Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Sản xuất và sử dụng các Pheromone Đặc hiệu phòng trừ sâu hại phục vụ sản xuất rau an toàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.51 KB, 92 trang )

Bộ Nông nghiệp và pTNT
Viện khoa học nông nghiệp Việt nam
Viện bảo vệ thực vật
Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội


Báo cáo tổng kết
kết quả thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm


Tên dự án
Sản xuất và sử dụng các pheromone
đặc hiệu phòng trừ sâu hại
phục vụ sản xuất rau an toàn


M số kc 04. DA12

Chủ nhiệm đề tài:

TS. Lê Văn Trịnh





6654
12/11/2007


Hà Nội, 2007



1
Mở đầu

1. Đặt vấn đề
Việc sản xuất rau ở nớc ta đã và đang gặp trở ngại lớn do tác hại của sâu bệnh và hậu
quả của việc sử dụng thuốc để phòng trừ sâu bệnh hại. Các đối tợng sâu hại, nh: sâu tơ
và sâu khoang là những đối tợng sâu hại quan trọng trên rau họ thập tự, sâu xanh và sâu
xanh da láng là đối tợng hại nguy hiểm trên cà chua, hành tỏi, v.v. Các sâu hại này
thờng làm giảm năng suất cây trồng từ 35 - 45%, thậm chí không cho thu hoạch. Để
bảo vệ rau màu khỏi bị phá hại, nông dân thờng sử dụng nhiều loại thuốc trừ sâu với số
lợng từ 10 - 14 lần phun trong một vụ gieo trồng chỉ vẻn vẹn trong 2,5 - 3 tháng.
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp nớc ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây
trồng theo hớng phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, nhằm tạo ra khối lợng sản
phẩm lớn có chất lợng cao phục vụ tiêu dùng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
chế biến và xuất khẩu. Nhiều vùng sản xuất tập trung qui mô lớn đã hình thành, nh:
vùng rau Hà Nội, Hải Dơng, Vĩnh Phúc, Hồ Chí Minh và Đà Lạt; vùng sản xuất cà
chua phục vụ công nghiệp chế biến ở Hải Phòng; vùng nho và hành tây xuất khẩu ở
Ninh Thuận, v.v Vì vậy, vấn đề dịch hại tất yếu nảy sinh và ngày càng trở nên gay gắt
hơn, thiệt hại ngày càng lớn. Mặt khác, đối với sâu khoang, sâu xanh đục quả cà chua,
sâu xanh da láng hại hành, nông dân không thể theo dõi, phát hiện sớm bằng các phơng
pháp vẫn thờng khuyến cáo.
Trong điều kiện đó, ngời nông dân vì thu nhập và lợi nhuận của mình đã buộc phải sử
dụng thuốc trừ sâu hoá học với cờng độ cao gấp 2- 4 lần so với khuyến cáo, thậm chí
phải phun thuốc hoá học định kỳ 7- 10 ngày/lần. Kết quả điều tra đã xác định có tới
27,5% số mẫu rau có d lợng thuốc hoá học trong sản phẩm vợt quá mức cho phép từ
1,5 4,6 lần. Hàng năm, có tới hàng ngàn trờng hợp bị ngộ độc và có hàng trăm trờng
hợp bị tử vong do sử dụng sản phẩm rau có d lợng thuốc độc hại cao. Hơn nữa, số
lợng các loài sinh vật có ích bị suy giảm từ 70 100% và sâu hại phát triển tính kháng
thuốc cao gấp 20 1000 lần so với bình thờng (chỉ số Ri từ 195,6- 1250).


2
Rõ ràng, sản xuất rau an toàn và có chất lợng cao lâu nay đã và đang là nhu cầu cấp
bách của thực tiễn sản xuất nông nghiệp nớc ta, để phục vụ nhu cầu tiêu dùng và tạo
khả năng bền vững cho xuất khẩu. Tổng diện tích có thể sử dụng pheromone để phòng
trừ sâu hại ớc tính mỗi năm vào khoảng hơn 4 triệu ha trên phạm vi toàn quốc. Riêng
pheromone sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh và sâu xanh da láng hại trên các loại rau cây
trồng nông nghiệp ớc tính vào khoảng 620.000 hecta, bao gồm rau thập tự khoảng
500.000 ha (cho 4 loài sâu), Hành tây và hành lá: 20.000 ha (3 loài sâu); Cà chua:
40.000 ha (3 loài); Lạc: 50.000 ha; Đậu tơng: 10.000 ha, v.v.
Để khắc phục tình trạng nói trên, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về sâu hại rau
và biện pháp phòng trừ, trớc hết là các biện pháp kỹ thuật nhằm giảm thiểu lợng thuốc
hoá học sử dụng trên rau. Từ năm 2005, đợc sự ủng hộ của Bộ Khoa học và Công nghệ,
Viện Bảo vệ thực vật đợc phép tiến hành sản xuất thử nghiệm và ứng dụng pheromone
trong hệ thống bảo vệ thực vật để phòng trừ sâu hại 4 loài sâu hại quan trọng trên rau.
Hoàn thiện KTCN sản xuất và sử dụng pheromone để dự báo, phòng trừ sâu hại cây
trồng nông nghiệp, trớc hết là các vùng sản xuất rau quanh thành phố và khu công
nghiệp sẽ góp phần đáng kể vào việc hạn chế sử dụng thuốc hoá học và giảm d lợng
hoá chất độc hại, phục vụ sản xuất rau an toàn cho tiêu dùng và xuất khẩu. Đồng thời,
từng bớc tạo điều kiện sử dụng trên diện rộng trong sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh,
hình thành mạng lới dự báo sâu hại bằng pheromone trong cả nớc và sử dụng
pheromone phòng trừ phòng trừ sâu hại trên các cây trồng nông, lâm nghiệp ở nớc ta.
2. Xuất xứ của dự án
Dự án sản xuất thử nghiệm (SXTN) này đợc xây dựng từ kết quả của đề tài Nghiên
cứu xác định pheromone giới tính sâu tơ và ứng dụng trong phòng trừ của Chơng
trình hợp tác KHCN theo Nghị định th giữa Việt Nam và Trung Quốc (2002- 2004) và
một phần kết quả của đề tài: "Sử dụng pheromone côn trùng để quản lý dịch hại bền
vững ở Việt Nam" trong khuôn khổ Chơng trình hợp tác KHCN theo Nghị định th
giữa Việt Nam và Mỹ (2005- 2006). Kết quả đã đợc Hội đồng KHCN Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đánh giá xuất sắc và đ

ợc công nhận là tiến bộ kỹ thuật.
Việc thực hiện dự án SXTN nhằm hoàn thiện một số khâu kỹ thuật công nghệ để sản
xuất và sử dụng pheromone phòng trừ sâu hại, phục vụ sản xuất rau an toàn.

3
Chơng 1
Tổng quan tài liệu

1.1. Nớc ngoài
1.1.1. Nghiên cứu sản xuất pheromone sâu hại
Pheromone là sản phẩm đặc trng của mỗi loài và đợc xác định nh một phơng tiện
giao tiếp sinh sản quan trọng giữa các cá thể khác giới trong một loài. Theo Schneider D.
(2000) và Witzgall P. (2001), mặc dù việc nghiên cứu và ứng dụng pheromone côn trùng
mới chỉ tiến hành thật sự đến nay mới đợc hơn 40 năm (từ năm 1959), nhng đã gặt hái
nhiều thành công và đã trở thành một công cụ quản lý sâu hại hữu hiệu và rất an toàn
trong sản xuất nông, lâm nghiệp và bảo quản nông sản trong kho tàng.
Cheng E. Y. et al., (1992), Larry G. et al. (2003), Pickett J. A., Schneider D. (2000),
Trumble J. T. (1997), Witzgall P. (2001) đều khẳng định những thành công lớn trong
lĩnh vực nghiên cứu sản xuất các loại pheromone, chúng không chỉ có hiệu lực hấp dẫn
cao đối với trởng thành các loài côn trùng gây hại, mà còn có hiệu lực trong thời gian
dài, rất lý tởng cho việc sử dụng. Đến nay, các loại pheromone tổng hợp và qui trình
công nghệ tạo dạng sử dụng đều cho phép sản xuất đợc các loại pheromone có thời
gian tồn tại hiệu lực kéo dài từ 20 ngày đến 3 tháng tuỳ theo loài, nên trong một vụ gieo
trồng nông dân chỉ cần thay mồi 2- 3 lần mồi bẫy.
+ Đối với sâu tơ (P. xylostella)
Năm 1977, Tamaki và Kawasaki đã xác định thành phần hoá học chính của pheromone
hình thành từ bớm cái sâu tơ gồm các hợp chất: (Z)-11-hexadecenal (Z11-16:Ald) và
(Z)-11 hexadecenyl acetate (Z11-16: Ac). Tổng hợp 2 hợp chất này và phối chế theo tỷ
lệ biến động từ 8 : 2 đến 4 : 6 đều có hiệu quả hấp dẫn cao đối với bớm sâu tơ trên
đồng ruộng (Ando et al., 1970; Koshihara và Yamada, 1978; Chisholm et al., 1979).

