Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

hiện trạng chất thải rắn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.49 KB, 105 trang )

Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Lời cảm ơn!
Qua thời gian thực tập tại Tạp Chí Bảo Vệ Môi Trường em đã áp dụng
nhiều kiến thức đã học vao thực tế và thu được nhiều kinh nghiệm cho bản thân
trong công việc sau này. Để hoàn thành tốt đợt thực tập em xin bày tỏ long biết ơn
tới các thầy cô giáo trong khoa Môi Trường, đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức và
kỹ năng nghề nghiệp cho em có một hành trang vững chắc và tự tin trong suốt quá
trình thực tập.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới chị Nguyễn Thị Hằng và chị
Vũ Thị Nhung cùng các anh chị trong Tạp Chí Bảo Vệ Môi Trường đã tận tình
giúp đỡ, tạo điều kiện, chỉ bảo để em có thể hoàn thành tốt đợt thực tập.
Do vốn kiến thức còn hạn hẹp, kinh nghiệm thực tế chưa nhiều cho nên bài
báo cáo của em còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Do vậy, em mong các thầy cô giáo
trong Khoa cùng các anh chị trong đơn vị thực tập chỉ bảo, đóng góp ý kiến để em
có thể hoàn thiện tốt bai báo cáo của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


1
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
A: MỞ ĐẦU
1. Lý do chon chuyên đề
Đô thị hóa là xu hướng phát triển tất yếu trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh
những mặt tích cực không thể phủ nhận của quá trình đô thị hóa như tạo ra những
cơ sở vật chất cần thiết để ứng dụng những thành tựu khoa học mới nhất chế tạo
những sản phẩm công nghệ cao phục vụ đời sống, hình thành một thị trường rộng
lớn và năng động thúc đẩy quá trình trao đổi hàng hóa, tạo điều kiện cho sự phát
triển xã hội nhanh chóng, là những tiêu cực không thể tránh khỏi như gia tăng liên
tục số lượng CTR, chất thải nước và chất thải khí vào MT, các loại chất thải này
ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của người dân tại khu vực gây nên ô
nhiễm nguồn nước, không khí, tạo điều kiện cho vi khuẩn và các loại bệnh tật phát


triển.
Trong các tác nhân gây ô nhiễm MT nói trên,em xin đề cập đến một trong số
những tác nhân gây ô nhiễm không khí mà hiện nay Việt Nam nói chung và ở Hà
Nội nói riêng đang gặp phải, đó là CTR . Mỗi năm trung bình cả nước có khoảng
15 triệu tấn CTR phát sinh trong đó chỉ ở Hà Nội đã là 730.000 tấn chiếm khoảng
5% lượng rác thải rắn cả nước, một con số rất lớn so với diện tích eo hẹp ở khu vực
này và dự báo số lượng này sẽ tiếp tục gia tăng. Chính vì lý do đó mà vấn đề xử lý
rác thải đã trở thành vô cùng cấp thiết đối với Hà Nội.
Nếu không xử lý phù hợp và kịp thời thì nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khoẻ con người và MT.
Chính vì vậy qua bài này em muốn đưa ra những đánh giá về mức độ ảnh
hưởng của rác thải rắn đối với MT tại các khu đô thị nói chung và ở Hà Nội nói
riêng và tình hình xử lý CTR ở khu vực Hà Nội.
2
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Vì thế, em đã tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá thực trạng quản lý và giải
pháp đối với CTR trên địa bàn Thành phố Hà Nội”.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng và công tác quản lý CTR tại thành phố Hà Nội.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Sơ lược về ĐKTN – KTXH của thành phố Hà Nội.
Thực trạng phát sinh CTR.
Đáng giá công tác quản lý CTR
Các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý CTR.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
- Thu thập các số liệu, tài liệu liên quan đến ĐKTN – KTXH củ khu vực
nghiên cứu; các VBPL về quản lý CTR; kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới cũng
như ở Việt Nam liên quan đến CTR. Nguồn sưu tầm các tài liệu của Tạp Chí Bảo

