lại, có thể hiểu: Thanh tra bao gồm các yếu tố, các hoạt động của
chủ thể quản lý nhà nước nhằm làm rõ một hoặc một số vấn đề để xem xét,
đánh giá mức độ phù hợp (đúng, sai) với mục tiêu của nhà quản lý; Thanh
tra bao gồm các đầy đủ các yếu tố của điều tra hành chính do cơ quan quyền
lực nhà nước thực hiện.
1.1.3. Phân biệt giữa Thanh tra và Kiểm tra:
a) Kiểm tra:
Kiểm tra: tiếng Anh - "control" có nghĩa là kiểm tra, thẩm định, xác
minh. Theo từ điển tiếng việt thì kiểm tra là "xem xét tình hình thực tế để

đánh giá, nhận xét".
Kiểm tra có thể hiểu là sự xem xét thực tế để đưa ra đánh giá, nhận
xét của bất kỳ cá nhõn nào trong bất cứ một hoạt động nào, là xem xét
những diễn biến diễn ra có đúng với qui tắc đã xác lập, các tiêu chuẩn và các
mệnh lệnh về quản lý đã ban hành ra hay không.
b) Sự giống nhau của thanh tra, kiểm tra.
Kiểm tra, thanh tra đều giống nhau ở tớnh mục đích. Thông qua kiểm
tra để góp phần thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động quản lý
nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra giống nhau ở việc phát hiện, đánh giá một cách
chớnh xác, khách quan, trung thực, làm rừ đúng sai, từ đó đề xuất biện pháp
khắc phục và xử lý vi phạm.
c) Sự khác nhau của thanh tra, kiểm tra.
Thứ nhất: về nội dung
Nội dung của kiểm tra thường đơn giản và dễ dàng nhận thấy, ngược
lại nội dung của thanh tra thường đa dạng phức tạp hơn; một vấn đề thuộc
về kiểm tra hay thanh tra cần căn cứ vào nội dung cụ thể để xác định.
Thứ hai: về chủ thể
19
Chủ thể của hoạt động thanh tra, phải là tổ chức thanh tra được Nhà
nước công nhận bằng pháp luật.
Chủ thể của kiểm tra đa dạng hơn so với chủ thể của thanh tra. Mọi
chủ thể quản lý đều có quyền kiểm tra hoạt động thuộc thẩm quyền của
mình.
Thứ ba: Khác nhau về trình độ nghiệp vụ
Hoạt động thanh tra đòi hỏi thanh tra viên có nghiệp vụ điều tra hành
chính, am hiểu mọi mặt của kinh tế xã hội, có kiến thức pháp luật chuyên
sõu vào lĩnh vực thanh tra hướng đến. Có như vậy mới có thể đi sõu tỡm
hiểu vụ việc, thu thập được thông tin, chứng cứ, xác minh, đối chiếu, phõn
tích, đánh giá tình hình đi đến kết luận chớnh xác, khách quan.

Hoạt động kiểm tra ít phức tạp hơn thanh tra, nội dung kiểm tra đơn
giản và rõ ràng nên không cần áp dụng các biện pháp nghiệp vụ vẫn có thể
xác định được đúng, sai:
Ví dụ:
+ Kiểm tra: Quy định hiện hành buộc các chủ thể muốn vận chuyển
gia súc đi từ A đến B phải được kiểm dịch – thể hiện bằng giấy chứng nhận
kiểm dịch; chủ thể kiểm tra chỉ cần kiểm tra giấy chứng nhận kiểm dịch và
số lượng gia súc đi kèm: có hay không có giấy chứng nhận kiểm dịch tương
ứng với vi phạm hay không vi phạm (đúng, sai)
+ Thanh tra: Vẫn ví dụ trên đây nhưng trong trường hợp chủ thể quản
lý nhà nước thấy cần xác định: gia súc đang vận chuyển đú cú đỳng đó được
kiểm dịch hay chưa, việc kiểm dịch có tuân thủ đỳng cỏc quy định hiện hành
hay không đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ mới kết luận được
– đú chớnh là hoạt thanh tra.
Thứ tư: Khác nhau về phạm vi hoạt động
Phạm vi hoạt động kiểm tra thường theo bề rộng, diễn ra liên tục, ở
khắp mọi nơi với nhiều hình thức phong phú, mang tớnh quần chúng.
20
Phạm vi hoạt động thanh tra thường hạn hẹp hơn hoạt động kiểm tra.
Hoạt động thanh tra thường có sự chọn lọc, đôi khi thông qua hoạt động
kiểm tra có thể thấy những dấu hiệu phức tạp mà cứ tiến hành kiểm tra thì
không làm rừ được, bởi vậy cần chọn ra những nội dung đó để thanh tra.
Thứ năm: Khác nhau về thời gian tiến hành
Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều vấn đề phải xác minh, đối
chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ được làm rừ, cho nên phải sử dụng
thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.
d) Mối quan hệ qua lại giữa kiểm tra và thanh tra
Kiểm tra là một trong nhiều thao tác nghiệp vụ của Thanh tra, là hai
khái niệm khác nhau nên cần phải nghiêm túc khi sử dụng cặp từ thanh tra -
kiểm tra một cách tràn lan như hiện nay.