Nếu phản ứng phối chế 2 chất hoá học này theo tỷ lệ 1: 1 cũng cho hiệu quả hấp dẫn cao
(Ohbayashi N., Shimizu K. và Nagata K.; 1996). Đến năm 1980, Koshihara và Yamada
đã nghiên cứu cải tiến nhằm làm tăng hoạt lực của pheromone bằng cách đa thêm 1%
chất Z11-16: OH). Sau đó, Chisholm et al. (1983) và Deng và Du (2002) còn cải tiến
thêm bằng cách đa thêm vào phản ứng 0,01% chất (Z)-11-tetradecenyl acetate. Trái lại,

4
Nemoto H, Yano E. và Kiritani K. (1992) lại xác định thành phần gồm 2 chất Z11-16:
Ald và Z11- 16: OH theo tỷ lệ 1: 1 cho hiệu quả hấp dẫn cao. Trong khi đó, ở New
Zealand lại xác định tỷ lệ tham gia phản ứng phối chế của 3 chất: Z11-16:Ald, Z11-16:
Ac và Z11- 16: OH theo tỷ lệ: 3: 6: 1 hoặc 2 chất: Z11-16: Ald và Z11-16: Ac theo tỷ lệ
6: 4 đều cho hiệu quả hấp dẫn trởng thành sâu tơ trên đồng ruộng rất kém (Suckling,
2002). Tại Trung Quốc, tuy các tác giả không nêu rõ tỷ lệ giữa các thành phần tham gia
phản ứng, nhng khẳng định tổ hợp 3 chất lại cho hiệu lực rất cao (Liu et al. 1985,
1987), qui trình KTCN tạo sản phẩm này đã đợc áp dụng và thử nghiệm tại 9 tỉnh ở
Việt Nam cho hiệu quả hấp dẫn sâu tơ tơng tự nh sản phẩm của Trung Quốc (Wang
X.; Trinh L.V và Zhang Z.N., 2003).
+ Đối với sâu xanh (H. armigera)
Cũng tơng tự nh quá trình nghiên cứu xác định và tổng hợp pheromone của sâu tơ và
sâu khoang. Năm 1986, Tumlinson et al. xác định pheromone sâu xanh gồm 4 thành
phần khác nhau với phản ứng phối chế theo tỷ lệ 81: 0,5: 0,5: 18. Đến năm 1996, các
nhà khoa học Trung Quốc khẳng định pheromone tổng hợp có hiệu lực dẫn dụ sâu xanh
cao gồm 2 hợp chất là Z11- 16: Ald và Z9 16: Ald với tỷ lệ tham gia phản ứng phối
chế tơng ứng là 9: 1 (Du, Tang, Xu và Mial, 1996), còn Kobayashi (1996) lại xác định
tỷ lệ của 2 thành phần tơng ứng là 97: 3.
+ Đối với sâu keo da láng (S. exigua):
Phoromone sâu da láng đợc Brady và Ganyard xác định có một thành phần chủ yếu là
(Z,E)-9-12 14: Ac vào năm 1972. Năm 1976, Mitchell và Doolittle xác định bản thân
thành phần hoá học này không có hiệu lực hấp dẫn sâu khoang trên đồng ruộng. Sau đó,
Tumlinson et al. (1981) xác định lại thành phần hoá học của pheromone giải phóng từ

con cái sâu khoang thấy có tới 11 hợp chất khác nhau, trong số đó có hợp chất Z9- 14:
OH có hiệu lực hấp dẫn cao đối với con đực. Đến năm 1983, Mitchell et al. xác định
phản ứng phối chế theo tỷ lệ 10: 1 giữa 2 thành phần (Z,E) 9- 12 14: Ac và Z9- 14: OH
có hiệu quả hấp dẫn rất cao. Kết quả này đã đợc Wakamura (1987) ở Nhật Bản và
Cheng et al. (1985) ở Đài Loan khẳng định. Đến năm 1990 thì Wakamura và Takai lại
xác định tỷ lệ giữa 2 thành phần là 7: 3 sẽ cho hiệu quả hấp dẫn con đực cao nhất và khả
năng ức chế giao phối của sâu khoang đạt tới 97%. Năm 1990, Tumlinson et al. chỉ rõ

5
phản ứng phối chế pheromone sâu xanh da láng với 3 thành phần hoá học là (Z, E) 9-
12- 16: Ald; (Z)-9 16: OH và (Z)- 11- 16: Ald sẽ cho hiệu lực hấp dẫn sâu trên đồng
ruộng cao nhất.
+ Đối với sâu khoang (S. litura)
Trong thành phần hoá học của pheromone sâu khoang tổng hợp có một hợp chất đợc
coi là quan trọng nhất là (Z, E)- 9- 11- 14:Ac. Còn thành phần (Z, E)- 9- 12- 14: Ac có
vai trò quan trọng trong thành phần pheromone sâu xanh da láng, song chỉ là thành phần
phụ trong thành phần của pheromone sâu khoang và hiệu quả ngoài đồng ruộng là
không rõ (Tamaki et al., 1973; Yushima et al., 1975 và Oyama, 1977). Nhng
Kobayashi (1996) lại khẳng định đó là thành phần không thể thiếu của pheromone sâu
khoang, tỷ lệ tham gia phản ứng phối chế của hai thành phần này là 9: 1 mặc dù hợp
chất này tự nó có hiệu lực hấp dẫn sâu không cao.
Nh vậy, việc xác định tỷ lệ thành phần các chất tham gia phản ứng tạo pheromone của
một loài sâu hại nào đó để có hiệu lực cao đối với từng nơi cụ thể là một vấn đề phải
đợc nghiên cứu kỹ càng. Tuy nhiên, theo Kobayashi A.N (1996) và Zhang Z.N (2003)
hé mở thì độ tinh khiết của các chất và liều lợng chất xúc tác phản ứng tuy chỉ dới
1%, chất đệm phản ứng chỉ dới 10% tổng lợng hoá chất tham gia phản ứng nhng lại
là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực và thời gian tồn tại hiệu lực của pheromone.
1.1.2. Giá thể tạo dạng sử dụng pheromone
Nh Schneider D. (2000) đã chỉ rõ, do hoạt tính sinh học của pheromone côn trùng rất
cao và chuyên tính theo loài, nên liều lợng sử dụng cũng rất ít. Hoflis M. và Charles C.

D. (1996), Malo E. D., Leopoldo C. L. et al. (2003), Trumble J. T., (1997) và nhiều nhà
khoa học khác đều cho rằng không thể sử dụng pheromone với lợng lớn trên một đơn vị
diện tích cây trồng nh thuốc trừ sâu, mà chỉ sử dụng với liều lợng cực nhỏ vài mililit
cho một ha đã đủ đạt hiệu lực để khống chế sâu hại. Vì vậy, việc tạo dạng sử dụng
pheromone của một loài sâu hại nào đó cũng là một vấn đề phải đợc nghiên cứu đầy
đủ. Trên thực tế, hiện nay có 4 dạng giá thể sử dụng pheromone, đó là: (1) Giá thể cao
su dạng xốp; (2) Giá thể nhựa plastic dạng xốp; (3) Giá thể sợi nhựa plastic dạng vi ống
(microtuype); (4) Giá thể dạng bột có từ tính.

6
Yếu tố quan trọng nhất có liên quan đến chất lợng sản phẩm mồi pheromone là các
chất liệu giá thể này đều phải qua công đoạn tẩy rửa, nhằm loại bỏ tạp chất để khi đa
pheromone vào giá thể sẽ không bị biến đổi về mặt hoá học (Arida G. S., et al., 2002;
Malo E. D., Leopoldo C. L. và Javier V. M., et al., 2003)
1.1.3. Sử dụng pheromone để dự báo, phòng trừ sâu hại:
Trong khoảng 15 năm trở lại đây, việc sử dụng pheromone để dự báo và phòng trừ sâu
hại trên thế giới phát triển khá nhanh và rộng rãi ở nhiều nớc, nhất là ở các nớc phát
triển nh Mỹ, Anh, Hà Lan, Canada, Đan Mạch, v.v. Hiện nay việc sử dụng pheromone
đợc coi nh một công cụ then chốt trong quản lý dịch hại tổng hợp trên các loại cây
trồng (D. Schneider, 2000 và P. Witzgall, 2001).
Do u thế của việc sử dụng pheromone rất an toàn với môi trờng và chất lợng sản
phẩm, nên diện tích cây trồng ứng dụng kỹ thuật này trong quản lý sâu hại ngày càng
mở rộng. Theo P. Witzgall (2001), chỉ tính riêng việc dùng pheromone phòng trừ bớm
hại quả táo ở vùng tây bắc nớc Mỹ đã tăng từ 1.000 ha vào năm 1991, lên 9.000 ha năm
1996 và đạt tới 45.000 ha năm 2000. Sử dụng pheromone đã góp phần làm giảm sử dụng
thuốc trừ sâu hại táo tới 80% và diện tích áp dụng pheromone chiếm tới hơn 50% diện
tích trồng táo của bang Washington, còn trên hành và rau dùng pheromone làm giảm
lợng thuốc trừ sâu từ 40- 90% (P. Seem và L. McCandless, 1999).
Các nhà khoa học ở Mehico cũng khẳng định dùng pheromone để phòng trừ bọ hà trên
khoai lang góp phần làm năng suất tăng 1,14 tấn/ha, giá trị thơng phẩm tăng 75USD/ha