Vệ Môi Trường, các tài liệu đã công bố, các tài liệu từ internet.
Phương pháp xử lý số liệu
Từ kết quả điều tra thu được xử dụng phần mềm exel để thống kê các
nguồn phát thải, lượng phát thải.
3
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Phương pháp so sánh
So sánh số liệu qua các năm để so sánh hiệu quả của công tác quản lý
cũng như thực trạng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của chuyên đề
3.1. Mục tiêu
Phác họa bức tranh về thực trạng quản lý CTR và công tác quản lý CTR.
Đưa ra giải pháp phù hợp để giải quyêt những vấn đề tồn tại cũng như phát
huy những mặt tích cực.
3.2. Nhiệm vụ
Đánh giá thực trạng của vấn đề mình cần nghiên cứu.
Nêu được những phương hướng, kiến nghị cho vấn đề mình cần nghiên cứu.
4. Yêu cầu của đề tài
Nguồn số liệu điều tra, thu thập chính xác.
Quá trình đánh giá khách quan.
Giải pháp đưa ra có tính khả thi phù hợp với điều kiện của thành phố.
4
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
B: GIỚI THIỆU VỀ TẠP CHÍ BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG
1.Vị trí và chức năng
TCBVMT là đơn vị sự nghiệp có thứ tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động
thường xuyên trực thuộc Tổng cục MT.
Tạp chí là cơ quan ngôn luận của Tổng cục MT có chức năng của cơ quan báo
chí chuyên ngành giúp Tổng cục MT tổ chức thực hiện nhiệm vụ báo chí, tuyên

truyền và công bố thông tin trong lĩnh vực MT trong khuôn khổ chức năng nhiệm
vụ của Tổng cuc MT.
Tạp chí có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản hạn mức
kinh phí và tiền gửi tại kho bạc Nhà nước, tài khoản tại ngân hàng theo quy định
hiện hành.
2.Nhiệm vụ và quyền hạn
Thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về MT; hướng dẫn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm về
công tác quản lý; giới thiệu những thành tựu, kết quả nghiên cứu khoa học, các giải
pháp, công nghệ, mô hình điển hình tiên tiến trong kĩnh vự quản lý, BVMT; giáo
dục nâng co nhận thức và ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong lĩnh vực BVMT
thông qua hoạt động báo chí.
Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện chức năng của Tạp chí đã được quy
định tại vị trí và chức năng của Tạp chí.
5
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Tổ chức thực hiện các công việc thuộc quy trình biên tập, xuất bản và phát
hành tạp chí, các ấn phẩm tuyên truyền về lĩnh vực MT và liên quan; xây dựng và
duy trì Tạp chí MT điện tử; tuân thủ các quy định của Luật Báo chí, thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định trong Giấy phép xuất bản do Bộ Thông tin và Truyền
thông cấp.
Tham gia xây dựng nội dung trang thông tin điện tử cuc Tổng cục theo quy
định của pháp luật và quy chế cua Tổng cục.
Tổ chức các hoạt điều tra, khảo sát thực tế phát hiện và thông tin kịp thời các
vấn đề MT bức xúc, các điển hình tốt trong hoạt động MT; tổng hợp, xử lý, trình
báo cáo lãnh đạo Tổng cục các thông tin về MT đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng và quốc tế.
Cung cấp các thông tin và phối hợp các hoạt động tuyên truyền trong lĩnh vực
quản lý, BVMT vơi các cơ quan thông tin đại chúng.
Tổ chức mạng lưới cộng tác viên của Tạp chí; tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

