Trờng đại học kinh doanh và công nghệ Hà Nội
Khoa triết học và khoa học xã hội
tiểu luận về phơng pháp luận
NN KINH T TRI THC
Họ và tên sinh viên thực hiện :
Lớp : - Mã SV :
Giáo viên hớng dẫn : Trần Ngọc Linh
Hà Nội, 2013
néi dung
nÒn kinh tÕ tri thøc víi sù ph¸t triÓn cña x· héi
Tính cấp thiết của đề tài.
Trong mấy năm gần đây, trên thế giới, người ta bắt đầu nói nhiều về một
hiện tượng kinh tế mới, đó là nền kinh tế tri thức. Và cho đến nay, những cách
hiểu về nền kinh tế tri thức còn rất khác nhau ở từng quốc gia nhưng có một
điểm chung mà hầu hết các ý kiến đều nhất trí là nền kinh tế này là kết quả của
một nền kinh tế thị trường phát triển cao với một Nhà nước pháp quyền đích
thực, của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với trụ cột là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ hàng không vũ trụ.
Từ những năm 80 trở lại đây, do tác động mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, năng
lượng…nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, toàn diện, chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức. Đây là một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử
trọng đại đối với quá trình phát triển của nhân loại.
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua là nền kinh tế nông nghiệp, nền kinh
tế công nghiệp và đang bước vào nền kinh tế tri thức. Khái niệm nền kinh tế tri
thức ra đời từ năm 1995 do Tổ chức OPDC nêu ra" Nền kinh tế tri thức là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức trở thành yếu tố quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống".
Theo định nghĩa của WBi, kinh tế tri thức là: "Nền kinh tế dựa vào tri
thức như động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế. Có người cho rằng: Kinh tế
tri thức là hình thức phát triển cao nhất hiện nay của nền kinh tế hàng hoá, trong
đó công thức cơ bản Tiền - Hàng - Tiền được thay thế bằng Tiền - Tri thức -
Tiền và vai trò quyết định của tri thức.
- 2 -
Vậy kinh tế tri thức là gì? Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra, phổ cập và giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo
ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu
hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát
huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả
các ngành kinh tế: công nghiệp, nông - lâm - ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ
cho phát triển kinh tế.
Cách hiểu nền kinh tế tri thức
KTTT là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri
thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại
hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm
– ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế. Từ đó, nền kinh tế tri
thức được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên
việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở
trình độ cao.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) đưa ra khái niệm năm
1995: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của
cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật,
văn hóa-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc
học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành
nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không
phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc phát
triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản
xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại.
- Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong
- 3 -
các sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động
trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.
Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức.
Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay
vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử
dụng tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành.
Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành
phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân
lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu
thường xuyên đối với mọi người.
- Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức
hóa, làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó
mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế- kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất
trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất yếu
dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội. Nếu như trước đây, lao động
nông nghiệp chủ yếu bằng tay chân tay, thì sau đó lao động sản xuất công
nghiệp, lao động “ cổ xanh” hầu hết là bằng máy móc. Nhưng từ những năm 70
đến nay, do lao động và công nghệ phát triển, đã là xuất hiện một đội ngũ “ công
nhân cổ trắng” và trong cơ cấu giá trị hàng hóa, lao động trí óc đã chiếm tỷ trọng
lớn.
- Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho
năng xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng
loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng
cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…
Sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
- 4 -
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành, có
ảnh hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế,
đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia
đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin sẽ tạo ra một
xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên giới.
Trong nền KTTT, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
lựu lượng sản xuất và các hoạt động kinh tế của mỗi con người, của mỗi quốc
gia đều mang tính toàn cầu.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh
chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức
hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.
Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ
thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì
kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70% GDP phải
được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao; hơn 70% giá
trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công nhân tri thức trong cơ cấu lao
động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người.
Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là
đặc trưng của sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
Nền kinh tế tri thức dựa trên 4 tiêu chí:
1. GDP, trên 70% là do các ngành sản xuất và dịch vụ ứng dụng công
nghệ cao mang lại.