1.1.4. Vai trò của Thanh tra
a) Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh mang tớnh
quyền lực nhà nước đối với quá trình xã hội và hành vi hoạt động của mỗi
con người để duy trì sự phát triển xã hội và trật tự xã hội nhằm thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Có nhiều cách phõn loại các chức
năng quản lý khác nhau; ở phạm vi nghiên cứu về quản lý nhà nước xét theo
giai đoạn tác động thì quản lý nhà nước có 3 chức năng cơ bản sau đõy: Ra
quyết định quản lý; Tổ chức thực hiện; Kiểm tra việc thực hiện quyết định.
Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định là
những giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Các giai đoạn này gồm
những công việc cụ thể như sau:
Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước các cơ quan
quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành việc hoạt động thanh tra thực hiện
các quyết định mà mình đã ban hành, đó là một khõu không thể thiếu được
trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước.
21
Công cuộc đổi mới toàn diện ở đất nước ta đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh việc chuyển đổi nền kinh tế và hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước,
trong đó thanh tra với tư cách là một phương thức bảo đảm pháp chế, tăng
cường kỷ luật nhà nước, nõng cao hiệu quả quản lý nhà nước cần phải xác
định như một nhõn tố tất yếu của công tác quản lý.
b) Thanh tra góp phần nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Thực tế chỉ ra rằng: hiệu lực quản lý của Nhà nước phần lớn tựy
thuộc vào nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thục hiện các quyết
định tổ chức nhà nước.
Hiệu lực quản lý nhà nước bị ảnh hưởng nếu.
- Quyết định quản lý nhà nước không đảm bảo tớnh giai cấp, tớnh
đảng, tớnh pháp luật.
- Không dựa trên những luận cứ khoa học (phù hợp với qui luật và

điều kiện thực tế khách quan).
- Không phù hợp vói nguyện vọng của quần chúng và không đáp ứng
được nhu cầu của xã hội.
Hiệu lực quản lý nhà nước cũng bị ảnh huởng ngay cả khi nội dung,
chất lượng quyết định quản lý đã bảo đảm các yêu cầu cơ bản, nhưng lại
thiếu biện pháp bảo đảm cho quyết định đó được thực hiện.
Để các quyết định quản lý nhà nước được các cơ quan, tổ chức và cá
nhõn tuõn thủ và chấp hành một cách chớnh xác, đầy đủ; Cơ quan, cá nhõn
đã ban hành quyết định phải đề ra quy trình thực hiện quyết định. Trong quy
trình đó không thể thiếu được hoạt động thanh tra.
Thanh tra để đánh giá, nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết
định quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi, thậm chí phải hủy bỏ một
phần hay toàn bộ quyết định quản lý.
Trường hợp nội dung và chất lượng quyết định quản lý được thực tế
kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp với nhưng đối tượng thi hành vẫn không
tuõn thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt động thanh tra phải
22
phục vụ cho việc làm rừ nguyên nhõn (cả chủ quan lẫn khách quan), xác
định rừ trách nhiệm thuộc về khõu nào, thuộc về ai để chấn chỉnh hoặc xử lý
(khi có vi phạm) với ý nghĩa đó thanh tra thực chất góp phần nõng cao hiệu
quả quản lý nhà nước. Trong hoạt động thực tiễn, thanh tra không chỉ là một
trong những phương thức đảm bảo các quyết định quản lý được tuõn thủ
một cách nghiêm túc, mà cũn góp phần xem xét cả tớnh hiệu quả của quản
lý nhà nước.
Thanh tra không chỉ hướng đến xem xét, đánh giá thực hiện một
quyết định quản lý cụ thể, mà phải hướng đến xem xét kết luận, đánh giá kết
quả thực hiện các mục tiêu, chương trình, trách nhiệm thanh tra của cơ quan
quản lý của Nhà nước.
c) Thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nguyên tác cơ bản của hệ thống chính trị và bộ máy

nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật tuõn thủ một cách tuyệt
đối, không một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài pháp luật.
Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ phớa
các cơ quan nhà nước và từ phớa các cá nhõn, tổ chức là đối tượng chịu sự
quản lý của nhà nước. Về phớa các cơ quan nhà nước, nguyên tác pháp chế
thể hiện ở việc cán bộ, công chức nhà nước thực thi đúng chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định. Ở diện rộng hơn, nó cũn
là việc cơ quan nhà nước thực thi đúng phạm vi, thẩm quyền, trách nhiệm đã
được qui định trong các văn bản pháp luật.
Nguyên tắc pháp chế thể hiện cả ở hoạt động ban hành các quyết
định, các văn bản quản lý: Văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù hợp với
các qui định trong các văn bản của cơ quan cấp trên; Văn bản có hiệu lực
thấp hơn phải phục tùng những văn bản cao hơn; Mọi văn bản pháp luật
phải phù hợp với Hiến pháp - đạo luật gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
23
d) Thanh tra là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những
hành vi vi phạm pháp luật.
Vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là
phát hiện và xử lý mà quan trọng hơn, thanh tra đúng vai trò như một biện
pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Tớnh phòng ngừa của
thanh tra đối với hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện ở những khớa
cạnh sau:
Một là, thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn
luôn là hiện thõn của kỷ cương, pháp luật.
Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm hạn chế mà cũn có chức
năng tỡm hiểu, giúp đỡ, định hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các
qui định của pháp luật. Điều này sẽ càng trở nên quan trọng nếu chúng ta
quan niệm về một Nhà nước làm dịch vụ công. Khi đó các cơ quan có chức
năng thanh tra sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ mà các cơ quan

đơn vị, doanh nghiệp, công dõn trông cậy để có thể nhận được những
khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng pháp
luật.
Hai là, thanh tra luôn là cách thức phõn tích , mổ xẻ một cách sõu sắc,
đầy đủ nhất các nguyên nhõn, động cơ, mục đích, tớnh chất, mức độ của
một hành vi vi phạm. Do vậy các giải pháp (các khuyến nghị, kiến nghị, yêu
cầu ) được đưa ra từ hoạt động thanh tra không chỉ định hướng vào việc xử
lý hành vi vi phạm pháp luật mà nó cũn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của
chớnh sách pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những hành
vi vi phạm pháp luật tượng tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào thời gian
khác.
Ba là, thanh tra luôn có tớnh định hướng và tớnh xõy dựng. Vai trò
phòng ngừa của thanh tra được đề cập ở đõy là vai trò phòng ngừa mang
tớnh chủ động. Trong rất nhiều truờng hợp, qua thanh tra có thể dự báo
24
được một hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có
sự chấn chỉnh, không có sự định hướng cho các đối tượng một cách kịp thời.
Thanh tra ngày càng được nhìn thấy đầy đủ hơn vai trò của nó trong
quá trình phát triển bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nếu như những ngày
đầu cách mạng, Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh mới chỉ nhấn mạnh đến
công tác thanh tra nhằm giám sát, kiểm soát coi đó như một sự bảo đảm cho
việc thực hiện các đường lối, chủ trương, chớnh sách thì những năm tiếp sau
đó, vai trò của thanh tra cũn được thể hiện mạnh mẽ hơn qua việc tham gia,
thúc đẩy quá trình phát triển đó. Thanh tra không chỉ phát hiện ra những sơ
hở của bản thõn cơ chế, chớnh sách, chỉ ra những khuyết tật của bộ máy và
quá trình vận hành bộ máy sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn cơ chế,
chớnh sách, thanh tra cũn biểu dương những cái tốt, cái tích cực, những yếu
tố mới, những nhõn tố điển hình cần nhõn rộng phát huy.
1.1.5. Hệ thống tổ chức Thanh tra
Trong tiến trình phát triển tư duy quản lý, tổ chức hệ thống thanh tra

cũng nằm trong sự vận động chung của tổ chức các cơ quan nhà nước như
sau:
a) Thời kỳ Ban Thanh tra đặc biệt (11/1945-12/1949):
Ngày 23/11/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL
thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Đõy chớnh là tổ chức tiền thõn của thanh
tra Chớnh phủ hiện nay. Theo sắc lệnh này, Ban thanh tra đặc biệt có chức
năng nhiệm vụ giám sát tất cả các công việc và nhõn viên của Ủy ban nhõn
dõn và các cơ quan của Chớnh phủ. Ban thanh tra đặc biệt có quyền hạn rất
lớn: nhận đơn, điều tra, hỏi chứng, xem xét tài liệu, tịch thu niêm phong
tang vật, đình chức, bắt giam bất cứ nhõn viên nào trong ủy ban nhõn dõn
hay chớnh phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chớnh phủ hay Tổ
chức tòa án đặc biệt xét xử
25

×