kiến thức MT, nghiệp vụ baoc chí cho đội ngũ cán bộ, biên tập viên, phóng viên và
cộng tác viên.
Tham gia thực hiện các chương trình, đề án, dự án, đề tái nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông MT theo sự phân công của Tổng cục MT.
Thực hiện các hoạt động dịch vụ chế bản, in ấn, thông tín, giới thiệu, quảng
cáo theo quy định của pháp luật.
Tổ chức các hoạt động hợp tác, vận động tài trợ tự nguyện từ các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước nhằm phát triển Tạp chí phù hợp vơi tôn chỉ mục đích và
theo quy định của pháp luật.
6
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Tổ chức thực hiện cải cách hành chính theo chương trình, kế hoạch cải cách
hành chính của Tổng cục.
Quản lý tài chính, tài sản thuộc Tạp chí BVMT; thực hiện nhiệm vụ của đơn
vị dự toán cấp 3 trực thuộc Tổng cục theo quy định của pháp luật.
Quản lý tổ chức, biên chế, viên chức, người lao động theo quy định.
Thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất tình hình thực hiện nhiệm vụ được
giao.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng cục trưởng giao.
3. Cơ cấu tổ chức
Lãnh đạo Tạp chí
- Lãnh đạo Tạp chí có Tổng biên tập và không quá 3 Tổng biên tập.
- Tổng biên tập lãnh đạo và điều hành mọi hoạt động của Tạp chí theo
chức năng, nhiệm vụ được giao và theo phân công của tổng cục trưởng; chịu trách
nhiệm trước Tổng cục trưởng và trước pháp luật về toàn bộ tổ chức và hoạt động
của Tạp chí; xây dựng và ban hành quy chế làm việc, quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị trực thuộc Tạp chí.
- Phó Tổng biên tập giúp Tổng biên tập, được Tổng biên tập giao phụ
trách từng lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng biên tập và trước pháp

luật về lĩnh vực công tác được phân công.
Bộ máy giúp việc Tổng biên tập:
- Ban biên tập.
7
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
- Ban trị sự.
C: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN
1. Định nghĩa và phân loại chất thải rắn
CTR được hiểu là những vật ở dạng rắn do hoạt động của con người (sinh
hoạt, sản xuất, tiêu dùng…) và động vật gây ra. Đó là những vật đã bỏ đi, thường ít
được sử dụng hoặc ít có ích và không có lợi cho con người.
Các nguồn sinh ra CTR:
-Từ mỗi cơ thể.
-Từ các khu dân cư (một hộ, nhiều hộ…), phần lớn do sinh hoạt.
-Từ thương mại (các cửa hàng, chợ…)
-Từ các khu trống của đô thị (bến xe, công viên…)
-Từ khu công nghiệp (công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp
hoá học, công nghiệp năng lượng, vật liệu xây dựng…)
-Từ nông nghiệp.
-Từ các nhà máy xử lý rác.
Bảng 1: Các nguồn sinh ra CTR
Nguồn Nơi sinh ra CTR Loại CTR
Dân cư Nhà riêng, nhà tập thể, nhà Rác thực phẩm, giấy thải,
8
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
cao tầng, khu tập thể… các loại chất thải khác
Thương mại Nhà hàng, khách sạn, nhà
nghỉ, các cơ sở buôn bán, sửa
chữa…
Rác thực phẩm, giấy thải,

các loại chất thải khác
Công
nghiệp,xây
dựng
Từ các nhà máy, xí nghiệp,
các công trình xây dựng…
Rác thực phẩm, xỉ than, giấy
thải, vải, đồ nhựa, chất thải
độc hại
Khu trống Công viên, đường phố, xa lộ,
sân chơi, bãi tắm, khu giải
trí…
Các loại chất thải bình
thường
Nông nghiệp Đồng ruộng, vườn ao, chuồng
trại…
Phân rác, rơm rạ, thức ăn,
chất thải nguy hiểm
Khu vực xử
lý chất thải
Từ các quá trình xử lý nước
thải, xử lý công nghiệp
Các chất thải, chủ yếu là
bùn, cát đất…
Nhờ việc đánh giá tìm hiểu các nguồn phát sinh ra CTR, góp phần cho
việc ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật giảm thiểu ảnh hưởng của CTR đến
MT không khí.
2. Phân loại chất thải rắn
2.1. Theo quan điểm thông thường
- Rác thực phẩm: bao gồm phần thừa thãi, không ăn được sinh ra trong khâu

