Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đói nghèo tại huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang: Nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.35 KB, 29 trang )

Nguyễn Thị Hải Yến - 1 - Lớp Đ5- QL5
MỞ ĐẨU
 Lý do chọn đề tài:
Đói nghèo là một trong những vấn đề cần được quan tâm giải quyết
mang tính cấp thiết trên thế giới hiện nay. Một trong những chính hàng đầu
của liên hiệp quốc là phải cải thiện mức sống cho hơn một tỉ người nghèo trên
thế giới. Tại hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 2000, đã có 189
quốc gia thành viên tham gia đã nhất trí thông qua Mục tiêu Phát triển Thiên
niên kỷ MDG và các chiến lược nhằm giải quyết tình trạng đói nghèo toàn
cầu.
Chưa bao giờ các nhà lãnh đạo cao cấp của các quốc gia lại quan tâm
đến vấn đề đói nghèo như bây giờ. Tuyên bố thiên niên kỷ và các mục tiêu
phát triển tạo ra lộ trình về một thế giới mà ở đó không còn người nghèo đói,
ai cũng được học hành, sức khỏe của người dân được cải thiện, được bảo vệ
một cách bền vững, mọi người đều được hưởng các quyền tự do, bình đẳng và
công bằng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp. Gần 70% dân số ở nông thôn, chủ
yếu sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Trình độ sản xuất chủ yếu còn dựa
trên nền sản xuất nhỏ và lạc hậu. Nước ta lại chịu nhiều sự tác động của thiên
tai, khí hậu khắc nghiệt, hậu quả chiến tranh vẫn còn nặng nề.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước. Cùng với sự chuyển đổi nền
kinh tế từ tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nền
kinh tế của nước ta đang từng bước được cải thiện. Đời sống của người dân
từng bước được nâng lên. Tuy nhiên bên cạnh đó nghèo đói vẫn là một vấn đề
lớn được Đảng và nhà nước quan tâm.
Mục tiêu xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã
hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 2 - Lớp Đ5- QL5
có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát
khỏi đói nghèo.


Tuy nhiên do nền kinh tế nước ta chưa phát triển nên một bộ phận
không nhỏ dân cư gặp không ít khó khăn trong sản xuất và đời sống, đã trở
nên nghèo đói. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường sự phân hóa giàu nghèo
ngày càng tăng lên một cách rõ rệt với quy mô ngày càng lớn. Theo số liệu
của tổng cục thống kê, tỷ lệ nghèo chung của nước ta năm 2008 là 14,5%. Tỷ
lệ hộ nghèo tập trung nhiều ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, trong đó
có Huyện Đồng Văn - Tỉnh Hà Giang.
Nói đến Hà Giang là nói đến một tỉnh nghèo ở địa đầu tổ quốc, nơi đây
với địa hình chia cắt phức tạp, khí hậu khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở còn thấp
kém, kinh tế chậm phát triển, đời sống của nhân dân còn gặp rất nhiều khó
khăn. Tỉnh có 6 huyện vùng cao nằm trong số 61 huyện có tỷ lệ nghèo cao
nhất nước (trên 50%) là: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng
Su Phì và Xín Mần.
Đồng Văn là một huyện vùng cao núi đá nằm trong bốn huyện khó
khăn nhất của tỉnh, nên những khó khăn nêu trên của huyện lại tăng thêm gấp
bội. Chính vì vậy tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện còn khá cao so với mặt bằng
chung của tỉnh. Trong những năm qua huyện Đồng Văn đã có nhiều cơ chế
chính sách hỗ trợ các hộ đói nghèo thoát đói giảm nghèo. Nhằm rút ngăn
khoảng cách giàu nghèo, taọ cơ hội cho mọi người dân đều có quyền bình
đẳng tối thiểu ngang nhau. Các chính sách về xóa đói giảm nghèo được chính
quyền địa phương tổ chức triển khai hết sức chặt chẽ, được đông đảo người
dân hưởng ứng và đồng tình thưc hiện. Như đã nói ở trên Đồng Văn là huyện
vùng cao núi đá của tỉnh, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trình độ
dân trí còn thấp, địa hình phức tạp chia cắt, phong tục tập quán lạc hậu còn
nặng nề. Do vậy, mặc dù các cơ chế chính sách trong công tác xóa đói giảm
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 3 - Lớp Đ5- QL5
nghèo đã được thực thi. Xong trong thực tế các cơ chế chính sách về xóa đói
giảm nghèo không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và
có hiệu quả.

