Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần bia sài gòn – hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.47 KB, 113 trang )

MỤC LỤC
4.3.1 Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dưới góc độ kế toán tài chính 76
4.3.2 Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dưới góc độ kế toán quản trị 81
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
STT Viết tắt Nội dung/nghĩa đầy đủ
1
NVL Nguyên vật liệu
2
NCTT Nhân công trực tiếp
3
CP SXC Chi phí sản xuất chung
4
BHXH Bảo hiểm xã hội
5
BHYT Bảo hiểm y tế
6
KPCĐ Kinh phí công đoàn
7
BHTN Bảo hiểm thất nghiệp
8
GTGT Giá trị gia tăng
9
CCDC Công cụ dụng cụ
10
TK Tài khoản
11
TSCĐ Tài sản cố định
12
SPDD Sản phẩm dở dang


1
13
CP bia SG - HN Cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam
14
CP Chi phí
15
TT Trực tiếp
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ
4.3.1 Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dưới góc độ kế toán tài chính 76
4.3.2 Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
dưới góc độ kế toán quản trị 81
Bảng 4.2: Dự toán theo cách ứng xử của chi phí 92
Bảng 4.3: Báo cáo chi phí sản xuất toàn DN 94
Bảng 4.4: Báo cáo giá thành sản phẩm 95
Bảng 4.5: Báo cáo chênh lệch giá thành sản phẩm 95
CÁC PHỤ LỤC
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của loài người, bia là một thứ hàng hoá tiêu dùng không
thường xuyên trong đời sống sinh hoạt của con người, tuy nhiên xã hội ngày càng phát
triển, nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng cao, do đó bia dần dần đi vào xã hội
như một sản phẩm thiết yếu không thế thiếu. Sản phẩm này không chỉ thoả mãn nhu cầu
của con người là nhu cầu “ăn uống“, mà còn thoả mãn những nhu cầu cao hơn mang giá
2
trị tinh thần, nó là sự thưởng thức, là sự khẳng định điều vị, là sự thể hiện cái “tôi” của
bản thân mình. Tuy nhiên, nhu cầu lại luôn biến đổi, và nó phụ thuộc vào các điều kiện
mức sống, của các giá trị văn hoá xã hội, của yếu tố địa lý và của cả các qui luật tâm lý.

Chính vì vậy, để từng bước phù hợp với sự biến đổi của nhu cầu, sản phẩm bia đã có một
quá trình biến đổi từ thấp đến cao và ngày nay nó càng ngày càng trở thành một sản
phẩm thiết yếu phục vụ con người.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải có
phương án sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trường tất yếu
phải có cạnh tranh, không những cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn
với doanh nghiệp nước ngoài. Trên thị trường nước ta có rất nhiều các nhà máy cung cấp
bia, ví dụ một số hãng bia lớn như: bia Hà Nội, bia Sài Gòn, bia Heniken và rất nhiều
nhà máy bia khác xuất hiện ở các tỉnh thành trong cả nước tất cả đã tạo nên một sự cạnh
tranh hết sức khốc liệt và đầy sôi động. Bất kỳ một chủ sở hữu vốn nào cũng luôn quan
tâm đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp mình. Mục đích của các nhà quản lý là
làm sao có được lợi nhuận cao nhất. Để đạt được mục đích này, các doanh nghiệp phải
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp hiệu quả mà hầu hết các
doanh nghiệp đều áp dụng đó là phấn đấu không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất
(CPSX), hạ giá thành sản phẩm. Trong các doanh nghiệp sản xuất, chi phí chiếm một tỷ
trọng lớn và có tính quyết định đến giá thành sản phẩm. Chi phí và giá thành được coi là
hai chỉ tiêu cơ bản, có mối quan hệ khăng khít với nhau trong hệ thống chỉ tiêu kinh tế tài
chính của một doanh nghiệp nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp trong
từng chu kỳ kinh doanh. Tiết kiệm CPSX và hạ giá thành sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối
với việc tăng tích lũy của doanh nghiệp, đóng góp cho nền kinh tế. Để tiết kiệm CPSX,
hạ giá thành sản phẩm, yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện tổ chức kế toán tập hợp
CPSX và tính giá thành sản phẩm. Công tác này đã được ngày càng quan tâm hơn song
chưa toàn diện, chưa được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thông tin về kế
toán CPSX và tính giá thành sản phẩm chưa được thu thập, xử lý và cung cấp một cách
kịp thời có hiệu quả cho các đối tượng sử dụng thông tin, nhất là đối với các nhà quản lý
kinh tế. Trong xu hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đòi hỏi phải có sự nghiên
cứu mang tính lý luận và thực tiễn về tổ chức kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành
sản phẩm phục vụ cho việc đề ra các quyết định kinh tế, nhằm nghiên cứu, bổ sung và
hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó giúp cho công tác kế toán tập hợp CPSX
và tính giá thành sản phẩm có thể cung cấp những thông tin kinh tế tin cậy, có hiệu quả