chuẩn bị, dự trữ, nấu ăn…
9
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
- Rác bỏ đi: bao gồm các chất thải cháy và không cháy sinh ra từ các hộ gia
đình, công sở, hoạt động thương mại…
- Tro, xỉ: vật chất còn lại trong quá trình đốt than, củi, rơm rạ, lá…ở các gia
đình, nhà hàng, công sở, nhà máy, xí nghiệp…
- Chất thải xây dựng: rác từ các nhà đổ vỡ, hư hỏng gọi là rác đổ vỡ, còn rác
từ các công trình xây dựng, sửa chữa nhà cửa…là rác xây dựng.
- Chất thải đặc biệt: liệt vào loại rác này có rác quét phố, rác từ các thùng rác
công cộng, xác động vật, vôi gạch đổ nát…
- Chất thải từ các nhà máy xử lý ô nhiễm: có rác từ hệ thống xử lý nước, nước
thải, nhà máy xử lý chất thải công nghiệp.
- Chất thải nông nghiệp: vật chất loại bỏ từ các hoạt động nông nghiệp như
gốc rơm rạ, cây trồng, chăn nuôi…
- Chất thải nguy hiểm: chất thải hoá chất, sinh học, dễ cháy, dễ nổ hoặc mang
tính phóng xạ theo thời gian có ảnh hưởng đến đời sống con người, động thực vật.
Trong nhiều trường hợp thống kê người ta phân chia thành 3 loại: chất thải
rắn từ sinh hoạt gia cư gọi là rác sinh hoạt, chất thải y tế và chất thải công nghiệp.
2.2. Theo công nghệ quản lý, xử lý.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật trong từng lĩnh vực thực tế đã
góp phần giảm thiểu chi phí cho các công đoạn thừa trong các quá trình xử lý. Việc
phân chia CTR theo công nghệ quản lý xử lý là một bước tiến quan trọng, giúp hiệu
quả của quy trình xử lý tăng lên, giảm thiểu lượng ô nhiễm.
Bảng 2: Phân loại CTR theo công nghệ quản lý, xử lý
10
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Thành phần Định nghĩa Ví dụ
1. Các chất cháy được:
Giấy

Hàng dệt
Rác thải
Cỏ, gỗ, củi, rơm rạ…
Chất dẻo
Da và cao su
Các vật liệu làm từ giấy
Có nguồn gốc từ các sợi
Các chất thải ra từ đồ ăn thực
phẩm
Các vật liệu và sản phẩm được
chế tạo từ gỗ, tre và rơm…
Các vật liệu và sản phẩm được
chế tạo từ chất dẻo
Các vật liệu và sản phẩm được
chế tạo từ da và cao su
Các túi giấy, các mảnh bìa, giấy
vệ sinh…
Vải, len, bì tải, bì nilon…
Các cọng rau, vỏ quả, thân cây,
lõi ngô…
Đồ dùng bằng gỗ như bàn, ghế,
thang, giường, đồ chơi, vỏ dừa…
Phim cuộn, túi chất dẻo, chai, lọ
chất dẻo, các đầu vòi bằng chất
dẻo, dây bện, bì nilon…
Bóng, giầy, ví, băng cao su…
2.Các chất không cháy
được
Các kim loại sắt
Các kim loại không

phải là sắt
Thủy tinh
Đá và sành sứ
Các loại vật liệu và sản phẩm
được chế tạo từ sắt mà dễ bị nam
châm hút
Các vật liệu không bị nam châm
hút
Các vật liệu và sản phẩm chế tạo
từ thuỷ tinh
Các loại vật liệu không cháy
ngoài kim loại và thủy tinh
Vỏ hộp, dây điện, hàng rào, dao,
nắp lọ…
Vỏ hộp nhôm, giấy bao gói, đồ
đựng…
Chai lọ, đồ đựng bằng thủy tinh,
bóng đèn…
Vỏ trai, xương, gạch, đá gốm…
11
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
3. Các chất hỗn hợp Tất cả các loại vật liệu khác
không phân loại ở phần 1 và 2
đều thuộc loại này. Loại này có
thể được phân chia thành 2 phần:
kích thước lớn hơn 5 mm và nhỏ
hơn 5 mm
Đá cuội, cát, đất, tóc…
3.Tác động của chất thải rắn
3.1. Tác hại của chất thải rắn đối với sức khỏe cộng đồng