Chính vì những lí do của vấn đề đã nêu trên nên trong chuyên đề của
mình tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Đói nghèo tại huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang: Nguyên nhân và
giải pháp”
Qua đó tìm hiểu thực trạng đói nghèo, nhu cầu xóa đói giảm nghèo của
người dân và hiệu quả của những chính sách xóa đói giảm nghèo trên địa bàn.
 Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu nguyên nhân đói nghèo của huyện
Đồng Văn. Đồng thời nghiên cứu những chính sách về xóa đói giảm nghèo
của nhà nước, cũng như của địa phương. Từ đó đưa ra những khuyến nghị,
những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong quá trình tổ chức thực
hiện chương trình xóa đói giảm nghèo tại địa bàn, giúp người nghèo tự vươn
lên trong cuộc sống.
 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Nguyên nhân đói nghèo và giải pháp xóa đói
giảm nghèo ở huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi địa
bàn huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang.

Phương pháp nghiên cứu:
Thông qua các phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích tổng hợp...để
nghiên cứu đề tài.
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 4 - Lớp Đ5- QL5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHÈO ĐÓI
1.1. Nghèo khổ về thu nhập
1.1.1. Khái niệm:
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập
hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng
những lúc khó khăn và bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia

vào quá trình ra quyết định…
Như vậy nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau, việc đo
lường một cách nhất quán từng khía cạnh của nghèo khổ là điều rất khó thực
hiện,còn gộp tất cả những khía cạnh đó vào một chỉ số nghèo hay thước đo
duy nhất về nghèo khổ là không thể.
Tại hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan (9/1993) đã đưa ra định nghĩa chung
như sau: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo tình trạng phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán
của địa phương. Định nghĩa này hiện nay đang được nhiều quốc gia sử dụng
trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Phương pháp đánh giá nghèo khổ về thu nhập
Theo quan điểm tiếp cận của WB, thì phạm vi của sự nghèo khổ ngày
càng mở rộng. Nghèo khổ thường gắn với sự thiếu thốn trong tiêu dùng.
Nhưng từ giữa năm 1970 và những năm 1980, nghèo khổ được tiếp cận theo
nhu cầu cơ bản gồm: tiêu dùng, dịch vụ xã hội và nguồn lực. Từ giữa năm
1980 đến nay tiếp cận theo năng lực và cơ hội, gồm: tiêu dùng,dịch vụ xã hội,
nguồn lực và tính dễ bị tổn thương. Từ cách tiếp cận trên, khi đánh giá tình
trạng nghèo khổ không chỉ dựa theo tiêu chí không gắn với thu nhập.
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 5 - Lớp Đ5- QL5
Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, việc phân tích và đáng giá
nghèo khổ chủ yếu dựa trên tiêu chí thu nhập (hay chi tiêu). Phương pháp này
cho phép so sánh tình trạng nghèo khổ giữa các nước, các vùng khác nhau
theo thời gian nhằm cung cấp thông tin cho các chính sách công và đánh giá
mức độ thành công của các chính sách đó. Nhưng làm thế nào để biểu thị
“nghèo khổ” bằng một con số có ý nghĩa? Các nhà kinh tế đã được dựa trên
khái niệm “nghèo khổ tuyệt đối”. Khái niệm này nhằm biểu thị một mức thu
nhập (chỉ tiêu) tối thiểu cần thiết để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản”