và giá trị thu hoạch của ngới nông dân tăng thêm trung bình 100 USD/ha.
Tại Đài Loan, việc nghiên cứu ứng dụng pheromone để phòng trừ sâu tơ, sâu khoang bắt
đầu đợc khởi xớng từ năm 1977. Sau đó, diện tích đợc áp dụng pheromone để phòng
trừ sâu hại theo phơng thức bẫy đã tăng lên rất nhanh. Tính đến năm 1985 đã đạt tới
23.000 ha trên các loại rau, đến năm 1996 diện tích áp dụng lên tới 36.000 ha rau, hành
các loại (tơng đơng 10% tổng diện tích rau), 15.000 ha lạc, đậu xanh (tơng đơng
40% diện tích gieo trồng) và vào khoảng 16% diện tích khoai lang (Cheng E., Kao C.H,
Su W.Y và Chen C.N.,1998).
Sử dụng pheromone đặc biệt có hiệu quả trong dự báo và phòng trừ các đối t
ợng sâu
hại mà ngời nông dân và cán bộ kỹ thuật không thể giám sát chúng bằng các phơng

7
pháp điều tra giám sát truyền thống, nh đối với các loài sâu đục quả, đục hạt, sâu hại
hoa. Bằng kỹ thuật bẫy pheromone cho phép ngời nông dân vừa dự báo sớm khả năng
phát sinh gây hại của sâu để ra quyết định phòng trừ thích hợp, vừa có tác dụng hạn chế
số lợng quần thể sâu hại trên cây trồng. Theo P. Seem và L. McCandless (1999), mỗi
năm trên toàn nớc Mỹ triển khai tới 350.000 bẫy pheromone để dự báo sâu xanh, còn ở
Đài Loan đến năm 1997 đã thiết lập đợc 36 trạm dự tính dự báo sâu khoang, sâu xanh,
sâu da láng bằng pheromone.
Nhìn chung, pheromone đã đợc áp dụng khá phổ biến ở nhiều nớc trên thế giới để
quản lý dịch hại trên nhiều loại cây trồng nông, lâm nghiệp, nh: rau, đậu, hoa, bông,
nho, khoai lang, cam, táo, lê, các loại cây rừng và nông sản bảo quản trong kho tàng.
1.1.4. Kỹ thuật sử dụng pheromone trong quản lý dịch hại trên đồng ruộng
Theo Witzgall P. (2001), Cheng E. Y., Kao C. H., Su W. Y. và Chen C. N. (1992),
Hoflis M. F. và Charles C.D. (1996) khẳng định để sử dụng pheromone có hiệu quả cao
trong hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp ở một vùng đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ thuật sử
dụng cụ thể cho loài sâu hại cần phòng trừ vì các loài có tập tính sinh sống khác nhau.
+ Về phơng pháp sử dụng: Tuỳ theo mục đích sử dụng pheromone mà phơng pháp
sử dụng có khác nhau. Theo Tristram D. W. (1997), Trumble J. T. (1997), việc sử dụng

pheromone trong công tác quản lý sâu hại theo hai hớng chủ yếu, là để phát hiện, theo
dõi sự phát sinh của đối tợng sâu hại cần quan tâm và để phòng trừ. Nhng đều thực
hiện theo một trong hai phơng pháp là bẫy pheromone và quấy nhiễu giao phối.
Tuy nhiên, phơng pháp bẫy đợc áp dụng phổ biến ở các nớc đang phát triển vì chi
phí mua pheromone chỉ vào khoảng 40 - 60 USD/ha để phòng trừ một loài sâu, ít hơn
phơng pháp quấy rối giao phối tới 60% và nông dân dễ chấp nhận vì họ dễ dàng nhìn
thấy trởng thành sâu hại vào bẫy (Alvarez P., Asscaraman V., et al., 1996). ở Đài
Loan, 100% diện tích sử dụng pheromone đều thực hiện theo phơng thức bẫy vì nông
dân có thể tự làm ra bẫy để sử dụng cho diện tích gieo trồng của gia đình mình (Cheng
E. Y., Kao C. H., Su W. Y. và Chen C.N., 1992). Theo Arida G. S., et al. (2002), Lopes
J. D (1998), Malo E. D.; Leopoldo C. L. và Javier V. M., et al. (2003) thì sử dụng theo
phơng pháp bẫy có tác dụng vừa giúp nông dân giám sát đợc quá trình phát sinh của
sâu hại, nếu chúng phát sinh quá lớn nông dân có thể áp dụng giải pháp phòng trừ khác

8
ở các lứa sâu tiếp theo vì bẫy không đủ sức phòng chống. Nh vậy, phơng pháp dùng
bẫy vừa dễ tạo lòng tin của nông dân, vừa giúp họ dễ dàng đánh giá đợc hiệu quả
phòng trừ trên ruộng của mình.
Trái lại, ở hầu hết các nớc thuộc khu vực châu Âu, Bắc Mỹ và các nớc phát triển khác
lại sử dụng pheromone để phòng trừ sâu hại theo phơng pháp quấy rối giao phối, còn
bẫy pheromone chỉ để theo dõi dự báo là chính. Theo Seem P. và McCandless L. (1999)
Cheng E., Kao C.H, Su W.Y và Chen C.N. (1992), kết quả dữ liệu phát sinh của sâu hại
đợc thu thập theo phơng pháp theo dõi bằng pheromone kết hợp với công nghệ tin học
để mô hình hoá dự báo, kết quả dự báo thu đợc khá chính xác và cho phép dự báo sớm
khả năng gây hại của sâu.
Đến nay, việc dùng pheromone theo phơng pháp quấy rối giao phối đã và đang áp dụng
trên diện rộng hàng trăm ngàn hecta cho mỗi loại sâu hại ở nhiều nớc, nh: Mỹ,
Canada, Mehico, Hà Lan, Thuỵ Điển, Na Uy, v.v Trái lại, Cheng E., Kao C.H, Su W.Y
và Chen C.N. (1992) xác định với điều kiện canh tác ở Đài Loan thì sử dụng pheromone
theo phơng thức bẫy cho hiệu quả phòng trừ sâu hại cao hơn nhiều, mà chi phí đầu t

cho việc sử dụng pheromone lại giảm từ 50 - 56% so với phơng thức quấy rối .
+ Liều lợng sử dụng: Ogawa K., Kobayashi T. và Fukumoto T. (1999) nêu rõ liều
lợng pheromone thích hợp cho một đơn vị mồi bẫy là 1 microlit và sử dụng với mật độ
100 bẫy/ha với diện tích phát tán cho một bẫy 100 m
2
là phù hợp với hầu hết các loại sâu
hại cây trồng nông nghiệp, tức liều lợng pheromone sử dụng là 100 microlit/ha trong
thời gian 20 ngày đến 1,5 tháng khi sử dụng theo phơng pháp bẫy. Nhng nếu sử dụng
theo phơng pháp quấy rối giao phối thì liều lợng pheromone sử dụng cần phải nhiều
hơn, gấp từ 10 - 25 lần so với phơng pháp bẫy, vào khoảng 1.000 - 2.500 đơn vị mồi
bẫy/ha, tơng đơng liều lợng pheromone cần dùng từ 1 - 2,5 mililit/ha cho một đợt sử
dụng. Cheng E., Kao C.H, Su W.Y và Chen C.N. (1992) xác định với điều kiện đồng
ruộng ở Đài loan để dự báo sâu khoang chỉ cần dùng 2- 4 bẫy/ha (tơng đơng 2- 4
microlit pheromone/ha) và đối với sâu xanh da láng chỉ cần dùng 4- 8 bẫy/ha (tơng
đơng 4- 8 microlit pheromone).
Một số tài liệu khác đã chỉ rõ cờng độ gió có ảnh hởng rõ rệt đến liều lợng
pheromone cần phải sử dụng vì gió mạnh làm cho pheromone phát tán xa hơn và không

9
duy trì đủ lợng pheromone cần thiết để hấp dẫn mọi cá thể vào bẫy nh mong muốn
trên diện tích cần phòng trừ. Kết quả nghiên cứu của Malo E. D., Leopoldo C. L., Javier
V. M, et al. (2003), Rauscher S. và Arn H. (2001) chỉ rõ khi gió mạnh từ cấp 5 - 6 thì
hiệu lực hấp dẫn sâu hại giảm từ 26,7 - 34,9%. Vì thế tổng lợng pheromone cần phải sử
dụng cho một đơn vị diện tích cây trồng sẽ tăng lên. Tuy nhiên, với công nghệ phối chế
hiện nay thì điều kiện thời tiết nh ma nắng, không khí ẩm hoặc không quá khô, v.v
không ảnh hởng lớn đến thời gian tồn tại hiệu lực của các loại pheromone.
+ Thời điểm sử dụng pheromone có hiệu quả: Các tài liệu công bố đều chỉ rõ thời
điểm sử dụng pheromone là một khâu kỹ thuật quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
khả năng hạn chế sự phát triển số lợng quần thể của sâu hại trong thế hệ tiếp theo cũng
nh hiệu quả ngăn chặn sự phá hại của chúng đối với loại cây trồng cần phải bảo vệ.

