Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.43 KB, 16 trang )

Trường đại học kinh tế quốc dân
-----------***------------
Tiểu luận
Kinh tế Việt Nam
Chủ đề: Xã hội hóa giáo dục ở Việt Nam
Sinh viên thực hiện Nguyễn Thái Sơn
Giảng viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Thị Vi
Hà Nội – 2010
Lời nói đầu
Giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đã và đang nhận được sự quan tâm to lớn từ Đảng, nhà nước
và nhân dân. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc đầu tư cho
giáo dục & đào tạo nhân lực có chất lượng cao luôn là vấn đề được đặt lên
hàng đầu. Bước sang thế kỉ XXI với sự phát triển của công nghệ thông tin và
nên kinh tế tri thức, nền kinh tế thế giới đang có nhiều chuyển biến. Sự hợp
tác đa dạng, đa phương trong nền kinh tế thị trường đã và đang đòi hỏi các
nước phải cải cách giáo dục theo hướng hiện đại. Phát triển quy mô, nâng
cao chất lượng giáo dục không chỉ đặt ra đối với các nước đang phát triển
mà ngay cả ở những nước phát triển cũng đang tiến hành những cuộc cải
cách và hiện đại hóa giáo dục. Ở nước ta, công cuộc đổi mới kinh tế đã tạo
điều kiện đổi mới giáo dục và xã hội đang yêu cầu giáo dục nước nhà đẩy
nhanh tốc độ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội để nước ta sớm bắt
kịp các nước trong khu vực và quốc tế. Trong thời kì đổi mới, giáo dục nước
ta đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, đến nay chúng ta đã có một hệ thống
cơ sở giáo dục & đào tạo, đa dạng các loại hình nhà trường và các hình thức
giáo dục, quy mô giáo dục phát triển từ mầm non đến đại học. So với thời kì
kế hoạch hóa tập trung, giáo dục thời kì đổi mới đã đổi thay nhiều mặt. Có
được thắng lợi to lớn này là do chúng ta đã tích cực thực hiện các chương
trình xã hội hóa trong công tác giáo dục.
Phần 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1 Khái niệm


 Xã hội hóa trong khái niệm của xã hội học là quá trình tương
tác xã hội kéo dài suốt cuộc đời qua đó cá nhân phát triển khả năng con
người và học hỏi các mẫu văn hóa của mình.
 Xã hội hóa giáo dục: văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành TW Đảng khóa VIII chỉ rõ xã hội hóa giáo dục là huy động toàn xã
hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền
giáo dục quốc dân dưới sự quản lí của nhà nước. với khá đông người dân
và không ít cán bộ, XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC được hiểu một cách đơn
giản và phiến diện là huy động sự đóng góp bằng tiền của dân vào sự
nghiệp giáo dục, là tăng mức học phí ở các cấp học, bậc học, là đa dạng
hoá loại hình trường và…hết! Điều này đã khiến cho nhiều cuộc vận động
góp sức cho sự nghiệp giáo dục đã bị lệch hướng. Vì vậy việc trình bày lại
một cách có hệ thống và toàn diện nội dung của thuật ngữ thường bị hiểu
sai lệch này là cần thiết.
Nghị quyết 90-CP của Chính phủ do Thủ tướng ký ngày 21-8-1997 đã xác
định khái niệm XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC như sau, đó là:
• là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã
hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục;
• là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân và đảng
bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại
địa phương và của từng người dân đối với việc tạo lập và cải thiện
môi trường kinh tế xã hội lành mạnh thuận lợi cho hoạt động giáo
dục;
• là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật
lực và tài lực trong xã hội (kể cả từ nước ngoài ); phát huy và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực này.
1.2 Nội dung, hình thức:
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC có 3 nội dung chủ yếu:
Một là tạo ra phong trào học tập sâu rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình

thức, vận động toàn dân, trước hết là những người trong độ tuổi lao động
thực hiện học tập suốt đời để làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn và có cuộc
sống tốt đẹp hơn, làm cho xã hội ta trở thành xã hội học tập.
Hai là vận động toàn dân chăm sốc thế hệ trẻ, tạo môi trường giáo dục tốt
lành, phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục ở gia
đình và ngoài xã hội; tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ đảng, Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các đoàn thể quần chúng, các doanh nghiệp…
đối với sự nghiệp giáo dục.
Ba là nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân, của mỗi
người đối với giáo dục nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hệ thống
giáo dục để phục vụ tốt việc học tập của nhân dân.
Như vậy XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC không chỉ là công việc của ngành giáo
dục mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi tổ chức kinh tế xã hội dưới sự
lãnh đạo của đảng và quản lý của nhà nước. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
không là một giải pháp ngắn hạn trong lúc ngân sách nhà nước dành cho
giáo dục còn hạn hẹp mà là một giải pháp lâu dài, mang tính chiến lược. XÃ
HỘI HÓA GIÁO DỤC nhằm đến thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục,
nhằm làm cho không chỉ thế hệ trẻ mà là mọi người dân được hưởng các
quyền lợi mà giáo dục đem đến đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho
mọi người dân, mọi tổ chức chính trị-kinh tế-văn hoá xã hội phát huy cao
nhất trách nhiệm và năng lực của mình đóng góp cho cho sự nghiệp giáo
dục. XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC còn nhằm đến mục tiêu xây dựng xã hội
học tập trên đất nước, hình thành thói quen học suốt đời trong từng người dù
là trí thức hay lao động chân tay, dù trẻ hay cao tuổi.
XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC với nội dung phong phú như vậy được biểu hiện
dưới rất nhiều hình thức. Có thể tạm liệt kê cách hình thức chủ yếu sau đây:
i. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo: Mở trường ngoài công lập ở mọi
cấp học bậc học. Trường công lập hiện giờ có dạng công lập truyền
thống và công lập tự hạch toán kinh tế. Tuỳ bậc học và điều kiện
kinh tế của địa phương mà học phí trường công lập là thấp hay cao.