như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp tục tồn tại” tuy
nhiên nảy sinh một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc xác định mức này là một vấn đề chủ quan gây kho khăn
chho việc so sánh giữa các nước.
Thứ hai, mức thu nhập tối thiểu cần thiết sẽ thay đổi theo tiêu chuẩn
của mức sống xét theo thời gian và theo quốc gia (hay khu vực). Chẳng hạn,
một người dân ở nước phát triển hiện nay được phân loại là nghèo thì thực ra
họ lại còn có mức sống tốt hơn những người dân ở nước họ vào những năm
60 hoặc một số người dân ở các nước kém phát triển ngày nay mà họ không
được coi là nghèo.
Do vậy, một phương pháp đã được các nhà khinh tết sử dụng là xác
định “giới hạn (ranh giới) nghèo khổ” hay còn gọi là “đường nghèo khổ”.
Vậy “giới hạn nghèo khổ” được xác định như thế nào? Về phương pháp
luận tiếp cận,chúng ta có thể lựa chọn xác định giới hạn nghèo khổ theo thu
nhập hay chi tiêu.tuy nhiên,phương pháp được sử dụng nhiều hơn là tiếp cận
theo chi tiêu. Vì chi tiêu của hộ gia đình là chỉ số liên quan chặt chẽ đến phúc
lợi hơn là thu nhập. Và số liệu về thu nhập thường là không chính xác, đặc
biệt ở các nước đang phát triển (có một bộ phận những người lao động là tự
hành nghề).
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 6 - Lớp Đ5- QL5
1.1.2.1. Phương pháp của ngân hàng thế giới
Phương pháp mà WB đẫ sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa
vào ngưỡng chi tiêu tính bằng đô la mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng
hiện nay là 1 đô la và 2 đô la/ngày (theo sức mua tương đương). Đây là mức
tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con
người, mức chuẩn đó là 2100 calo/người/ngày.
Ngưỡng nghèo này gọi là ngương nghèo lương thực, thực phẩm (nghèo đói ở
mức thấp). Vì mức chỉ tiêu này chỉ dảm bảo mức chuẩn về cung cấp năng
lượng mà không đủ chỉ tiêu cho những hàng hóa phi lương thực. Những

người có mức chỉ tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được 2100/calo/ngày gọi
là “nghèo về lương thực, thực phẩm”.
1.1.2.2. Phương pháp của Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, có phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói
như sau:
+ Phương pháp dựa vào cả thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương
pháp của tổng cục thống kê).
Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo.
 Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ lương thực
hàng ngày được để đảm bảo mức độ dinh dưỡng.như vậy,phương pháp tiếp
cận này tương tự cách tiếp cận của WB (đã nói ở trên).
 Ngưỡng nghèo thứ hai, thường gọi là “ngưỡng nghèo chung” ngưỡng
này bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hóa phi lương thực.
Ngưỡng nghèo Việt nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân cư
1993 và 1998 như sau:
Bảng 1.1: Ngưỡng nghèo ở Việt Nam
Chỉ tiêu bình quân đầu người /năm
1993 1998
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 7 - Lớp Đ5- QL5
(tính vào thời điểm
1/1993)
(tính vào thời điểm
1/1998)
Ngưỡng nghèo về lương
thực, thực phẩm
750 nghìn đồng 1.287 nghìn đồng
Ngưỡng nghèo chung 1.116 nghìn đồng 1.788 nghìn đồng
+ Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (phương pháp của bộ
lao động – thương binh – xã hội). Phương pháp này đang được sử dụng để