Ogawa K., Kobayashi T. và Fukumoto T. (1999), Robert R. S., Osama E. L. và Larry A.
(1997) đã khẳng định dùng pheromone để phòng trừ sâu hại trên các cây ngắn ngày
ngay từ khi gieo trồng cho tới khi thu hoạch sẽ có hiệu quả nhất, đối với cả phơng pháp
bẫy và quấy rối giao phối. Các tác giả cho rằng nhiều loài sâu hại trên nhóm cây trồng
này có tập quán di chuyển từ khu ruộng sắp thu hoạch đến khu vực cây trồng mới từ rất
sớm, thậm chí ngay sau khi trồng.
Schroeder P. C., Shelton A. M., Ferguson C. S., Hoffman M. P. và Petzolldt C. H. (2000)
đã chỉ ra rằng nếu chỉ dùng pheromone vào cao điểm trởng thành sâu tơ phát sinh rộ thì
hầu nh không có hiệu quả hạn chế số lợng sâu non ở lứa sau. Các tác giả cho rằng với
các loài sâu hại có vòng đời ngắn nh sâu tơ, với các lứa sâu hình thành trên đồng ruộng
gối tiếp nhau thì việc sử dụng pheromone càng phải giữ liên tục từ đầu vụ cho đến cuối
vụ gieo trồng mới cho hiệu quả phòng trừ cao.
1.2. Trong nớc
1.2.1. Tình hình sản xuất pheromone
Trong vài năm qua, việc nghiên cứu phát triển chế phẩm pheromone côn trùng để phục
vụ phòng chống sâu hại trong mấy năm qua đã đợc một số cơ quan khoa học quan tâm.
Tại Phân viện Hoá học các hợp chất thiên nhiên đã tiến hành nghiên cứu để tổng hợp các
pheromone giới tính và đã thu đợc những thành công bớc đầu trong tổng hợp thành
phần chính của pheromone sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh, sâu keo da láng, sâu đục vỏ trái

10
bởi, kiến vơng và sâu đuông hại dừa, cũng nh bọ hà hại khoai lang (Nguyễn Công
Hào, Nguyễn Cửu Thị Hơng Giang và CS, 2005). Còn tại Trung tâm nghiên cứu Hoá
sinh ứng dụng cũng đã và đang tiến hành các nghiên cứu tổng hợp một số thành phần
hoá học các pheromone của mọt hại kho, sâu đục thân mía, sâu xám hại rau màu và một
số sâu khác (Trần Kim Qui, 2005). Tuy nhiên, tất cả các đơn vị này mới tập trung vào
việc nghiên cứu tổng hợp các thành phần chính của các pheromone, còn việc nghiên cứu
tạo dạng sử dụng pheromone và xác định kiểu bẫy, kỹ thuật sử dụng thích hợp với từng
loài sâu thì cha đợc tiến hành hoặc mới chỉ bớc đầu. Ngoài ra, các cán bộ thuộc Bộ
môn BVTV (Trờng ĐH Cần Thơ) cũng đã tiến hành một số thí nghiệm về tính hấp dẫn

sâu hại của các pheromone do Trờng ĐH Nông nghiệp Tokyo (Nhật Bản) cung cấp trên
cây ăn qủa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (Trần Văn Hai, Lê Văn Vàng và CS,
2005). Những kết quả thí nghiệm cũng chỉ rõ tiềm năng to lớn của việc sử dụng
pheromone trong hệ thống phòng trừ tổng hợp sâu hại cây trồng ở nớc ta.
Từ năm 2002, Viện Bảo vệ thực vật đã sản xuất thử nghiệm thành công các loại bẫy và
tạo dạng mồi bẫy pheromone sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh và sâu da láng để phục vụ
nhu cầu sản xuất rau an toàn của các tỉnh. Đã triển khai với tổng diện tích 752 ha trên
rau, lạc, hành, vải thiều và nho tại 9 tỉnh cả nớc. Kết quả bớc đầu đã mở ra triển vọng
phát triển sản xuất mồi pheromone một cách chủ động.
Với kết quả nghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật trong năm 2003, thì sản phẩm
pheromone tự sản xuất có tiềm năng hấp dẫn sâu hại khá cao và thời gian tồn tại hiệu lực
hấp dẫn sâu hại trên đồng ruộng không thua kém đáng kể so với sản phẩm cùng chủng
loại của nớc ngoài. Một bẫy pheromone trong một ngày đêm có thể thu hút đợc từ 27
- 415 trởng thành sâu tơ, 15 438 sâu khoang, 23- 462 sâu xanh và 19- 395 sâu xanh
da láng. Với mức hấp dẫn nh vậy, đã góp phần hạn chế rất lớn mật độ quần thể sâu hại
trên đồng ruộng và hạn chế việc sử dụng thuốc hoá học trừ sâu.
Thời gian tồn tại hiệu lực hấp dẫn của pheromone đối với sâu hại có thể kéo dài từ 19-
36 ngày tuỳ theo từng loại pheromone. Đặc biệt, thông qua lợng sâu vào bẫy hàng
ngày, ngời nông dân sẽ dự báo đợc khả năng gây hại của sâu và định ra kế hoạch
phòng trừ hợp lý, đúng thời điểm nên có hiệu quả phòng trừ cao mà không làm cho sâu
phát triển tính kháng thuốc.

11
Tuy có nhiều khả quan trong sản xuất mồi pheromone, song vẫn chỉ là những bớc đi
ban đầu, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện công nghệ sản xuất về các khía
cạnh, nh: tỷ lệ và độ tinh khiết của các chất hoá học thành phần để tạo pheromone, chất
liệu cao su để sản xuất giá thể và kỹ thuật sử lý để loại bỏ tạp chất trong giá thể, v.v.
1.2.2. Kỹ thuật sử dụng pheromone để quản lý sâu hại trên đồng ruộng
Kết quả nghiên cứu đã xác định kiểu bẫy bát đựng nớc xà phòng là thích hợp nhất đối
với sâu tơ và sâu đục cuống quả vải, còn kiểu bẫy lọ nhựa dung tích 2 lít cho hiệu quả

cao đối với sâu khoang, sâu xanh và sâu xanh da láng (Trịnh L.V. và CS, 2003). Các tác
giả chỉ rõ nếu dùng bẫy pheromone sâu tơ với mật độ 100 bẫy/ha liên tục suốt vụ thì có
thể hạn chế đáng kể mật độ sâu tơ, giảm đợc 2- 4 lần phun thuốc so với ruộng nông
dân. Vị trí đặt bẫy pheromone cao hơn mặt ruộng rau từ 5- 10 cm với mật độ 100 bẫy/ha
bẫy là thích hợp. Đồng thời, cũng chỉ rõ sử dụng pheromone theo phơng pháp bẫy để
trừ sâu khoang cho hiệu quả cao mà không cần sử dụng thuốc trừ sâu và giảm đợc 4 lần
sử dụng thuốc hoá học so với phơng pháp cũ vẫn thờng áp dụng của nông dân.
Kết quả cũng chỉ rõ đối với sâu tơ, sâu xanh và sâu xanh da láng, việc ứng dụng
pheromone ngay từ đầu vụ thể hạn chế đợc 50- 80% số lợng quần thể sâu hại trên
đồng ruộng, kết hợp dùng 2- 3 lần thuốc sinh học là hoàn toàn khống chế tác hại của
sâu, giúp giảm đợc 3- 4 lần dùng thuốc hoá học trong một vụ rau. Góp phần đáng kể
vào sản xuất sản phẩm an toàn, bảo vệ sức khoẻ ngời lao động và môi trờng.
Nh vậy, việc nghiên cứu sử dụng pheromone để phòng trừ một số sâu hại rau ở nớc ta
đã đạt đợc một số kết quả bớc đầu. Diện tích ứng dụng pheromone trong sản xuất đã
tăng lên rất nhanh chóng. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả ứng dụng pheromone để phòng
trừ sâu hại cần phải tiếp tục hoàn thiện một số khâu kỹ thuật, nh: Kiểu bẫy sử dụng
pheromone, mật độ bẫy, độ cao đặt bẫy và thời điểm đặt bẫy và thời gian sử dụng, v.v
Qua các tài liệu có đợc và t vấn, giúp đỡ của các chuyên gia nớc ngoài, trên cơ sở kết
quả nghiên cứu thử nghiệm đã tiến hành trong hơn 3 năm qua đã cho thấy để sản xuất
pheromone có chất lợng cao, ổn định để sử dụng có hiệu quả trong phòng trừ sâu hại
ngoài thực tiễn sản xuất, không chỉ du nhập hay áp dụng kết quả của nớc ngoài một
cách máy móc, mà đòi hỏi phải có những bớc nghiên cứu hoàn thiện cho phù hợp với
điều kiện sản xuất của Việt Nam.