cho các đối tượng cần sử dụng thông tin. Và muốn không chỉ tồn tại mà ngày càng phát
3
triển hơn nữa trong thế giới cạnh tranh khốc liệt đó thì đòi hỏi mỗi nhà kinh doanh, mỗi
nhà quản lý phải có chiến lược, chính sách quản trị hợp lý. Một trong những giải pháp
quan trọng để cạnh tranh là tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Việc hạ
giá thành sản phẩm là tiền đề để hạ giá bán, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường, đồng thời là biện pháp tăng lợi nhuận.
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tế công tác kế toán tại
Công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam, cho thấy công tác kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm còn tồn tại một số những bất cập trong quá trình hạch toán,
thông tin về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của công ty cung cấp
phục vụ cho nhà quản trị ra quyết định còn hạn chế. Do vậy em đã chọn đề tài: “ Hoàn
thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần bia Sài
Gòn – Hà Nam”
1.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu trước kia
Các vấn đề về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã được rất
nhiều tác giả Việt Nam nghiên cứu từ nhiều năm nay. Sau đây là tổng quan một số công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn.
Tác giả Nguyễn Thị Bình Yến (năm 2002) đã nghiên cứu: “Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng
cường quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp chế biến nông sản thành phố” trong
luận văn tác giả đã trình bày phương hướng và giải pháp hoàn thiện vấn đề tổ chức hạch
toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong ngành chế biến nông sản dưới góc độ
kế toán tài chính và kế toán quản trị, dưới góc độ kế toán quản trị tác giả đã bước đầu đề
cập đến mô hình kế toán quản trị theo phương pháp truyền thống, với những đề xuất cơ
bản nhất của hệ thống kế toán quản trị áp dụng trong hoạt động chế biến nông sản”.
Tác giả Đào Thị Nguyên Hoa (năm 2004) đã đề cập đến: “ Hoàn thiện tổ chức kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất bia ở Việt
Nam” trong luận văn tác giả đã trình bày rõ phương hướng hoàn thiện tổ chức kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm dưới góc độ kế toán tài chính nhưng chưa đề cập

sâu dưới góc độ kế toán quản trị.
Tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh (năm 2005) đề cập đến một khía cạnh khác trong
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là: “Hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị chi phí tại tổng công ty
Sông Đà”, trong bài viết này tác giả đã nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm dưới cả hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị, tuy nhiên tác giả
4
lại đề cao việc hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành dưới góc độ kế toán
quản trị một cách chuyên sâu hơn, đặc biệt là vấn đề quản trị chi phí, một trong những
vấn đề rất quan trọng hiện nay đối với những nhà quản lý.
Ngoài ra còn rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm, tuy nhiên mỗi tác giả lại có một cách tiếp cận, cách nghiên cứu,
một cách nhìn khác nhau, và mỗi tác giả lại nghiên cứu trong mọi lĩnh vực ngành nghề
khác nhau, nhưng mục đích chính của những bài nghiên cứu đó là tìm ra những hướng đi
tích cực nhất cho các doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Như bài viết của các tác giả, tác
giả Nguyễn Đức Thanh (2006) “ Hoàn thiện tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành tại Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam”, tác giả Tô Thị Thiên Nga
(2008) “ Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phục vụ quản trị
chi phí của các doanh nghiệp linh kiện xe gắn máy miền Bắc”, tác giả Lê Thị Hiếu
(2009) “ Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ôtô tại Việt Nam”.
Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã hệ thống hóa được các nội
dung cơ bản của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành phẩm dưới góc độ kế toán tài
chính và góc độ kế toán quản trị và đề xuất các phương hướng hoàn thiện dưới cả hai
góc độ ứng dụng vào các ngành cụ thể theo phạm vi nghiên cứu của đề tài. Mặc dù vậy
tất cả các công trình nghiên cứu về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
đã công bố đều chưa nghiên cứu chuyên sâu về hệ thống kế toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại các công ty bia nói chung, cụ thể là công ty cổ phần bia Sài Gòn –
Hà Nam nói riêng. Trong khi các công ty này lại đang rất cần các thông tin về kế toán chi

phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm và việc vận dụng từ những lý thuyết cơ bản vào
thực tiễn hoạt động kinh doanh của ngành bia trong hoàn cảnh kinh tế cụ thể không phải
là đơn giản. Bên cạnh đó các công trình nghiên cứu đã công bố chưa đi sâu vào đặc điểm
riêng của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cho ngành bia với sản
phẩm đặc thù liên quan đến nhiều ngành trong nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, các
vấn đề mà luận văn cần tập trung nghiên cứu là kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm áp dụng riêng cho công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam nói riêng và ngành
bia nói chung dưới góc độ kế toán tài chính và góc độ kế toán quản trị gắn liền với bối
cảnh kinh tế cụ thể, kinh nghiệm vận dụng các phương pháp kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong các nền kinh tế khác nhau.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu đề tài
5
Trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học về kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm, luận văn hướng đến những vấn đề sau:
Thứ nhất: mục tiêu chung là tìm hiểu thực trạng sản xuất bia tại công ty cổ phần
bia Sài Gòn – Hà Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị đóng góp nhằm hoàn thiện hơn nữa
công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty.
Ngoài ra còn có các mục tiêu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa một cách đầy đủ nhất về lý luận kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm đứng cả về góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Thông qua việc phân tích thực trạng công tác chi phí sản xuất và tính giá thành tại công
ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam chỉ ra được những thành công và những vấn đề cần
giải quyết cho công ty.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm.
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
- Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được vận
dụng như thế nào?
- Thực trạng vận dụng lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm tại công ty cổ phẩn bia Sài Gòn – Hà Nam như thế nào?

- Các kiến nghị hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam là gì?
1.5 Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong năm
2010.
- Không gian nghiên cứu: Điển hình tại Công ty Cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam.
- Phạm vi nội dung: + Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ
kế toán tài chính.
+ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ
kế toán quản trị.
1.6 Phương pháp nghiên cứu
* Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả đã vận dụng phối hợp nhiều phương
pháp khác nhau bao gồm cả định tính và định lượng:
- Các phương pháp nghiên cứu tổng quát bao gồm: Phương pháp nghiên cứu hệ
thống lý thuyết về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới cả hai góc
6
độ, kế toán tài chính và kế toán quản trị, ngoài ra còn sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: Thống kê, khảo sát tình hình thực
tế kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần bia Sài Gòn –
Hà Nam, từ đó phân tích các dữ liệu đã thu thập được để tìm ra câu trả lời cho mục tiêu
nghiên cứu.
* Các dữ liệu thực tế sẽ cần được thu thập gồm: chứng từ, sổ sách kế toán, báo
cáo kế toán liên quan đến hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, các
bảng định mức tiêu hao nguyên vật liệu, dự toán
Ngoài ra các dữ liệu có liên quan đến cơ sở lý luận là phần quan trọng cho việc
đưa ra các giải pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ
phần bia Sài Gòn – Hà Nam cũng cần được thu thập một cách đầy đủ.
* Các nguồn dữ liệu được sử dụng trong luận văn:
- Nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ các tài liệu kế toán, thông tin nội bộ của công

ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam, các công trình khoa học đã thực hiện trước đó, qua
sách, tạp chí kế toán, qua internet
- Nguồn dữ liệu sơ cấp thu thập thông tin dựa trên số liệu đã có sẵn.
1.7 Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
- Trên phương diện lý luận: Luận văn đã tổng hợp hệ thống hóa được cơ sở lý luận
chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp sản
xuất dưới cả hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị.
- Trên phương diện thực tiễn: Luận văn đã nghiên cứu và phân tích thực trạng kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam,
từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm dưới cả hai góc độ kế toán tài chính và kế toán quản trị trong ngành bia nói chung
và tại công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam nói riêng.
1.8 Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Kết cấu của luận văn ngoài phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có bốn chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Chương 3: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ
phần bia Sài Gòn – Hà Nam
7
Chương 4: Thảo luận kết quả nghiên cứu, giải pháp hoàn thiện và kết luận
Kết luận chương 1
Trong chương 1 luận văn giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu, cụ thể giới
thiệu về sự cấp thiết của đề tài, mục tiêu, câu hỏi, phạm vi, phương pháp, ý nghĩa của đề
tài nghiên cứu. Sau khi tiến hành khảo sát tình hình thực tiễn kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần bia Sài Gòn – Hà Nam tác giả đã nhận biết
được một số tồn tại, bất cập cần hoàn thiện tại công ty. Đây là cơ sở để đưa ra một số
biện pháp có tính khả thi, có thể mang lại những thông tin kế toán trung thực và hợp lý
cho bản thân các doanh nghiệp trong ngành bia nói chung và đối với công ty cổ phần bia
Sài Gòn – Hà Nam nói riêng, cũng như đáp ứng được yêu cầu hoàn thiện không ngừng

của hệ thống kế toán Việt Nam.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
2.1 Khái quát chung về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các
doanh nghiệp sản xuất
2.1.1 Khái niệm chi phí sản xuất
8
Chi phí sản xuất kinh doanh được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy
theo mục đích và quan điểm của các nhà khoa học. Khi đưa ra khái niệm về chi phí cũng
được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Mỗi khái niệm đều có một cách nhìn nhận
riêng, song đều quy về những điểm chung nhất trong hoạt động của một tổ chức kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế chính trị thì chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất trong một kỳ nhất định.
Chi phí trong một kỳ nhất định bao gồm toàn bộ phần tài sản hao mòn hoặc tiêu dùng hết
cho quá trình sản xuất kinh doanh trong kỳ và số dư tiêu dùng cho quá trình sản xuất tính
nhập hoặc phân bổ vào chi phí trong kỳ. Ngoài ra còn một số các khoản chi phí phải trả
không phải là chi phí trong kỳ nhưng chưa được tính vào chi phí trong kỳ. Thực chất chi
phí ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đối tượng tính giá
nhất định, nó là vốn của các doanh nghiệp bỏ ra sản xuất kinh doanh.
Theo quan điểm của các nhà quản trị thì chi phí sản xuất kinh doanh đó là sự mất đi của
nguyên vật liệu, tiền công, dịch vụ mua ngoài và các khoản chi phí khác để tạo ra các kết
quả của một tổ chức hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Trong nền kinh tế
thị trường các nhà quản trị thường quan tâm tới nhu cầu khách hàng để sản xuất các sản
phẩm, dịch vụ với chất lượng cao và chi phí thấp, nhằm tối đa hóa các mục tiêu lợi
nhuận.
Dưới góc độ kế toán tài chính, chi phí được coi là những khoản phí tổn phát sinh gắn liền
với hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ hạch toán. Theo kế toán tài chính có
những khoản chi phí phát sinh của kỳ này nhưng không được tính vào chi phí trong kỳ

để xác định kết quả hoặc ngược lại có những khoản chi phí chưa phát sinh của kỳ này
nhưng không được đã được tính vào chi phí trong kỳ để xác định.
Theo quan điểm kế toán quản trị chi phí sản xuất được hiểu là dòng phí tổn thực
tế gắn liền với hoạt động hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định, chi
phí cũng có thể là dòng phí tổn ước tính để thực hiện dự án, những phí tổn mất đi do lựa
chọn phương án, hy sinh cơ hội kinh doanh. Chi phí kinh doanh theo quan điểm của kế
toán quản trị bao giờ cũng mang tính cụ thể nhằm để xem xét hiệu quả của các bộ phận
như thế nào, đó chính là cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư, chọn phương án tối ưu.
Như vậy có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về chi phí, song đều có điểm
chung nhất đó là sự tiêu hao của các yếu tố sản xuất, các nguồn lực tài chính sau một kỳ
hoạt động để tạo ra các kết quả thu về.
9
Vậy chi phí sản xuất kinh doanh đó chính là sự tiêu hao các yếu tố sản xuất, các
nguồn lực trong một tổ chức hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Bản
chất của chi phí đó là sự mất đi của các nguồn lực để đổi lấy kết quả thu về nhằm thỏa
mãn các mục tiêu hoạt động.
2.1.2 Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, mỗi tiêu thức phân loại đều
có ý nghĩa đối với các nhà quản trị trong quá trình kiểm soát các loại chi phí, điều hành
doanh nghiệp. Mặt khác các tiêu thức phân loại chi phí còn có ý nghĩa cung cấp thông tin
cho mọi đối tượng bên ngoài nhằm đạt các mục tiêu khác nhau.
Trong kế toán tài chính, doanh nghiệp sản xuất có hai loại chi phí sản xuất tham
gia vào quá trình sản xuất sản phẩm. Tác dụng của nó là chế tạo ra các sản phẩm khác
nhau. Để quản lý chi phí được chặt chẽ, hạch toán chi phí sản xuất có hệ thống, nâng cao
chất lượng công tác kiểm tra và phân tích các tình hình trong doanh nghiệp thì phải phân
chia, sắp xếp chi phí sản xuất theo các nhóm sau:
− Phân loại chi phí sản xuất theo quan hệ của chi phí với khối lượng công
việc hoàn thành
+ Biến phí (Chi phí biến đổi hay chi phí khả biến): là những khoản mục chi
phí có quan hệ tỉ lệ thuận với biến động về mức độ hoạt động nghĩa là thay đổi về