Ngoài trường công lập ra, còn có trường tư thục (do một cá nhân
đứng ra mở trường, đầu tư cho trường hoạt động) hay dân lập (do
một nhóm công dân hay do tổ chức trong hoặc ngoài nước hoặc
cùng kết hợp với nhau đứng ra mở trường và đầu tư cho trường hoạt
động).
ii. Các cơ sở đào tạo theo phương thức không chính quy như các
trường bổ túc văn hoá, các trung tâm giáo dục ngoài giờ như trung
tâm ngoại ngữ, tin học, dạy nghề, dạy nhạc, các câu lạc bộ và nhà
văn hoá-thể dục thể thao, trạm khuyến nông khuyến ngư, các trung
tâm con giống, trung tâm thú y, trạm trại nông ngư nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng và bưu chính viễn thông, thư viện,
bảo tàng… Tất cả họp thành một mạng lưới các cơ sở giáo dục đào
tạo chuyên và không chuyên rất đa dạng vể hình thức và nội dung
học tập để người học các lứa tuổi có thể chọn lựa cho phù hợp với
hoàn cảnh của mình.
iii. Du học tự túc do gia đình tài trợ hoặc vừa làm vừa học ở nước
ngoài để tự trang trải trả học phí và các sinh hoạt khác.
iv. Lập các học bổng, giải thưởng khuyến học do cá nhân/ tổ chức
trong hay ngoài nước tài trợ cho những người học có thành tích tốt,
người học có hoàn cảnh đặc biệt.
v. Tổ chức, tạo điều kiện cho người dân và các tổ chức tham gia
góp ý vào các quyết sách liên quan đến giáo dục như chiến lược
phát triển giáo dục đào tạo, chương trình, sách giáo khoa, cải tiến thi
cử…; khuyến khích người có trình độ tham gia viết sách giáo khoa,
tài liệu tập huấn, tham gia giảng dạy theo các hình thức chính quy
và không chính quy…
vi. Liên kết với các trường nước ngoài trong công tác đào tạo, mời
chuyên gia giáo dục nước ngoài đến giảng dạy hay quản lý trường,
tham gia thiết kế chương trình, sách giáo khoa. Mời người ngoài
ngành giáo dục đến tham gia giảng dạy trong trường, trong trung

tâm.
vii. Thành lập và củng cố các tổ chức như Hội Khuyến học, Hội cha
mẹ học sinh, Hội đồng Quốc gia giáo dục, Uỷ ban văn hoá giáo dục
của Quốc hội …, đưa các tổ chức trên vào hoạt động có quy củ, có
thực chất, có hiệu quả.
viii. Nhà nước khuyến khích bằng chính sách tài chính đối với các
cá nhân và tổ chức có hoạt động trong lĩnh vực giáo dục như giao
đất làm trường, không thu tiền sử dụng đất, miễn đóng thuế giá trị
gia tăng, ưu đãi thuế suất, ưu đãi tín dụng. Nhà nước cho người đi
học được vay tiền trong thời gian đi học… Người làm việc trong các
cơ sở ngoài công lập, người có công với giáo dục dưới nhiều hình
thức khác nhau cũng được nhà nước xét tặng các huân huy chương
và danh hiệu các loại, được hưởng tiền thưởng từ ngân sách nhà
nước.
ix. Nhà nước điều tiết ngân sách và điểm chuẩn thi tuyển theo
hướng ưu tiên cho các vùng khó khăn, vùng giáo dục kém phát
triển, thành phần nghèo đi học, nâng cao thêm tính bình đẳng trong
cơ hội tiếp cận giáo dục và dạy nghề ở các cấp học, bậc học.
1.3 Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục:
- tạo ra sự thay đổi về cơ bản cơ chế quản lí, vận hành, tổ chức hoạt
động giáo dục theo hướng dân chủ hóa, đa dạng hóa, phù hợp với cơ
chế của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- phát huy cao độ nội lực tiềm tàng trong xã hội, khơi dậy tính chủ
động, tích cực, năng động sáng tạp của mọi tầng lớp nhân dân tạo ra
những nguồn lực phong phú đa dạng từ trong và ngoài nước để thúc
đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển nhanh mạnh và vững chắc,
phục vụ kịp thời những yêu cầu to lớn của công cuộc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.
- thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, từng bước không ngừng
nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục đào tạo của mỗi người dân; hình

thành trong mọi tầng lớp nhân dân ý thức học tập thường xuyên, học
tập suốt đời, tiến tới xây dựng một xã hội học tập.

×