12
Chơng 2
Mục tiêu, nội dung và phơng pháp

2.1. Mục tiêu
Hoàn thiện qui trình công nghệ sản xuất và sử dụng pheromone để phòng trừ 4 loại sâu

hại quan trọng gồm sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh và sâu keo da láng phục vụ sản xuất
rau an toàn
Sản xuất 1.000.000 mồi pheromone của 4 loại sâu có chất lợng ổn định, để sử dụng trên
rau với khả năng diệt sâu tơ đạt 60- 70%, sâu khoang: 80- 90%, sâu xanh từ 70 90% và
sâu xanh da láng từ 70 90%. Khuyến cáo sử dụng mồi pheromone diệt 4 loại sâu hại
quan trọng trên rau thập tự, cà chua, hành tây, hành lá, v.v với diện tích 5.000 ha rau tại
các vùng trồng rau trong cả nớc.
2.2. Nội dung
2.2.1. Hoàn thiện công nghệ tạo phản ứng phối chế sản xuất mồi pheromone của 4
loài sâu hại, đảm bảo chất lợng ổn định.
(1) Hoàn thiện xác định tỷ lệ các chất hoá học tham gia phản ứng tổng hợp pheromone.
(2) Xác định liều lợng các thành phần hoá chất tham gia phản ứng.
(3) Hoàn thiện xác định liều lợng chất phù trợ phản ứng hình thành pheromone.
(4) Hoàn thiện kỹ thuật gây phản ứng điều chế pheromone.
(5) Hoàn thiện xác định chất liệu giá thể cao su tạo dạng sử dụng pheromone tối u.
(6) Hoàn thiện kỹ thuật loại bỏ tạp chất trong chất liệu giá thể.
(7) Xác định liều lợng chất dung môi phản ứng để sản xuất pheromone
2.2.2. Hoàn thiện công nghệ sử dụng bẫy pheromone để phòng trừ sâu hại
(1) Hoàn thiện xác định kiểu bẫy tối u và dễ sử dụng.
(2) Xác định màu bẫy sử dụng pheromone tối u.
(3) Hoàn thiện kỹ thuật sử dụng bẫy pheromone phòng trừ sâu hại: mật độ bẫy, độ cao
đặt bẫy và kiểu bẫy thích hợp .
(4) Hoàn thiện qui trình hớng dẫn kỹ thuật sử dụng bẫy pheromone phòng trừ 4 loài
sâu, gồm: sâu tơ; sâu khoang; sâu xanh và sâu xanh da láng

13
2.2.3. Tổ chức sản xuất 1.000.000 mồi pheromone của 4 loại sâu hại
2.2.4. Xây dựng mô hình và khuyến cáo ứng dụng pheromone để phòng trừ các sâu
hại trên diện tích 5.000 ha.
+ Xây dựng 4 mô hình trình diễn kỹ thuật làm cơ sở chỉ đạo diện rộng sử dụng bẫy

pheromone phòng trừ 4 loại sâu hại rau tại: Hải Dơng, Hà Nam, Nghệ An và Tiền
Giang. Tổng diện tích mô hình: 40 ha/vụ x 3 vụ = 120 ha
+ Khuyến cáo áp dụng sản phẩm pheromone phòng trừ 4 loại sâu tại 13 tỉnh, thành phố
có diện tích trồng rau lớn là: Hà Nội, Hà Tây, Hải Dơng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải
Phòng, Hà Nam, Nam Định, Nghệ An, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Tiền Giang và Lâm
Đồng. Qui mô diện tích áp dụng mỗi năm là 2.500 ha.
2.3. Phơng pháp
2.3.1. Đối tợng nghiên cứu và phơng pháp tiếp cận
Sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh và sâu keo da láng đợc chọn là những đối tợng sâu hại
quan trọng trên rau, màu ở Việt Nam và có khả năng phát triển tính kháng thuốc rất
nhanh. Ngời nông dân thờng sử dụng rất nhiều loại thuốc hoá học khác nhau với số
lần phun cho mỗi vụ gieo trồng ngày càng nhiều. Pheromone đợc coi là công cụ có
hiệu quả cao trong quản lý dịch hại và không làm sâu hại phát triển tính kháng. Triển
khai sử dụng pheromone để quản lý 4 loài sâu hại quan trọng nêu trên sẽ góp phần đáng
kể trong hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu hoá học, giảm d lợng thuốc hoá học độc hại
trong sản phẩm, sức khoẻ ngời lao động và môi trờng.
Trong giai đoạn 2002- 2004, thông qua chơng trình hợp tác KHCN với Viện Nghiên
cứu động vật hại (thuộc Viện Hàn lâm KHCN Trung Quốc) và Trờng đại học Cornell
(Mỹ) đã giúp nắm vững đợc kỹ thuật sử dụng pheromone sâu tơ dựa trên sản phẩm
pheromone do phía bạn cung cấp. Kết quả hợp tác đã bớc đầu giúp các cán bộ khoa học
Việt Nam tiếp cận với phơng pháp nghiên cứu và ứng dụng pheromone côn trùng, mở
ra triển vọng to lớn của việc sử dụng chúng trong quản lý dịch hại.
Tuy nhiên, cần phải phát triển tạo khả năng sử dụng pheromone một cách chủ động, đa
KTCN pheromone côn trùng thật sự trở thành một giải pháp hữu hiệu trong theo dõi và
phòng trừ sâu hại ở Việt Nam. Để đạt đợc yêu cầu đó, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu

14
về KTCN phối chế sản xuất pheromone và kỹ thuật tạo dạng sử dụng cũng nh kỹ thuật
sử dụng pheromone phòng trừ sâu hại trên cây trồng ngoài đồng ruộng.
Thực hiện dự án SXTN này nhằm cố gắng hoàn thiện các khâu kỹ thuật công nghệ cơ

bản trong sản xuất mồi pheromone, kỹ thuật tạo dạng và kỹ thuật sử dụng pheromone.
Trớc hết, để phục vụ theo dõi và phòng trừ sâu tơ, sâu khoang, sâu xanh và sâu keo da
láng là những đối tợng sâu hại quan trọng trên rau, nhng việc phòng trừ chúng đang
gặp nhiều khó khăn và dễ gây ảnh hởng đến chất lợng sản phẩm khi thu hoạch .
2.3.2. Phơng pháp nghiên cứu và triển khai
1. Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật tạo phản ứng phối chế pheromone, nh: tỷ lệ thành
phần và độ tinh khiết của các chất hoá học thành phần để tạo pheromone, liều lợng chất
xúc tác và chất đệm phản ứng, chất liệu sản xuất giá thể và kỹ thuật sử lý để loại bỏ tạp
chất trong giá thể, v.v Các thí nghiệm đợc tiến hành theo nguyên tắc: Kiểm chứng lại
kết quả của các thí nghiệm cơ bản đã đạt đợc của 2 đề tài Nghị định th Việt Nam -
Trung Quốc và Việt Nam - Hoa kỳ, sau đó thí nghiệm mở rộng theo hớng hoàn thiện
kỹ thuật công nghệ để phục vụ cho mục tiêu của dự án sản xuất thử nghiệm. Việc đánh
giá hiệu lực hấp dẫn sâu hại của các công thức thí nghiệm của dự án sản xuất thử
nghiệm đợc tiến hành qua 2 bớc: trong phòng và ngoài đồng ruộng
Ban đầu, các thử nghiệm đợc tiến hành với số lợng 100 mồi pheromone tại phòng thí
nghiệm pheromone của Viện Bảo vệ thực vật, theo phơng pháp dòng khí (Air Flow) với
áp lực dòng khí lu chuyển theo thời gian khác nhau: 5; 10; 15; và tới 180 phút. Mỗi
đợt thí nghiệm tiến hành với số lợng từ 50 - 100 trởng thành đực của loài sâu hại cần
nghiên cứu. Sau mỗi khoảng thời gian nhất định thì tiến hành đếm và ghi chép lại số
trởng thành di chuyển về phía vị trí có đặt mồi pheromone.
Sau khi xác định các công thức là có hiệu lực rõ rệt thì tiến hành sản xuất với số lợng
500 mồi pheromone và đợc đa vào thí nghiệm đánh giá ngoài đồng ruộng. Các công
thức thí nghiệm tiến hành đồng thời trên một khu ruộng rau có cùng thời vụ gieo trồng.
Bố trí thí nghiệm theo phơng pháp tuần tự, mỗi công thức bố trí nhắc lại 10 lần. Hàng
ngày theo dõi số lợng tr
ởng thành sâu hại từng loại, bao gồm trởng thành của đối
tợng sâu hại cần nghiên cứu và trởng thành sâu khác vào bẫy. Các sản phẩm của công
thức tốt nhất sẽ đợc đa vào sản xuất số lợng lớn để cung ứng trên thị trờng.