Việt Nam đang đối mặt với nhiều nguy cơ lây lan bệnh truyền nhiễm, gây
dịch nguy hiểm do MT đang bị ô nhiễm.
Ô nhiễm MT ở nước ta đã gia tăng tới mức độ ảnh hưởng tới sức khoẻ người
dân. Ngày càng có nhiều vấn đề về sức khoẻ liên quan tới yếu tố MT bị ô nhiễm.
Theo đánh giá của chuyên gia, CTR đã ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ cộng
đồng; nghiêm trọng nhất là đối với dân cư khu vực làng nghề, khu công nghiệp,
BCL chất thải và vùng nông thôn ô nhiễm CTR đến mức báo động.
Nhiều bệnh như đau mắt, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da, tiêu chảy, dịch
tả, thương hàn…do CTR gây ra.
Đội ngũ lao động của các đơn vị làm vệ sinh đô thị phải làm việc trong điều
kiện nặng nhọc, ô nhiễm nặng, cụ thể: nồng độ bụi vượt quá TCCP từ 1,5 đến 1,9
lần, khí độc vượt TCCP từ 0,5 đến 0,9 lần, các loại vi trùng, siêu vi trùng, nhất là
trứng giun, trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ.
12
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
3.2. Chất thải rắn làm giảm mỹ quan đô thị.
Nếu việc thu gom và vận chuyển rác thải không hết sẽ dẫn đến tình trạng tồn
đọng chất thải trong các đô thị, làm mất mỹ quan, gây cảm giác khó chịu cho cả
dân cư trong đô thị.
Không thu hồi và tái chế được các thành phần có ích trong chất thải, gây ra sự
lãng phí về của cải, vật chất cho xã hội.
3.3. Chất thải rắn làm ô nhiễm môi trường
CTR đổ bừa bãi xuống cống rãnh, ao, hồ, kênh, rạch…làm quá tải thêm hệ
thống thoát nước đô thị, là nguồn gây ô nhiễm cho nguồn nước mặt và nước ngầm.
Khi có mưa lớn sẽ gây ô nhiễm trên diện rộng đối với các đường phố bị ngập.
Trong MT khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, chất thải bị thối
rữa nhanh là nguyên nhân gây ra dịch bệnh, nhất là chất thải độc hại, chất thải bệnh
viện.
Các bãi rác không hợp vệ sinh là các nguồn gây ô nhiễm nặng cho cả đất,
nước, không khí.

4. Các phương pháp xử lý chất thải rắn
Để hạn chế việc ô nhiễm do thải các CTR, hiện nay ở nhiều nước đã có các
biện pháp xử lý CTR rất nghiêm ngặt như: phân loại các chất thải, tận dụng và thu
hồi lại các chất thải, xử lý các chất thải độc hại nguy hiểm bằng phương pháp thiêu
đốt hoặc chôn chất thải ở hố chôn có kĩ thuật, có lớp ngăn cách với đất, có lớp bao
phủ bề mặt, có đường thoát và tiêu nước bề mặt và sử dụng hợp lí các vùng mỏ đã
khai thác nhằm hạn chế ô nhiễm.
13
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Để xử lý CTR đang là vấn đề mà các tỉnh trong cả nước hết sức quan tâm.
Lâu nay rác thải thường được chôn lấp tại các khu rác thải hở theo hình thức tự
phát, hầu hết các bãi rác thải này đều được chôn lấp rất thiếu vệ sinh, và do diện
tích chôn lấp hẹp và gần khu vực dân cư nên gây ô nhiễm và những tác động đến
MT ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Không những thế tốc độ đô
thị hoá và sự tăng dân số càng làm cho việc quản lý CTR ngày càng khó khăn hơn.
Chính vì vậy việc lựa chọn công nghệ xử lý và quy hoạch BCL hợp lý có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với việc BVMT.
Công nghệ xử lý CTR thường được phối hợp giữa chôn lấp và đốt hay sản
xuất phân vi sinh. Việc lựa chọn công nghệ phù hợp cần được xem xét trên cả hai
phương diện kinh tế lẫn MT.
Có 4 phương pháp chính thường được ứng dụng kết hợp trong các mô hình
xử lý CTR hiện nay.
4.1. Phân loại và xử lý cơ học
Đây là khâu ban đầu không thể thiếu trong quy trình xử lý chất thải. Biện
pháp này sẽ làm tăng hiệu quả tái chế và xử lý ở các bước tiếp theo. Các công nghệ
dùng để phân loại, xử lý cơ học chất thải bao gồm: cắt, nghiền, sang, tuyển từ,
truyền khí nén….Ví dụ: các loại chất thải có kích thước lớn và thành phần khác
nhau phải được phân loại ngay khi tiếp nhận. Các CTR chứa các chất độc hại (như
muối xyanua rắn) cần phải được đập thành những hạt nhỏ trước khi được hoà tan
để xử lý hoá học. Các chất thải hữu cơ dạng rắn có kích thước lớn phải được băm