tổng số khi khối lượng sản phẩm hoàn thành thay đổi. Ví dụ như: chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí khấu hao theo sản lượng, hoa
hồng cho đại lý…
+ Định phí (chi phí cố định hay chi phí bất biến): Là những khoản chi phí
không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. Định phí chỉ giữ nguyên trong phạm
vi phù hợp của doanh nghiệp. Phạm vi phù hợp là phạm vi giữa khối lượng sản
phẩm tối thiểu và khối lượng sản phẩm tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất.
Tuy nhiên, việc chia thành biến phí và định phí chỉ có ý nghĩa khi xét cho tổng khối
lượng công việc hoặc sản phẩm, còn nếu xem xét chi phí bỏ ra cho một đơn vị sản
phẩm thì chúng ta sẽ thu được kết quả ngược lại. Biến phí tính cho một đơn vị sản
phẩm lại mang tính cố định.
Ngoài ra còn có chi phí hỗn hợp là những chi phí mà bản thân nó bao gồm cả
yếu tố biến phí và yếu tố định phí, ví dụ như tiền điện thoại, tiền thuê máy móc thiết
bị…
Cách phân loại này thường được sử dụng trong kế toán quản trị, giữ vai trò chủ yếu
trong việc phân tích điểm hòa vốn và đánh giá được tính hợp lý của các khoản chi
10
phí, từ đó có các biện pháp nâng cao sản lượng, năng suất lao động nhằm tận dụng
tối đa khả năng máy móc thiết bị, hạ giá thành sản phẩm…phục vụ đắc lực cho việc
ra các quyết định quản lý và quyết định lựa chọn phương án kinh doanh.
− Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung tính chất kinh tế của chi phí:
+ Chi phí nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,
nhiên liệu, phụ tùng thay thế…dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, các khoản phải trích
như: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của công nhân viên hoạt
động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản
sử dụng cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp đã chi trả
về các dịch vụ mua ngoài: tiền điện, nước, điện thoại…

+ Chi phí bằng tiền mặt khác: Bao gồm toàn bộ số chi khác ngoài các yếu tố nói
trên.
Tùy vào yêu cầu và trình độ quản lý của mỗi nước, mỗi thời kì mà mức độ chi tiết
của các yếu tố là khác nhau. Việc phân loại chi phí theo tiêu thức yếu tố chi phí tạo
điều kiện thuận lợi cho kế toán trong việc xem xét và quản lý chi phí theo nội dung
kinh tế ban đầu, có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý và lập dự toán về chi phí sản
xuất vì nó cho biết kết cấu, tỉ trọng từng yếu tố chi phí để phân tích, đánh giá tình
hình thực hiện dự toán về chi phí sản xuất theo yếu tố, lập kế hoạch cung ứng vật
tư, quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ sau…Tuy nhiên, cách phân
loại này không cho biết công dụng cụ thể cũng như địa điểm phát sinh chi phí.
− Phân loại chi phí theo khoản mục giá thành
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu sử dụng cho mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm ( không tính vào
khoản mục này những chi phí về nguyên vật liệu sử dụng vào mục đích sản xuất chung
và những hoạt động ngoài sản xuất kinh doanh ).
+ Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương (tiền công) và các khoản
phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, chế toạ sản phẩm
hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ cùng với các khoản trích theo tỷ lệ quy định cho các
quỹ kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (phần tính vào chi phí).
11
+ Chi phí sản xuất chung: là những chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất
chung, bao gồm: Chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí dụng cụ sản xuất, chi phí khấu
hao tài sản cố định, chi phí bằng tiền khác…
+ Chi phí bán hàng gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc
tiêu thụ sản phẩm, hang hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên
quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp
mà không tách được cho bất kỳ hoạt động hay phân xưởng nào.
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này có tác dụng để kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục và là cơ sở phục vụ cho công tác

quản lý chi phí sản xuất theo định mức. Đồng thời là căn cứ để phân tích giá thành, phân
tích hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp theo từng loại sản phẩm khác nhau.
− Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Theo chức năng hoạt động của chi phí trong các tổ chức hoạt động, chi phí chia
thành hai dạng đó là chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
+ Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất đó là các khoản chi phí phát sinh trong phạm vi sản xuất của doanh
nghiệp. Thông thường phạm vi sản xuất các tổ chức hoạt động kinh doanh đó là
phân xưởng, tổ, đội…Chi phí sản xuất có thể được hiểu đó là sự tiêu hao của các
yếu tố sản xuất như lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và các chi phí khác
để tạo ra giá thành của sản phẩm hay dịch vụ trong kỳ. Chi phí sản xuất thường
được chia thành ba khoản mục cơ bản:
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Đó là các khoản chi phí về vật liệu chính,
phụ, nhiên liệu…mà kế toán có thể tập hợp thẳng cho các đối tượng chịu chi phí.
Đặc điểm của chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường mang tính chất biến phí, nó
cấu thành nên thực thể của sản phẩm, chiếm tỷ trọng khá cao trong chỉ tiêu giá
thành sản phẩm. Thông thường chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể định mức
cho một đơn vị sản phẩm vừa là cơ sở xây dựng dự toán, vừa là cơ sở để kiểm soát
chi phí. Tuy nhiên trong thực tế khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp lại phụ
thuộc vào đặc điểm của hoạt động kinh doanh trong từng ngành nghề khác nhau thì
khác nhau. Trong các doanh nghiệp xây dựng cơ bản, sản phẩm là các công trình,
hạng mục công trình do vậy chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là sắt, thép, xi măng,
gạch, cát…Chi phí này thường chiếm tỷ trọng cao trong giá thành của công trình.
Trong các doanh nghiệp may mặc sản phẩm là quần, áo, chi phí nguyên vật liệu trực
12
tiếp là vải, chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất sản
phẩm. Trong các doanh nghiệp du lịch, dịch vụ vui chơi, giải trí chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp lại chiếm tỷ trọng nhỏ trong chỉ tiêu giá thành sản xuất của sản phẩm.
- Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm các khoản tiền lương, phụ cấp và các
khoản trích theo lương, tiền ăn ca…của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm. Đặc