15

2. Phát triển dạng sử dụng pheromone theo phơng pháp tạo dạng mồi bẫy trên chất liệu
cao su (rubber septum) dạng quả chuông. Mỗi mồi đợc cố định với liều lợng
pheromone khác nhau từ 1,0 và 2,0 microlit/giá thể tuỳ theo loài sâu hại. Mỗi đợt thí
nghiệm đợc tiến hành với số lợng từ 500 - 1000 đơn vị mồi pheromone cho mỗi loại
giá thể. Thí nghiệm đợc tiến hành tại phòng thí nghiệm pheromone của Viện BVTV.
Sau đó, đánh giá khả năng hấp dẫn của sâu hại đối với mỗi loại giá thể tạo dạng đợc
tiến hành trực tiếp trên đồng ruộng theo phơng pháp thí nghiệm của Hummell H. E. và
Muitler T.A. (1984). Mỗi loại mồi pheromone của giá thể đợc tiến hành theo phơng
pháp 50 bẫy, không nhắc lại, trên loại cây trồng mà loài sâu hại đó thờng phá hại. Hàng
ngày đếm và ghi chép số lợng trởng thành sâu hại vào từng bẫy vào buổi sáng kết hợp
vớt bỏ chúng khỏi bẫy. Thí nghiệm tiến hành liên tục từ khi đặt mồi bẫy pheromone cho
tới khi mồi pheromone không còn hiệu lực hấp dẫn trởng thành sâu hại. Hàng ngày
theo dõi và ghi chép lại số lợng trởng thành của sâu hại cần nghiên cứu và số lợng
các sâu khác vào bẫy, sau đó vớt bỏ. Số liệu thu đợc sử lý so sánh theo chơng trình
CSTATE theo phơng thức so sánh cặp giá trị trung bình số lợng trởng thành vào bẫy
hàng ngày của mỗi loại giá thể pheromone.
3. Nghiên cứu kiểu bẫy sử dụng pheromone thích hợp đợc tiến hành với đối tợng sâu
hại cần nghiên cứu thực hiện trên đồng ruộng. Lựa chọn địa điểm thí nghiệm với cây
trồng đợc gieo trồng cùng thời vụ trên diện tích tối thiểu từ 3 -5 ha. Các công thức thí
nghiệm là các kiểu bẫy, mỗi công thức tiến hành với số lợng 25 - 30 bẫy pheromone,
nhắc lại 3 lần. Các bẫy sử dụng mồi pheromone dạng quả chuông tơng ứng với đối
tợng sâu hại cần nghiên cứu. Hàng ngày theo dõi, ghi chép số lợng trởng thành vào
từng bẫy kết hợp vớt bỏ trởng thành sâu hại vào bẫy chết.
4. Xây dựng mô hình trình diễn và huấn luyện nông dân vẫn áp dụng theo ph
ơng pháp
nghiên cứu triển khai vẫn thờng áp dụng của Viện BVTV. Mô hình thực hiện với qui
mô từ 5 - 10 ha/vụ. Các bẫy pheromone đợc đặt ngay từ khi trồng rau với mật độ 100
bẫy/ha ở độ cao 30 cm so với mặt ruộng rau. Bẫy pheromone phải đặt liên tục từ đầu vụ
đến cuối vụ rau. Chỉ phun thuốc khi cần thiết bằng các loại thuốc sinh học hoặc thuốc
hoá học có tính chọn lọc cao với đối tợng cần phòng trừ.


16
Theo dõi mỗi loại sâu phát sinh trên ruộng, trong ruộng khu mô hình theo dõi 10 bẫy cố
định phân bố rải rác trong mô hình, còn trong khu ruộng nông dân thì đặt 10 bẫy rải rác
để theo dõi. Hàng ngày vào các buổi sáng, đếm số lợng trởng thành sâu hại vào bẫy
rồi vớt bỏ. Đánh số thứ tự 10 bẫy theo dõi và số liệu của bẫy nào ghi riêng cho bẫy đó.
Đồng thời theo dõi định kỳ 5 ngày/lần mật độ sâu non sâu hại trên 30 cây trên ruộng
theo phơng pháp 5 điểm chéo góc cuốn chiếu không lặp lại.
Ghi chép tỷ mỉ ngày phun thuốc, loại thuốc, chi phí BVTV và diễn biến thời tiết trong
suốt thời gian từ đầu vụ đến cuối vụ rau để đánh giá hiệu quả kinh tế của việc ứng dụng
pheromone trong phòng trừ tổng hợp sâu hại rau thập tự
5. Tổng hợp và sử lý số liệu: Tất cả số liệu thí nghiệm thu thập đều đợc xử lý theo
chơng trình thống kê IRRISTAT hoặc MSTAT tơng ứng. Kết quả đánh giá hiệu quả
hạn chế số lợng quần thể sâu hại của pheromone qua các thí nghiệm ngoài đồng rộng
đợc sử lý dựa theo công thức Henderson- Tillton.
2.3.3. Tính mới, tính sáng tạo và những nét độc đáo của đề tài nghiên cứu
Sử dụng pheromone trong quản lý sâu hại đợc dựa trên nguyên lý tác động vào hoạt
động giao tiếp sinh sản giữa con đực và con cái trong cùng một loài. Để từ đó làm giảm
khả năng sinh sản và phát triển số lợng quần thể của loài gây hại cây trồng. Tuy nhiên,
ở Việt Nam, việc nghiên cứu và sử dụng pheromone côn trùng là vấn đề khá mới mẻ.
Hầu nh, các nội dung nghiên cứu ứng dụng trong sản xuất mới chỉ thật sự bắt đầu từ
năm 2002 chủ yếu về kỹ thuật sử dụng pheromone để trừ sâu tơ. Trên cơ sở kết quả thu
đợc của đề tài hợp tác KHCN theo nghị định th giữa Việt Nam và Trung Quốc (2002-
2004) và đề tài hợp tác giữa Việt Nam và Hoa kỳ (2005- 2006), đã tạo ra tiền đề khoa
học công nghệ hết sức quan trọng, mở ra hớng sản xuất và sử dụng pheromone côn
trùng để quản lý dịch hại cây trồng nông nghiệp ở nớc ta.
Việc thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm (SXTN) này nhằm góp phần hoàn thiện kỹ
thuật công nghệ phối chế sản xuất pheromone sâu tơ, khoang, sâu xanh và sâu keo da
láng; tạo dạng sử dụng pheromone côn trùng trên cơ sở giá thể cao su tự sản xuất đợc
tại Việt Nam và xác định kiểu bẫy phù hợp với điều kiện của nông dân và các khía cạnh

kỹ thuật sử dụng bẫy pheromone côn trùng trong công tác bảo vệ cây trồng trên diện
rộng, phù hợp với điều kiện sinh thái và điều kiện sản xuất nông nghiệp của nớc ta.

17
Chơng 3
Kết quả nghiên cứu và triển khai


3.1. Hoàn thiện một số khâu kỹ thuật công nghệ sản xuất mồi pheromone
3.1.1. Xác định tỷ lệ thành phần, liều lợng chất hoá học của pheromone sâu hại
3.1.1.1. Đối với pheromone sâu khoang
Nhằm hoàn thiện việc xác định tỷ lệ thành phần và liều lợng chất hoá học tạo phản ứng
phối chế pheromone sâu khoang. Các thí nghiệm đợc tiến hành với quần thể sâu
khoang tại các vùng rau đồng bằng sông Hồng với các tổ hợp tỷ lệ các thành phần hoá
học với liều lợng khác nhau trên cơ sở kết quả nghiên cứu đã đạt đợc của đề tài hợp
tác Việt - Mỹ và từ các thông tin của các tài liệu khoa học đã công bố.
Tiến hành lại thí nghiệm Việt - Mỹ đã thực hiện đầu tháng 1/2005, kết quả nêu ở hình 1
vẫn cho thấy công thức thí nghiệm 3 thành phần Hexal 1, Hexal 2 và Hexal 3 là 90/9/1
microlit cho hiệu quả hấp dẫn trởng thành sâu khoang cao hơn chút ít so với so với
công thức 2 thành phần Hexal 4 và Hexal 3 với liều lợng là 97/3 microlit. Tuy nhiên,
qua sử lý thống kê thì hầu nh không có sự sai khác ở mức > 99%. Điều này một lần nữa
khẳng định khả năng có thể giảm đợc thành phần chất hoá học Hexal 2.
Hình 1. Số lợng trởng thành sâu khoang vào bẫy dùng pheromone
với thành phần và liều lợng chất hoá học khác nhau (Văn Đức, Hà Nội, 15/1/2005)
Qua theo dõi đối với số lợng trởng thành các sâu khác vào bẫy, cho thấy (Hình 2) giữa
các công thức liều lợng khác nhau không thể hiện tính hấp dẫn trội hẳn và qua sử lý
0
50
100
150