và nghiền nhỏ đến kích thước nhất định, rồi trộn với các chất thải hữu cơ khác để
đốt.
4.2. Công nghệ thiêu đốt
14
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Đốt là quá trình oxy hoá chất thải ở nhiệt độ cao. Công nghệ này rất phù hợp
để xử lý CTR công nghiệp và CTNH hữu cơ như cao su, nhựa, giấy, da, cặn dầu,
dung môi, thuốc bảo vệ thực vật và đặc biệt là chất thải y tế trong những lò đốt
chuyên dụng hoặc công nghiệp như lò nung xi măng. Theo các tài liệu kĩ thuật thì
khi thiết kế lò đốt chất thải phải đảm bảo 4 yêu cầu cơ bản: cung cấp đủ oxy cho
quá trình nhiệt phân bằng cách đưa vào buồng đốt một lượng không khí dư; khí dư
sinh ra trong quá trình cháy phải được duy trì lâu trong lò đốt đủ để đốt cháy hoàn
toàn (thông thường ít nhất là 4 giây); nhiệt độ phải đủ cao (thông thường cao hơn
10.000
0
C); yêu cầu trộn lẫn tốt các khí cháy-xoáy.
Công nghệ này có nhiều ưu điểm: khả năng tận dụng nhiệt, xử lý triệt để khối
lượng, sạch sẽ, không tốn đất để chôn lấp nhưng cũng có một số hạn chế như chi
phí đầu tư, vận hành, xử lý khí thải lớn, dễ tạo ra các sản phẩm phụ nguy hiểm.
4.3. Công nghệ xử lý hoá-lý
Công nghệ này là sử dụng các quá trình biến đổi vật lý, hoá học để làm thay
đổi tính chất của chất thải nhằm mục đích chính là giảm thiểu khả năng nguy hại
của chất thải đối với MT. Công nghệ này rất phổ biến để thu hồi, tái chế chất thải,
đặc biệt là một số loại chất thải nguy hại như: dầu, mỡ, kim loại nặng, dung môi…
Biện pháp này chỉ thực sự có hiệu quả cao về kinh tế và MT đối với những
nhà máy xử lý chất thải quy mô lớn, đầu tư công nghệ hiện đại để có thể thu hồi sản
phẩm từ chất thải. Một số biện pháp hoá-lý thông dụng trong xử lý chất thải như
sau:
- Trích ly: Là quá trình tách các cấu tử ra khỏi hỗn hợp nhờ một dung môi
có khả năng hoà tan chọn lọc một số chất trong hỗn hợp đó. Trong xử lý chất thải,