xác định chuẩn nghèo đói của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia
(chuẩn nghèo quốc gia).
Người được coi là nghèo về thu nhập là những người mà thu nhập của
họ nhằm ở bên dưới các “giới hạn” hay “đường chuẩn nghèo” đã được quy
định là 200 nghìn đồng/tháng ở khu vực nông thôn và 260 nghìn đồng/tháng ở
khu vực thành thị.
Việc nhận diện ai là người nghèo luôn là một vấn đề khó khăn cách
thông thường và đã được các nước đang phát triển và WB sử dụng là dựa vào
kết quả các cuộc điều tra về thu nhập (chi tiêu) của hộ gia đình (phương pháp
thống kê). Những người đang sống trong “nghèo khổ tuyệt đối” là những
người mà 4/5 chỉ tiêu của họ là giành cho nhu cầu về ăn mà chủ yếu là lương
thực,và một chút ít thực phẩm (thịt hoăc cá); tất cả đều thiếu dinh dưỡng; chỉ
1/3 số người biết chữ; và tuổi thọ của họ vào khoảng 40 năm.
Một cách tiếp cận khác cũng thường được sử dụng để xem xét nghèo
đói là chia dân cư thành các nhóm khác nhau (theo 5 nhóm) nhóm 1/5 nghèo
nhất là 20% dân số, những người sống trong các hộ gia đình có mức thu nhập
(chỉ tiêu) thấp nhất.
Bên cạnh sự nghèo khổ tuyệt đối,ở nhiều nước còn xét đến sự nghèo
khổ tuyệt đối. Nghèo khổ tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ
thuộc địa điểm cư dân sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến ở nơi đó.
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 8 - Lớp Đ5- QL5
Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người sống dưới mức tiêu chuẩn
có thể chấp nhận được trong những địa điểm và thời gian xác định. Đây là
những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ phận những người
khác trong xã hội được hưởng. Do đó, chuẩn mực để xem xét nghèo khổ
tương đối thường khác nha từ nước này sang nước khác hoặc từ vùng này
sang vùng khác. Nghèo khổ tương đối cũng là một hình thức biểu hện sự bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập.
1.1.3. Chỉ số đánh giá

Dựa trên cách tiếp cận định nghĩa sự nghèo khổ nói trên, thước đo sử
dụng phổ biến hiện nay để đánh giá nghèo khổ về thu nhập là điểm số người
sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người” (HC – headcount
index). Từ đó xác định tỷ lệ nghèo (tỷ lệ đếm đầu - HCR).
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số. Việc sử dụng
chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong
mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế giới.tuy nhiên để phản ánh được
tính chất gay gắt của nghèo đói và để có chính sách cần thiết hữu hiệu nhằm
giảm nghèo cho mọi đối tượng là người nghèo, các nhà kinh tế đã xây dựng
chỉ số “khoảng cách nghèo”. Khoảng cách nghèo là phần trênh lệch giữa mức
chi tiêu của người nghèo với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với
ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm dân cư trong một nước, khoảng cách
nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo khổ khác nhau giữa các nhóm.
Ví dụ theo kết quả tính toán của tổng cục thống kê việt nam khoảng
cách nghèo ở nông thôn Việt Nam năm 2002 là 8,7% và nhóm dân tộc thiểu
số là 22,1%.với giả thiết, mức tăng thu nhập là 2%/năm (và gần bằng tốc độ
tăng trưởng kinh tế) thì khoảng sau 4 năm có thể đưa hộ nghèo trung bình ở
nông thôn thoát nghèo trong khi đó nhóm dân tộc thiểu số phải mất một thập
kỷ.
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 9 - Lớp Đ5- QL5
1.2. Nghèo khổ của con người (nghèo khổ tổng hợp)
Sự nghèo khổ của con người là khái niệm đã được liên hiệp đưa ra
trong bang “báo cáo về phát triển con người” năm 1997. Theo đó,nghèo khổ
của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của con người – là
sự thiệt thòi (khốn cùng) theo 3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con
người. chẳng hạn, đối với các nước đang phát triển sự thiệt thòi đó là:
 Thiệt thòi sét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh, được xác
định bởi tỷ lệ người dự kiến khopong thọ quá 40 tuổi.
 Thiệt thòi về tri thức,được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.

 Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế,được xác định bởi tỷ lệ người không tiếp
cận được với các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người ”, liên hợp quốc đã sử dụng chỉ
số nghèo khổ của con người – HPI (Human poor index) hay còn gọi là chỉ số
nghèo khổ tổng hợp.
Giá trị HPI củ một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh
hưởng lên bao nhiêu phần dân số của nước đó so sánh các giá trị HDI và HPI
cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ của con người các nước có thể có
giá trị HDI như nhau những giá trị HPI lại khác nhau.
Ví dụ trường hợp của Trung Quốc và Gioocđani (1999) chỉ số phát
triển con người của mỗi nước là 0,718 và 0,714 chỉ số nghèo khổ con người
của trung quốc là 15,1% trong khi gioocđani chỉ là 8,5. Ở Việt Nam HPI năm
1999 là 29,1% và xếp hạng theo HPI nước ta đứng thứ 45 trên 90 quốc gia
được Liên Hợp Quốc nghiên cứu.
1.3. Nghèo đói ở Việt Nam
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 10 - Lớp Đ5- QL5
Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam đã giảm dần theo từng năm, từ mức
37,4% (năm 1998) thì sau mười năm con số này đã giảm đáng kể xuống còn
14,5% (năm 2008).
Bảng 1.2: Tỷ lệ nghèo chung phân theo thành thị, nông thôn
và phân theo vùng (*)


1998 2002 2004 2006 2008
CẢ NƯỚC
Tỷ lệ nghèo chung 37,4 28,9 19,5 16,0 14,5
Phân theo thành thị, nông thôn


Thành thị 9,0 6,6 3,6 3,9 3,3

Nông thôn 44,9 35,6 25,0 20,4 18,7
Phân theo vùng

Đồng bằng sông Hồng 30,7 21,5 11,8 8,9 8,0

Trung du và miền núi phía Bắc 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4

Tây Nguyên 52,4 51,8 33,1 28,6 24,1

Đông Nam Bộ 7,6 8,2 3,6 3,8 2,3

Đồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3
(*)
Tỷ lệ nghèo chung được tính theo mức chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng
với chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới cho các năm
như sau: 1998: 149 nghìn đồng; 2002: 160 nghìn đồng; 2004: 173 nghìn đồng;
2006: 213 nghìn đồng; 2008: 280 nghìn đồng.
Nguồn: Tổng cục thống kế (xem tại: />tabid=395&idmid=3&ItemID=9960)
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 11 - Lớp Đ5- QL5
1.3.1. Chuẩn nghèo Việt Nam
Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo lường mức độ nghèo
của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo bình quân trên
thế giới. Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-
TTg ký ngày 08 Tháng 07 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng

cho giai đoạn 2006 – 2010:
 Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
 Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có
khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Theo chuẩn trên, nhiều hộ
nghèo thoát nghèo nhưng vẫn không đủ sống và do đời sống khó khăn nên rất
nhiều người muốn còn được thuộc diện nghèo mãi để còn nhận các khoản hỗ
trợ như như vay vốn ưu đãi, bảo hiểm y tế.... Phó thủ tướng Nguyễn Sinh
Hùng cho rằng không thể duy trì chuẩn nghèo 200.000-260.000 đồng như
hiện nay mà cần rà sát và ban hành chuẩn nghèo mới cho năm 2011.
3.1.2. Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam
nhưng nói chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan như sau:
3.1.2.1. Nguyên nhân lịch sử, khách quan
o Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một
cuộc chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị
bỏ hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do
mất mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến
tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
Chuyên đề Kinh tế phát triển
Nguyễn Thị Hải Yến - 12 - Lớp Đ5- QL5
o Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc
áp dụng chính sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và
chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm
yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình
ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
o Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu

nhà nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài
đã làm thui chột động lực sản xuất.
o Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ
đã làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công
nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc
doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân
số tăng cao.
o Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra
thành thị lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp,
chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản
nông dân di cư, nhập cư vào thành phố.
o Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi
mới do nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng
vốn của Nhà nước.
3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành
tựu nhưng số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6 triệu
hộ) do các nguyên nhân khác như sau:
o Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên
cho gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát
triển làm tỷ lệ nghèo tăng lên.
Chuyên đề Kinh tế phát triển

×