200
250
135791113151719212325
Ngày sau đặt bẫy
con/10bẫy/ngày
Hexal 1/Hexal 2/Hexal 3=90/9/1
Hexal 4/Hexal 3=97/3
Hexal 4/Hexal 3=98/2
Hexal 4/Hexal 3=99/1

18
thống kế cũng thấy không có sự sai khác có ý nghĩa. Tuy nhiên, ở công thức Hexal 4 và
Hexal 3 là 98/2 có xu hớng hấp dẫn sâu hại cao hơn chút ít so với các công thức khác
và trong số trởng thành các sâu khác vào bẫy lại chiếm tới 84,5% là trởng thành sâu
đo xanh (Plusia eriosoma) thờng phát sinh gây hại trên rau thập tự.
Hình 2. Số lợng trởng thành sâu khác vào bẫy pheromone sâu khoang trên cải bắp
với thành phần và liều lợng chất hoá học khác nhau (Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội, 2005)
Từ kết quả thí nghiệm lại nêu trên, dự án tập trung phát triển pheromone trên cơ sở chỉ
sử dụng 2 loại hoá chất thay cho tổ hợp 3 loại hoá chất nh đã nêu trên, năm 2006 chúng
tôi tiếp tục đi sâu tìm hiểu mức độ hấp dẫn đối với sâu khoang của 4 tổ hợp thành phần
với tỷ lệ giữa Hexal 1 và Hexal 2 khác nhau theo khuyến cáo của các chuyên gia Mỹ.
0
3
6
9
12
15
18
21
1357911131517

Ngày sau đặt bẫy
con/ 10 bẫy/ ngày
Hexal1/Hexal2= 95/5
Hexal1/Hexal2= 90/10
Hexal1/Hexal2= 85/15
Hexal1/Hexal2 = 97/3

Hình 3: Số lợng trởng thành sâu khoang trên bắp cải vào bẫy dùng pheromone
với tỷ lệ các thành phần và liều lợng khác nhau (Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội, 2/2006)
0
5
10
15
20
25
135791113151719212325
Ngày sau đặt bẫy
con/10 bẫy/ ngày
Hexal 4/Hexal 3=99/1
Hexal 4/Hexal 3=98/2
Hexal 4/Hexal 3=97/3
Hexal 1/Hexal 2/Hexal 3=90/9/1

19
Qua thử nghiệm 4 tổ hợp tỷ lệ giữa 2 thành phần hoá chất cho thấy với tỷ lệ liều lợng
Hexal 1và Hexal 2 là 97/3 microlit vẫn cho hiệu quả hấp dẫn sâu khoang trên đồng
ruộng cao nhất, Ngày đỉnh cao (ngày thứ 8 sau đặt bẫy) có thể đạt tới 18 con/bẫy và hiệu
lực tới 20 ngày, dài nhất trong số 3 tổ hợp 2 thành phần hoá học đã thử nghiệm. Trong
đó, tổ hợp Hexal1/ Hexal2 là 99/1 microlit có mức độ hấp dẫn thấp nhất (hình 3).
Theo dõi số lợng trởng thành các sâu khác vào bẫy pheromone cũng cho kết quả

tơng tự với kết quả thí nghiệm năm 2005. Tính tổng số trởng thành các sâu khác vào
bẫy đạt cao nhất ở mồi pheromone có tỷ lệ các thành phần là 99/1, sau đó là tỷ lệ 98/2.
Thấp nhất là công thức có tỷ lệ liều lợng thành phần là 97/3 microlit (Hình 4).
0
3
6
9
12
15
18
21
13579111315
Ngày sau đặt bẫy
Số lợng (con/bẫy)
Hexal1/Hexal 2= 95/5
Hexal 1/Hexal 2= 90/10
Hexal1/Hexal 2= 85/15
Hexal1/Hexal 2= 97/3

Hình 4. Số lợng bớm sâu khác vào bẫy pheromone sâu khoang
(Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội, 2/2006)
Nh vậy, tổ hợp liều lợng thành phần hoá học giữa Hexal 1 và Hexal 2 là 97/3 microlit
thể hiện mức độ chuyên tính khá cao đối với sâu khoang. Còn tỷ lệ là 99/1 có mức độ
chuyên tính với sâu khoang thấp nhất, nhng lại có tiềm năng hấp dẫn trởng thành sâu
khác cao nhất. Điều này mở ra khả năng phát triển loại pheromone cho sâu hại khác.
3.1.1.2. Đối với pheromone sâu tơ
Cũng qua các bớc tiến hành nh đã thực hiện đối với pheromone sâu khoang. Đánh giá
lại kết quả của đề tài Việt Mỹ, tháng 1/2005 dự án SXTN đã tiến hành thí nghiệm lại với
3 công thức phối chế giữa 3 thành phần hoá học theo các tỷ lệ và liều lợng khác nhau
của pheromone sâu tơ. Kết quả đánh giá đồng ruộng (Hình 5) vẫn khẳng định tỷ lệ các

chất tham gia phản ứng Hexa 1, Hexa 2 và Hexa 3 là 80/19/1 microlit cho hiệu quả hấp

20
dẫn sâu tơ luôn cao nhất so với 2 tổ hợp tỷ lệ thành phần và liều lợng chất hoá học tạo
phản ứng phối chế còn lại, với số lợng trởng thành sâu tơ vào bẫy cao nhất đạt tới 44,7
con/10 bẫy, thấp nhất là 1,82 con/10 bẫy. Nh vậy, tỷ lệ và liều lợng giữa các chất
tham gia phản ứng phối chế là 80/19/1 (microlit) vẫn đợc đánh giá là có hiệu quả hấp
dẫn tốt hơn trong số 3 công thức thí nghiệm.
0
8
16
24
32
40
48
1 3 5 7 91113151719212325
Ngày sau đặt bẫy
con/10 bẫy/ ngày
Hexa1/Hexa2/Hexa3=80/19/1
Hexa1/Hexa2/Hexa3=90/9/1
Hexa1/Hexa3=99/1

Hình 5: Số lợng bớm sâu tơ vào bẫy pheromone với thành phần và liều lợng
chất hoá học khác nhau (Gia Lâm, Hà Nội, 1/2005)
Kết quả theo dõi khả năng hấp dẫn trởng thành các sâu hại khác (Hình 6) cho thấy với
tỷ lệ phối chế nêu trên (90/19/1) cũng cho khả năng hấp dẫn trởng thành sâu hại khác
khá cao, trong số đó chủ yếu là sâu xanh bớm trắng (P. rapae). Trong ngày đầu tiên
sau khi đặt bẫy thì số lợng trởng thành sâu khác vào bẫy đạt tới 35 con/10 bẫy và
trong đó có tới 31 con trởng thành sâu xanh bớm trắng.
0

8
16
24
32
40
1 4 7 10 13 16 19 22 25
Ngày sau đặt bẫy
con/10bãy/ngày
Hexa1/Hexa2/Hexa3=80/19/1
Hexa1/Hexa2/Hexa3=90/9/1
Hexa1/Hexa3=99/1

Hình 6. Số lợng trởng thành các sâu hại khác vào bẫy pheromone sâu tơ
(Gia Lâm, Hà Nội, 1/2005)

21
Điều này cho phép mở ra một triển vọng mới trong việc nghiên cứu phát triển chế phẩm
pheromone đối với sâu xanh bớm trắng trong thời gian tới.
Tìm hiểu khả năng thay thế thành phần Hexa 1 và Hexa 2 bằng thành phần hoá học khác
là Hexa 4 kết hợp với thành phần Hexa 3. Một thí nghiệm khác đã đợc tiến hành với 3
tỷ lệ liều lợng khác nhau, gồm: 99/1; 98/2 và 97/3 microlit. Kết quả (Hình 7) cho thấy
với tổ hợp Hexa 4/ Hexa 3 là 97/3 có biểu hiện hấp dẫn trởng thành sâu tơ cao hơn cả,
những ngày có số lợng bớm sâu tơ vào bẫy cao lên tới 47,5 con/10 bẫy vào ngày thứ 5
sau đặt bẫy; 59,2 con/10 bẫy vào ngày thứ 11 và tới 75,7 con/10 bẫy vào ngày thứ 21 sau
đạt bẫy. Còn số lợng bớm vào bẫy dùng mồi pheromone với các tổ hợp liều lợng
khác đều thấp hơn. Hiệu quả hấp dẫn sâu hại của tổ hợp Hexa 4/Hexa 3 là 97/3 cũng
không thua kém so với tổ hợp Hexa1/Hexa2/Hexa3 phối chế theo tỷ lệ 80/19/1.
0
15
30

45
60
75
90
1 3 5 7 9 1113151719212325
Ngày sau đặt bẫy
con/10bẫy/ngày
Hexa4/Hexa3=99/1
Hexa4/Hexa3=98/2
Hexa4/Hexa3=97/3

Hình 7: Số lợng bớm sâu tơ vào bẫy dùng mồi pheromone phối chế
ở các tỷ lệ thành phần và liều lợng chất hoá học khác nhau
(Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội, 2005)
Theo dõi số lợng trởng thành sâu khác vào bẫy sử dụng mồi pheromone đợc cố định
theo các tỷ lệ liều lợng các chất hoá khác nhau. Kết quả nêu trong hình 8 cho thấy tổ
hợp liều lợng Hexa 4/ Hexa 3 là 98/2 (microlit) thể hiện mức độ hấp dẫn sâu khác cao
hơn so với cá tổ hợp liều lợng khác. Ngày có số lợng trởng thành sâu khác vào bẫy
lên tới 16,0 con/10 bẫy ngay sau ngày đặt bẫy đầu tiên. Trong số đó, đối tợng trởng
thành sâu khác vào bẫy chủ yếu vẫn là sâu xanh bớm trắng (P. rapae), chiếm tới
72.4%. Điều này mở ra khả năng tiếp tục tìm hiểu để xác định thành phần hoá học để
phát triển một loại pheromone mới phục vụ việc quản lý sâu hại này ở Việt Nam.