điểm của khoản mục chi phí này thường mang tính chất biến phí, thường xây dựng
định mức cho một đơn vị sản phẩm nhằm góp phần kiểm soát chi phí, xây dựng hệ
thống dự toán chi phí. Các khoản chi phí nhân công trực tiếp kế toán có thể tập hợp
thẳng cho các đối tượng chịu chi phí cũng tương tự như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp. Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp cũng phụ thuộc vào đặc thù của từng
doanh nghiệp, đặc điểm của hoạt động kinh doanh, cơ chế tài chính của các doanh
nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp sản xuất thủ công, sử dụng lao động nhiều
thì cơ cấu chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng đáng kể trong chỉ tiêu giá
thành sản phẩm. Các doanh nghiệp sản xuất theo công nghệ hiện đại, sử dụng lao
động ít thì chi phí nhân công trực tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ trong chỉ tiêu giá thành
sản phẩm.
- Chi phí sản xuất chung đó là các khoản chi phí phục vụ cho các phân
xưởng, tổ, đội trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Trong thực tế
quá trình sản xuất, chi phí sản xuất chung thường bao gồm các yếu tố:
• Chi phí nhân viên phân xưởng, đội sản xuất đó là tiền lương, phụ cấp,
các khoản trích theo lương và chi phí khác phải trả cho các đối tượng
như quản đốc, phó quản đốc phân xưởng, đội trưởng, đội phó các đội
sản xuất, nhân viên kinh tế, thủ kho các phân xưởng và đội sản xuất.
• Chi phí vật liệu phục vụ cho phân xưởng và đội sản xuất. Chi phí này
bao gồm như văn phòng phẩm, các vật liệu khác cần thiết khi sửa
chữa, bảo dưỡng phân xưởng…
• Chi phí công cụ, dụng cụ phục vụ cho phân xưởng và đội sản xuất.
Các khoản chi phí này tùy theo đặc điểm hoạt động của các phân
xưởng và đội sản xuất khác nhau thì khác nhau. Chi phí này có thể
bao gồm như quần áo bảo hộ lao động của công nhân, các dụng cụ
phục vụ công nhân sản xuất như búa, cưa, que hàn…
• Chi phí khấu hao các TSCĐ phục vụ quá trình sản xuất. Trong quá
trình sản xuất ở các phân xưởng hay đội sản xuất thường có nhiều
TSCĐ tham gia quá trình sản xuất như nhà xưởng, máy móc, thiết
13

bị…Mỗi TSCĐ có những đặc điểm khác nhau do vậy việc vận dụng
các phương pháp khấu hao cho các tài sản cũng khác nhau nhằm thu
hồi vốn đầu tư. Thông thường các máy móc có công nghệ biến đổi
nhanh thường áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, các TSCĐ
như nhà xưởng thì thường áp dụng phương pháp khấu hao bình quân.
• Chi phí dịch vụ mua ngoài đó là các khoản tiền điện, nước…phục vụ
cho quá trình sản xuất của các phân xưởng, đội.
• Chi phí khác bao gồm các khoản tiền như tiếp khách phân xưởng,
thiệt hại trong quá trình sản xuất…
Chi phí sản xuất chung bao gồm nhiều yếu tố chi phí, có yếu tố mang tính chất của
chi phí cố định, có yếu tố mang tính chất của chi phí biến đổi, song các yếu tố mang
tính chất cả hai thể hiện chi phí hỗn hợp. Do vậy các nhà quản trị doanh nghiệp
muốn kiểm soát các yếu tố trong khoản mục chi phí này cần phải tách các yếu tố chi
phí thành hai bộ phận định phí và biến phí.
+ Chi phí ngoài sản xuất: chi phí ngoài sản xuất đó là các khoản chi phí phát
sinh ngoài sản xuất của doanh nghiệp. Chi phí ngoài sản xuất thường bao gồm chi
phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chi phí bán hàng đó là chi phí phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hóa sản
phẩm của các tổ chức hoạt động kinh doanh. Chi phí này bao gồm nhiều
yếu tố, mỗi yếu tố chi phí thường khác bao gồm cả phần biến phí và định
phí, do vậy để kiểm soát các khoản mục chi phí cần phải tách biệt từng
yếu tố chi phí thành biến phí và định phí. Trong thực tế chi phí bán hàng
thường bao gồm:
• Chi phí nhân viên bán hàng đó là các khoản tiền lương, tiền thưởng,
phụ cấp, các khoản trích theo lương của các nhân viên bán hàng. Hiện
nay các doanh nghiệp thường xây dựng định mức tiền lương của nhân
viên bán hàng theo mức doanh thu đạt được vừa kiểm soát chi phí vừa
là động lực thúc đẩy tăng doanh thu.
• Chi phí vật liệu phục vụ cho bán hàng thường bao gồm văn phòng
phẩm, bao gói sản phẩm…