quá trình trích ly thường được ứng dụng để tách hoặc thu hồi các chất hữu cơ có lẫn
trong chất thải dầu mỡ, dung môi, hoá chất bảo vệ thực vật.
15
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
- Chưng cất: Là quá trình tách hỗn hợp chất lỏng bay hơi thành những cấu
tử riêng biệt dựa vào độ bay hơi khác nhau, ở những nhiệt độ sôi khác nhau của
mỗi cấu tử chứa trong hỗn hợp đó, bằng cách lặp đi lặp lại bay hơi và ngưng tụ.
Quá trình chưng cất dựa trên cơ sở là các cấu tử của hỗn hợp lỏng có áp suất hơi
khác nhau, khi đun nóng, những chất có nhiệt độ sôi thấp hơn sẽ bay hơi trước và
được tách riêng ra khỏi hỗn hợp.
- Kết tủa, trung hoà: dựa trên phản ứng tạo sản phẩm kết tủa lắng giữa
chất bẩn và hoá chất để tách kết tủa ra khỏi dung dịch. Quá trình này thường được
ứng dụng để tách các kim loại nặng trong chất thải lỏng ở dạng hydroxit kết tủa
hoặc muối không tan.
- Oxi hoá-khử: là quá trình sử dụng các tác nhân oxy hoá-khử để tiến hành
phản ứng oxy hoá-khử, chuyển chất hại độc hại thành không độc hại hoặc ít độc hại
hơn.
4.4. Công nghệ chôn lấp hợp vệ sinh
Chôn lấp hợp vệ sinh là biện pháp tiêu huỷ chất thải được áp dụng rất rộng rãi
trên thế giới. Theo công nghệ này, CTR công nghiệp và CTNH dạng rắn hoặc sau
khi đã cố định ở dạng viên được đưa vào các hố chôn lấp có ít nhất hai lớp lót
chống thấm,có hệ thống thu gom nước rò rỉ để xử lý, có hệ thống thoát khí, có
giếng khoan để giám sát khả năng ảnh hưởng đến nước ngầm.
Địa điểm xây dựng BCL CTR công nghiệp và CTNH phải cách xa khu dân cư
lớn hơn 5 km; giao thông thuận lợi, nền đất phải ổn định, chống thấm tốt, mực
nước ngầm thấp…
Việc xây dựng hố chôn lấp phải theo đúng các quy chuẩn thiết kế về kích
thước, độ dốc, các lớp chống thấm đáy và vách, xử lý nước rò rỉ, khí gas, …
16
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường

Để tăng cường hiệu quả sử dụng hố chôn việc chôn lấp CTR công nghiệp và
CTNH thường kết hợp với cố định và hoá rắn chất thải trước khi chôn thông qua
việc đưa thêm những chất liệu khác vào chất thải để làm thay đổi tính chất vật lý,
tăng sức bền, giảm độ hoà tan…. Biện pháp này cũng thường được áp dụng trong
trường hợp không thể sử dụng các biện pháp cải tạo sinh học hay đốt chất thải. Vật
liệu để đóng rắn phổ biến là ximăng, hoặc có thể trộn thêm vào đó một vài chất vô
cơ khác để tăng độ ổn định và kết cấu. Tỷ lệ ximăng trộn nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
từng loại CTNH cụ thể.
Trên đây là các giải pháp công nghệ có tính chọn lọc nhằm mục đích hỗ trợ
các hoạt động xử lý chất thải ngay tại nguồn, đáp ứng nhu cầu thực tiễn, hoặc cũng
có thể áp dụng ở những quy mô lớn hơn trong vùng khi điều kiện cho phép.
4.5. Các công nghệ xử lý CTR theo điều 29 - 30, Nghị định số
59/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ về việc quản lý CTR
- Công nghệ đốt rác tạo nguồn năng lượng
- Công nghệ chế biến phân hữu cơ
- Công nghệ chế biến khị Biogas
- Công nghệ xử lý nước rác
- Công nghệ tái chế rác thải thành chế phẩm và vật liệu xây dựng
- Công nghệ tái sử dụng các thành phần có ích trong rác thải
- Chôn lấp CTR hợp vệ sinh
- Chôn lấp CTNH
17
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
- Các công nghệ khác
Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia năm 2010.
D: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.Địa lý
1.1. Vị trí, địa hình
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,

Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ
Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa
Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng
Phú Thọ phía Tây. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008,
thành phố có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập
trung chủ yếu bên hữu ngạn.
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang
Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 m so với mực nước biển. Nhờ phù sa bồi
đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông
Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần
lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh như Ba Vì
cao 1.281 m, Gia Dê 707 m, Chân Chim 462 m, Thanh Lanh 427 m, Thiên Trù 378
m Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.
]
Thủ đô Hà Nội có 4 điểm cực là:
- Cực Bắc là xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn.
18
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
- Cực Tây là xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
- Cực Nam là xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức.
- Cực Đông là xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm.
1.2 Thủy văn
Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở
huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng
Yên. Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba
chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có Sông Đà là ranh giới
giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại
huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy,
sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ, Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành
như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, là những đường tiêu thoát nước thải của Hà

Nội.
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các
dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500
ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi
nhiều khách sạn, biệt thự.
[8]
Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu
vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô
có thể kể tới những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ
Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên
Đàm, Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn,

Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ
Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát
19
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 150.000 m³.
Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ một ngày. Sông Lừ và sông
Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng
NTSH và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông
mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một
phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công
cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.
1.3.Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng
nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có
nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn,
trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự
thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ tháng 5 tới

tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3
năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Cùng với hai
thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10, thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ,
thu và đông.
Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường. Vào tháng 5 năm
1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955,
nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C. Đầu tháng 11 năm 2008, một trận mưa kỷ
lục đổ xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung khiến 18 cư dân Hà Nội thiệt mạng
và gây thiệt hại cho thành phố khoảng 3.000 tỷ đồng.
2. Dân cư
2.1. Nguồn gốc dân cư
20
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Vào thập niên 1940, khi Hà Nội là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, dân
số thành phố được thống kê là 132.145 người. Nhưng đến năm 1954, dân số Hà
Nội giảm xuống chỉ còn 53 nghìn dân trên một diện tích 152 km². Có thể nhận thấy
một phần rất lớn trong số những cư dân đang sống ở Hà Nội hiện nay không sinh ra
tại thành phố này. Lịch sử của Hà Nội cũng đã ghi nhận dân cư của thành phố có
những thay đổi, xáo trộn liên tục qua thời gian. Ở những làng ngoại thành, ven đô
cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn.
Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16. Nhưng trong
nội ô, khu vực của các phường thương nghiệp và thủ công, dân cư xáo trộn rất
nhiều. Còn lại rất hiếm những dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ
XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác (Trung Tự - Hà Nội). Do tính chất
của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm.
Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác.
Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan
tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng.
Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ.
Vào thế kỷ 15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có

ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng
lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh
đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong
hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành
phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép
cư ngụ lại Thăng Long. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp
thành kinh đô Thăng Long có hẳn một phường người Hoa, là phường Đường Nhân.
Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.
2.2. Dân số
21
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa thế
kỷ gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội,
thành phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố
được mở rộng, diện tích lên tới 584 km², dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội
quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số
2,5 triệu người.
[17]
Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924
km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, cùng
việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con
số 2.672.122 người vào năm 1999. Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào
tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có 6,233 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có
diện tích lớn nhất thế giới. Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm
2009, dân số Hà Nội là 6.451.909 người, dân số trung bình năm 2010 là 6.913.161
người.
Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao
nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện như
ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ dưới 1.000 người/km².
Về cơ cấu dân số, theo số liệu 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây

chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày
chiếm 0,9%. Năm 2009, người Kinh chiếm 98,73 % dân số, người Mường 0,76 %
và người Tày chiếm 0,23 %.Năm 2009, dân số thành thị là 2.632.087 chiếm 41,1%,
và 3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1%.
3. Lịch sử
22
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
3.1.Thời kỳ tiền Thăng Long
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực
Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời
kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi
lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người
mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu
thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở
cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những
cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai
đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế
kỷ 3 trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục
Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà
Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở
thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai
đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm bị các triều đại phong
kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, nước Âu Lạc được chia thành ba quận
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng
trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456, Hà Nội mới được ghi
lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà
Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý Bí là Lý
Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602.
Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là

trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây
23
Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ phủ của Tĩnh
Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự
xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ. Thế kỷ
10, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở
thành kinh đô của nước Việt.
3.2.Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh
Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời
đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn
thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long. Kinh
thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông
Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ
Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị
là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương
nghiệp. Ngay trong thế kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây
dựng, chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây
năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076 Chỉ sau một
thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc
gia.
Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, kinh thành Thăng Long tiếp tục
được xây dựng, hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện mới.
Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù
địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư
dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công
thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của
nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu Văn An Trong cuộc
chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều
24

Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội Khoa Môi Trường
kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt. Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy vi,
một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần chuyển
kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu
năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô.
Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406,
nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành
Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm
1428
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông
Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành Đông
Kinh, đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà
Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh
Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành
chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội
buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê. Trong giai đoạn tranh
giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí
kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một
điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng
và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của
ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều
cư dân tới sinh sống. Câu ca Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến nói lên sự sầm uất
giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là Kẻ Chợ. Nhà truyền
giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng
1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường
được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa
Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn
25

×