22

0
2
4
6
8

10
12
14
16
18
1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25
Ngày sau đặt bẫy
con/10 bẫy/ ngày
Hexa4/Hexa3=99/1
Hexa4/Hexa3=98/2
Hexa4/Hexa3=97/3


Hình 8: Số lợng trởng thành sâu hại khác vào bẫy pheromone sâu tơ
(Văn Đức, Gia Lâm, Hà Nội, 2005)

3.1.1.3. Đối với sâu xanh và sâu keo da láng
Cũng tiến hành với phơng pháp nghiên cứu tơng tự nh đối với sâu khoang và sâu tơ,
dự án đã tập trung xác định tỷ lệ thành phần pheromon sâu xanh và sâu keo da láng. Kết
quả qua các thí nghiệm tiến hành tại vùng trồng hành của Kinh Môn (Hải Dơng) đã xác
định tỷ lệ các thành phần, liều lợng chất hoá học thích hợp và cho hiệu lực hấp dẫn cao
nhất đối với sâu xanh là tỷ lệ thành phần và liều lợng giữa Hexal 1 và Tetra-hexal là
97/3 microlit. Đối với sâu keo da láng thì tỷ lệ và liều lợng giữa Tetra-deca và Tetra-
dece là 70/30 microlit. Qua thí nghiệm đồng ruộng thì các pheromon này chuyên tính
cao với đối tợng sâu hại nghiên cứu và tỷ lệ đó cũng tơng tự nh kết quả xác định ở
Mỹ và Nhật Bản (Ogawa K., Kobayashi T. and Fukumoto T., 1999).
3.1.2. Độ tinh khiết hoá chất của pheromone đối với hiệu lực hấp dẫn sâu hại
+ Đối với pheromone sâu tơ
Thử nghiệm sản xuất mồi pheromone sâu tơ theo tỷ lệ Hexa 1/Hexa 2/Hexa 3 là 90/9/1
microlit với độ tinh khiết của hoá chất khác nhau. Kết quả đánh giá trực tiếp ngoài đồng

ruộng về khả năng hấp dẫn sâu tơ của mồi pheromone cho thấy pheromone đợc phối
chế bằng các hóa chất có độ tinh khiết từ 95%- 99,5% thì hiệu lực hấp dẫn sâu tơ thấp,
trung bình đạt từ 0,3-3,38 con/ 5 bẫy/ ngày. Nếu sử dụng hóa chất có độ tinh khiết là
99,99% thì hiệu quả hấp dẫn bớm sâu tơ cao nhất, trung bình cả đợt theo dõi là 23 con/

23
5 bẫy/ ngày (Hình 9). Kết quả cũng cho thấy rõ ràng trong tất cả các ngày theo dõi thì
mật độ trởng thành sâu tơ vào công thức 5 (CT 5) cao hơn hẳn so với các công thức
khác. Ngày đỉnh cao nhất trởng thành sâu tơ vào bẫy ở công thức 5 (CT 5) đạt tới 60
con/ 5 bẫy. Trong khi các công thức 4 thì số liệu tơng ứng là 10 con/ 5 bẫy. Nh vậy,
độ tinh khiết của hóa chất càng cao thì chất lợng của pheromone càng tốt và đối với
pheromone sâu tơ thì hóa chất có độ tinh khiết 99,99% là tốt nhất và ổn định nhất.
0
15
30
45
60
75
1 4 7 10 13 16 19
Ngày sau đặt bẫy
Số lợng (con/ 5 bẫy/ ngày)
CT1: 95%
CT2: 98%
CT3: 99%
CT4: 99,5%
CT5: 99,99%

Hình 9. Số lợng trởng thành sâu tơ vào bẫy dùng mồi pheromone
với thành phần hóa chất có độ tinh khiết khác nhau
(Tiên Dơng, Đông Anh, Hà Nội, 2005)

+ Đối với pheromone sâu khoang
Qua đánh giá đồng ruộng (Hình 10) nhận thấy khả năng hấp dẫn trởng thành sâu
khoang rất cao khi mồi pheromone đợc cố định với tỷ lệ liều lợng thành phần Hexal 1
và Hexal 2 là 97/3 microlit với độ tinh khiết của hoá chất là 99,9%, hơn hẳn so với các
công thức còn lại từ khi đặt bẫy đến 10 ngày sau đặt bẫy. Còn sau 10 ngày đặt bẫy đến
hết thời gian theo dõi thì số lợng trởng thành vào bẫy không có sự khác biệt một cách
có ý nghĩa giữa các công thức. Có thể trong thời gian này, mật độ sâu khoang trên đồng
thấp nên số lợng trởng thành vào bẫy ở các công thức không thực sự khác biệt.
Nhng tính trung bình cả đợt theo dõi thì công thức 5 đạt số lợng trởng thành sâu
khoang vào bẫy cao nhất 4,85 con/ 5 bẫy/ ngày, còn từ công thức 1 đến công thức 4 thì
số liệu tơng ứng là 0,4; 0,3; 0,65; 1,8 con/ 5 bẫy/ ngày. Điều này chứng tỏ để sản xuất
pheromone sâu khoang đòi hỏi hóa chất có độ tinh khiết tới 99,99%.

24
0
5
10
15
20
25
1 4 7 10131619
Ngày sau đặt bẫy
Số lợng vào bẫy (con/ 5
bẫy/ ngày)
CT1: 95%
CT2: 98%
CT3: 99%
CT4: 99,5%
CT5: 99,99%


Hình 10. Số lợng trởng thành sâu khoang vào bẫy dùng mồi pheromone
với thành phần hóa chất có độ tinh khiết khác nhau
(Tiên Dơng, Đông Anh, Hà Nội, 2005)
3.1.3. Liều lợng chất phụ trợ, dung môi và tiến trình kỹ thuật tạo phản ứng
Chất phụ trợ và dung môi là 2 nhóm chất hoá học có ý nghĩa quan trọng liên quan đến
chất lợng sản phẩm diễn ra trong quá trình tạo phản ứng phối chế và cố định
pheromone vào giá thể cao su, tạo khả năng phát tán dần dần pheromone ra khỏi giá thể
khi sử dụng. Kết quả tổng hợp của các tác động đó nhằm góp phần duy trì thời gian tồn
tại hiệu lực hấp dẫn sâu hại của mồi pheromone trong thời gian dài nhất có thể đợc.
Cũng nh kỹ thuật làm sạch giá thể, việc xác định thành phần, liều lợng nhóm chất phụ
trợ và dung môi cho quá trình tạo phản ứng phối chế pheromone là khâu kỹ thuật mà các
nhà sản xuất không bao giờ công khai hoá trong quá trình sản xuất của mình.
Vì vậy, thời gian tồn tại hiệu lực hấp dẫn sâu hại của sản phẩm pheromone của mỗi nhà
sản xuất công bố khi chào hàng trên thị trờng đều rất khác nhau. Ngay trong quá trình
thực hiện đề tài nghiên cứu của chúng tôi trong những năm 2001- 2002, thì các sản
phẩm mồi pheromone tự phối chế sản xuất đều có thời gian hiệu lực hấp dẫn không vợt
quá 3 ngày, trong khi dạng bán thành phẩm do phía Trung Quốc cung cấp đem về sản
xuất mồi pheromone hoàn chỉnh thì có thời gian hiệu lực hấp dẫn sâu tơ từ 18- 21 ngày.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề, qua quá trình tìm hiểu tài liệu và đặc biệt
đợc sự giúp đỡ kỹ thuật của các nhà khoa học Mỹ, năm 2003 đã nghiên cứu và đã thành
công về vấn đề này. Trong 2 năm (2004 và 2005), tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật tạo phản

×