• Chi phí công cụ dụng cụ, dụng cụ phục vụ cho bán hàng thường bao
gồm tiền phân bổ các dụng cụ như quầy hàng, tủ hàng, cân, kiểm tra
chất lượng của hàng…
14
• Chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho việc bán hàng như khấu hao cửa
hàng, kho hàng, các phương tiện vận chuyển hàng, siêu thị, biển
quảng cáo…
• Chi phí phục vụ mua ngoài như điện nước, phục vụ quảng cáo, tiếp
thị…
• Các chi phí khác phục vụ cho bán hàng như tiếp khách hàng, hoa
hồng cho khách….
Như vậy chi phí bán hàng bao gồm nhiều yếu tố, song mỗi yếu tố thường thể hiện
chi phí hỗn hợp, tất cả phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hóa từ kho thành phẩm tới
nơi tiêu dùng.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Chi phí quản lý doanh nghiệp đó là các khoản chi phí phục vụ cho bộ máy
điều hành của các tổ chức hoạt động. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều
yếu tố chi phí, mỗi yếu tố cũng thường gồm định phí và biến phí do vậy các nhà
quản trị muốn kiểm soát các yếu tố chi phí cần tách thành hai bộ phận định phí và
biến phí.
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm chi phí nhân viên của bộ máy điều hành, chi
phí vật liệu cho quản lý, chi phí công cụ cho quản lý, chi phí khấu hao các TSCĐ
cho quản lý, chi phí dịch vụ mua ngoài cho quản lý, chi phí khác. Nếu xét theo mối
quan hệ của chi phí với đối tượng chịu chi phí thông thường chi phí ngoài sản xuất
thường được coi là chi phí gián tiếp. Do vậy để xác định chính xác kết quả tiêu thụ,
kết quả kinh doanh của các bộ phận cần phải có các tiêu thức phân bổ chi phí cho
phù hợp.
2.1.3 Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là những giai đoạn tiếp theo trên cơ sở số liệu của hạch
toán chi phí sản xuất đã tập hợp theo từng định hướng và số lượng sản phẩm đã

hoàn thành. Trên cơ sở đó kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện mức hạ giá thành
theo từng sản phẩm và toàn bộ sản phẩm của doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lượng hoạt
động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của các khoản hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm lao
vụ, dịch vụ cho doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
2.1.4 Phân loại giá thành trong doanh nghiệp sản xuất
15
Để giúp cho việc quản lý tốt tình hình giá thành sản phẩm, kế toán cần phải phân
biệt các loại giá thành. Có 2 loại chủ yếu để phân loại giá thành:
- Phân loại theo thời điểm, cơ sơ số liệu tính giá thành sản phẩm sản xuất
chia làm 3 loại:
+ Giá thành kế hoạch: Được xác định trước khi tiến hành sản xuất kinh
doanh dựa vào giá thành kỳ trước và các định mức dự toán chi phí của kế hoạch.
+ Giá thành định mức: Là giá thành được tính trên cơ sở định mức chi phí
hiện hành. Việc tính giá thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành
chế tạo sản phẩm.
+ Giá thành thực tế: Được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất kinh
doanh dựa vào chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh, tập hợp được trong kỳ và số
lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất ra trong kỳ.
- Phân loại theo phạm vi phát sinh, giá thành sản phẩm sản xuất chia làm
2 loại:
+ Giá thành sản xuất: Là toàn bộ hao phí của các yếu tố dùng để tạo ra sản
phẩm dịch vụ trong đó bao gồm các chi phí sản xuất:
Giá thành sản Chi phí sản Chi phí sản Chi phí sản
xuất thực tế = phẩm dở dang + xuất phát sinh - phẩm dở dang
của sản phẩm đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
+ Giá thành toàn bộ: Bao gồm giá thành sản xuất của sản phẩm cộng thêm
chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho sản phẩm đó.

Giá thành Giá thành sản Chi phí Chi phí quản lý
Toàn bộ xuất sản phẩm bán hàng doanh nghiệp
- Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp sản xuất.
Tổng giá thành Chi phí sản Chi phí sản Chi phí sản
Sản xuất = phẩm dở dang + xuất phát sinh - phẩm dở dang
Sản phẩm đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Từ công thức trên ta thấy chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản
phẩm, nhưng không phải là toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được
tính vào giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt
biểu hiện của quá trình sản xuất, là hai khái niệm khác nhau nhưng chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau, giống nhau về chất vì đều là những hao phí về lao động
16
=
+
+
sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình sản xuất sản
phẩm, tuy nhiên chúng cũng có những mặt khác nhau:
+ Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ phát sinh chi phí, còn giá
thành lại gắn liền với khối lượng sản phẩm công việc lao vụ đã hoàn thành.
+ Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan tới những sản phẩm đã hoàn
thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Giá
thành sản phẩm không liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang cuối kỳ
và sản phẩm hỏng nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang
cuối kỳ trước chuyển sang.
+ Tuy khác nhau nhưng nội dung cơ bản của chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm đều là biểu hiện bằng tiền của những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở để tính giá
thành sản phẩm, công việc, lao vụ đã hoàn thành.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, kế toán

cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
+ Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất.
+ Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo đúng đối tượng xác định và
phát triển kế toán tập hợp chi phí thích hợp.
+ Xác định chính xác chi phí và sản phẩm dở dang cuối kỳ.
+ Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng
và phương pháp tính giá thành hợp lý.
+ Phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình
thực hiện giá thành sản phẩm để có kiến nghị đề xuất cho lãnh đạo doanh nghiệp đề
ra các quyết định thích hợp trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển.
2.1.5 Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà chi phí sản xuất
cần tập hợp. Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên, là công
việc cần thiết cho công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Doanh nghiệp chỉ có
thể tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất nếu xác định đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất phù hợp với đặc điểm sản xuất, yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của
doanh nghiệp.
Để xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần căn cứ vào đặc
điểm tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm địa
17
điểm phát sinh chi phí, mục đích, công dụng của chi phí, yêu cầu và trình độ quản
lý của doanh nghiệp. Nói cách khác, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là nơi phát
sinh và nơi chịu chi phí. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là: từng phân
xưởng, bộ phận, đội sản xuất hoặc toàn doanh nghiệp, từng giai đoạn công nghệ
hoặc toàn bộ qui trình công nghệ, từng sản phẩm, đơn đặt hàng, từng nhóm sản
phẩm hoặc bộ phận, chi tiết sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành là một khái niệm dùng để chỉ một khối lượng kết
quả hoàn thành cần phải tính giá thành. Hay đó chính là các sản phẩm, nửa thành
phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải xác định

tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm là
hai khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định
hợp lý đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là điều kiện để tính giá thành theo các đối
tượng tính giá thành trong doanh nghiệp. Trong thực tế, một đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất có thể trùng với một đối tượng tính giá thành. Trong nhiều trường hợp
khác một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất lại bao gồm nhiều đối tượng tính giá
thành sản phẩm. Ngược lại, một đối tượng tính giá thành cũng có thể bao gồm nhiều
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất và đối tượng tính giá thành sẽ quyết định việc lựa chọn phương pháp tính giá
thành và kỹ thuật tính giá thành ở doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sẽ căn cứ trên các cơ sở khác nhau để phân biệt đối tượng tập
hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành ngay cả khi chúng đồng nhất là
một.
- Nếu căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn
hay phức tạp
+ Với sản xuất giản đơn: đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản phẩm hay
toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản
phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng tiến hành trong một quá trình lao
động). Đối tượng tính giá thành ở đây là sản phẩm cuối cùng.
+ Với sản xuất phức tạp: đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là bộ phận, chi
tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng sản xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ
phận sản phẩm,… còn đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối
cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
18
- Nếu căn cứ vào loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản
xuất hàng loạt với khối lượng lớn.
+ Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất nhỏ hàng loạt: đối tượng tập hợp chi phí là các
đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn.
+ Với sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn: phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản

xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể là sản
phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… còn đối tượng tính giá thành có
thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm.
Nếu căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: dựa
trên cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản
xuất và đối tượng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất và tính giá thành ở các góc độ khác nhau, ngược lại nếu trình độ thấp thì đối
tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và
đối tượng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định hướng cho tổ chức
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp.
2.2 Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dưới góc độ kế toán tài
chính
2.2.1 Kế toán chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất
a/ Kế toán chi phí nguyên vật liệu:
* Khái niệm: kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là toàn bộ giá trị của
nguyên liệu, vật liệu chính, phụ, nhiên liệu được xác định dùng cho việc sản xuất,
chế tạo sản phẩm, thực hiện lao vụ, dịch vụ (không bao gồm giá trị nguyên vật liệu
xuất dùng không hết chuyển kỳ sau hoặc phế liệu thu hồi từ việc sử dụng vật liệu
cho sản xuất).
Khi tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kế toán căn cứ vào các phiếu nhập
kho, xuất kho và các hoá đơn chứng từ có liên quan đến nguyên vật liệu để tập hợp
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
* Tài khoản sử dụng:
Để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán sử dụng TK: 621 “
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”, mở chi tiết cho từng đối tượng chịu chi phí (sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ, phân xưởng, bộ phận sản xuất).
- Kết cấu:
19
Bên nợ: + Giá trị thực tế nguyên vật liệu xuất dùng để trực tiếp chế tạo sản phẩm

hoặc thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Bên có: + Giá trị thực tế của nguyên vật liệu không hết nhập lại kho.
+ Kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cuối kỳ sang tài khoản tính
giá thành.
TK: 621 không có số dư.
- Phương pháp kế toán:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
b/ Kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
* Khái niệm: Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản thù lao lao
động (tiền lương, tiền công, phụ cấp mang tính chất tiền lương như phụ cấp khu
vực, làm đêm, ngoài giờ,…) phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất, chế tạo sản
phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Chi phí nhân công trực tiếp sản xuất còn bao
gồm cả các khoản trích cho các quỹ Kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế, theo tỉ lệ tiền lương được tính vào chi phí.
Kế toán căn cứ vào các khoản lương chính, lương phụ của từng công nhân và các
khoản phải trích theo lương( bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ). Để tính lương cho
công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm trong tháng.
* Tài khoản sử dụng.
Để tập hợp và phân bổ chi phí nhân công trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 622 “
Chi phí nhân công trực tiếp”, được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí.
20
TK 154
TK 111, 112, 331
Thuế GTGT
đầu vào
TK 133
Trị giá NVL mua ngoài
dùng trực tiếp vào sản xuất
Trị giá NVL thực tế dùng

trực tiếp sản xuất
Trị giá NVL xuất kho dùng
trực tiếp vào sản xuất
Trị giá NVL còn chưa
sử dụng
TK 152
TK 621
TK 152
- Kết cấu:
Bên nợ: + Chi phí nhân công trực tiếp phát sinh trong kỳ.
Bên có: + Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp sang tài khoản tính
giá thành.
TK: 622 không có số dư.
- Phương pháp kế toán:
Sơ đồ 2.2: Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)


Trích trước tiền lương
nghỉ phép của công nhân
trực tiếp sản suất
c/ Kế toán chi phí sản xuất chung.
- Khái niệm: Chi phí sản xuất chung là toàn bộ những chi phí phát sinh
trong toàn bộ phân xưởng sản xuất, phục vụ cho hoạt động sản xuất sản
phẩm, ngoài các chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp. Chi phí sản xuất chung bao gồm các khoản: chi phí khấu hao tài
sản cố định ở phân xưởng, chi phí tiền lương và các khoản trích theo
21
TK 334
TK 338

TK 622 TK 154
Lương chính, lương phụ,
phụ cấp trả cho CNTT sx
Trích BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN,
theo tiền lương


Kết chuyển CPNCTT
TK 335
lương của bộ phận quản lý phân xưởng, chi phí tiền điện, nước, chi phí
công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài…
Chi phí sản xuất chung là những chi phí phát sinh trên quy mô toàn phân xưởng và
có liên quan tới nhiều đối tượng tính giá thành. Vì vậy để đảm báo tính chính xác và
hợp lý của việc tính giá thành, kế toán cần phân bổ chi phí sản xuất chung cho các
đối tượng tính giá thành theo các tiêu thức phù hợp. Trên thực tế người ta thường
phân bổ chi phí sản xuất chung theo các tiêu thức như định mức, giờ làm việc thực
tế hay tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất.
Kế toán căn cứ vào các hoá đơn chứng từ của các phân xưởng sản xuất về chi phí
khấu hao tài sản cố định, chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài
phục vụ cho quá trình sản xuất để xác định chi phí sản xuất chung.
* Tài khoản sử dụng.
Để tập hợp chi phí sản xuất chung kế toán sử dụng tài khoản:
627 “ Chi phí sản xuất chung”
- Kết cấu:
Bên nợ: + Chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên có: + Các khoản phát sinh giảm chi phí trong kỳ.
+ Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối
tượng chịu chi phí.
TK: 627 Không có số dư và được mở chi tiết cho từng đối tượng theo các yếu tố
chi phí và phản ánh trên các tiểu khoản.

TK6271: Chi phí nhân viên phân xưởng.
TK6272: Chi phí vật liệu.
TK6273: Chi phí dụng cụ sản xuất.
TK6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định.
TK6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài.
TK6278: Chi phí bằng tiền khác
- Phương pháp kế toán:
Sơ đồ 2.3: Kế toán chi phí sản xuất chung
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
22
Chi phí bằng tiền khác
Phân bổ, trích trước các
khoản chi phí sản xuất
Chi phí khấu hao TSCĐ
Phân bổ và kết chuyển chi
phí sản xuất chung
Lương và các khoản trích theo
lương nhân viên phân xưởng
TK 214
TK 152, 153
TK 242, 335
TK 111, 112
TK 154
TK627
TK 334, 338
Chi phí vật liệu, dụng cụ
phục vụ sản xuất
d/ Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất
Cuối kỳ kế toán, sau khi đã tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung theo từng đối tượng trên các TK621, 622,

627 kế toán sẽ tiến hành kết chuyển hoặc phân bổ các loại chi phí này để tập hợp
toàn bộ chi phí sản xuất cho từng đối tượng chịu chi phí, tiến hành kiểm kê và đánh
giá sản phẩm dở dang cuối kỳ, thực hiện tính giá thành các loại sản phẩm, công
việc, lao vụ do doanh nghiệp đã hoàn thành trong kỳ.
* Tài khoản sử dụng:
Kế toán sử dụng TK: 154 “ Chi phí sản xuất dở dang” để tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm sản xuất.
- Kết cấu:
Bên nợ: + Tập hợp các khoản chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
+ Giá trị vật liệu và chi phí thuê ngoài chế biến .
Bên có: + Các khoản giảm giá thành.
+ Trị giá phế liệu thu hồi.
+ Trị giá thực tế sản phẩm hoàn thành trong kỳ.
Dư nợ: + Chi phí sản xuất dở dang.
+ Chi phí thuê ngoài gia công chế biến chưa hoàn thành.
- Phương pháp kế toán:
+ Theo phương pháp kê khai thường xuyên: để tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm hoàn kế toán sử dụng TK154-Chi phí sản xuất kinh doanh
dở dang. 23G TSP23 đã tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, để tính được
giá thành sản phẩm hoàn thành, kế toán doanh nghiệp cần phải tổ chức kiểm kê,
đánh giá khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ theo các phương pháp phù hợp
Kế toán căn cứ vào các sản phẩm dở dang đầu kỳ, cuối kỳ và các sản phẩm
nguyên vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp, sản xuất chung để tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm.
Sơ đồ 2.4: Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất
23
(Theo phương pháp kê khai thường xuyên)
+ Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, việc tổ chức kế toán các khoản mục
chi phí vẫn giống như phương pháp kê khai thường xuyên được hạch toán trên các
tài khoản 621-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; tài khoản 622-Chi phí nhân công

trực tiếp; tài khoản 627-Chi phí sản xuất chung.
Toàn bộ quá trình tổng hợp chi phí sản xuất cuối kỳ, tính giá thành sản phẩm
được thực hiện trên tài khoản 631-Giá thành sản xuất. Tài khoản 154-Chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang, chỉ sử dụng để phản ánh và theo dõi chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang đầu kỳ và cuối kỳ.
Sơ đồ 2.5: Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất
24
TK 621
TK 622
TK 627
TK 154 TK 152
TK 138
TK 155
TK 632
TK 157
Kết chuyển CPNVLTT
Kết chuyển CPNCTT
Kết chuyển CPSXC
Phế liệu thu hồi do
sản phẩm hỏng
Bồi thường phải thu do
sản phẩm hỏng
Giá thành thành phẩm
nhập kho
Giá thành sản phẩm
bán không qua kho
Giá thành sản phẩm
gửi bán
(Theo phương pháp kiểm kê định kỳ)
25

TK154
TK621TK 611
TK 334, 338 TK 622
TK111,
214,152
TK 627
TK 632
Kết chuyển chi phí
SX dở dang đầu kỳ
kết chuyển chi phí
SX dở dang cuối kỳ
Kết chuyển
CPNC trực tiếp
Tập hợp chi phí nhân
công trực tiếp
Tập hợp chi phí
sản xuất chung
KC CPSXC
được phân bổ
KC giá
thành
thực tế sp
sản xuất
hoàn
thành
trong kỳ
Các khoản
làm giảm
giá thành
TK 631

TK154
Tập hợp chi phí NVL
trực tiếp phát sinh
trong kỳ
Kết chuyển chi phí
NVL trực tiếp lúc
cuối kỳ
TK 138, 152

×