2. Cơ cấu giá trị gia tăng, trên 70 % là kết quả của lao động trí óc,
3. Lao động xã hội, trên 70% lực lượng lao động là lao động trí thức
4. Vốn sản xuất, trên 70% là vốn về con người
Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
- Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 15 năm qua, các nền
- 5 -
kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc về cơ cấu
kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang phát triển nhanh
các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới và công nghệ là chìa
khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng
nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế
tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh
nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản
xuất công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản
xuất được nhất thể hoá, không còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng,
những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản
xuất.
- Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực
và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ
chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Mọi người
đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho
mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông
tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người
gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng.
- Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.
Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì
công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không
muốn bị phá sản.
- Thứ năm là xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ
dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức
điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin
kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến
họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp.
- 6 -
- Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển.
Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất cứ lúc nào, ở
bất cứ đâu. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.
- Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là
nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực khác bị
mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại
tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do đó là một nền kinh tế dư dật chứ
không phải khan hiếm.
- Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất
thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút
ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất,
hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn
trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là
linh hồn của sự đổi mới.
- Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và
sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có
thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng là
quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc
đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại.
- Thứ mười là sự thách thức đối với văn hoá. Do thông tin, tri thức bùng
nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá
phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người dân cũng tăng cao.
Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá có thể tiếp
thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển nền văn hoá của mình. Nhưng mặt
khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất lớn: bị pha tạp, dễ mất bản
sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn công phá hoại, mà rất khó ngăn
chặn.
- 7 -
Vai trò của nền kinh tế tri thức:
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát
triển chưa từng thấy của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày
nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ
thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp
phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới,
năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử
dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc
khai thác các ngường tài nguyên hiện hữu.
- KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu.
TTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng
công nghệ cao ví dụ: Trong nông nghiệp nuôi gà ở Cây Gáo huyện Trảng Bom
tự động…, Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền
kinh tế.
Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng,
cách mạng xanh, cách mạng sinh học…
- Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-kỹ
thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng,
giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương
mại, tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú.
Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh
cao hơn
- 8 -
Ảnh hưởng tới các nước đang phát triển
Gần đây, kinh tế tri thức được bàn luận sôi nổi khắp nơi. Nhiều người rất
hăng hái xem đây là cơ hội nghìn vàng cho đất nước ta nhanh chóng bứt ra khỏi
nghèo nàn lạc hậu. Nhưng cũng có ý kiến cảnh báo rằng đặt cược quá cao vào
kinh tế tri thức có thể làm chúng ta xao lãng những vấn đề cấp bách nhất của
nền kinh tế đang còn quá thấp kém. Có lẽ mỗi ý kiến đều có phần đúng. Cái khó
đầu tiên trong chuyện này là nhận thức vấn đề sao cho khách quan, đúng mức và
thực tế.
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa là bước tất yếu, có những mặt tiêu cực cần
đấu tranh chống lại, nhưng vẫn phải chấp nhận nó, chịu chơi với nó, hơn nữa
tuân thủ các luật chơi mới để tìm cách vươn lên. Mà luật chơi mới là: ganh đua,
cạnh tranh trí tuệ. Nói cách khác, sân chơi mới là kinh tế tri thức.
1. Vì vậy không thể phát triển kinh tế tri thức mà từ chối toàn cầu hóa,
cũng như không thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế toàn cầu hóa nếu không mở
được cánh cửa vào kinh tế tri thức. Những diễn biến gần đây cho thấy ta hội
nhập quốc tế mà không theo kịp họ trong kinh tế tri thức thì sẽ thua thiệt.
2. Vì là sự vật lộn trí tuệ nên cần có quyết tâm, dũng cảm, nhưng đầu óc
và tài năng mới thật sự quan trọng. Phải thực hiện cuộc cách mạng tư duy, thay
đổi hẳn cách nghĩ trong hàng loạt vấn đề đời sống kinh tế, xã hội cũng như khoa
học, công nghệ, văn hóa, giáo dục.
Toàn cầu hóa chỉ mới biểu hiện tính hệ thống của thế giới trên phương
diện kinh tế, thương mại. Còn có những biểu hiện khác của tính hệ thống của thế
giới, nhất là trong quan hệ thiên nhiên - con người mà ta phải chú ý để đối phó
kịp thời trong thời đại kinh tế tri thức.
3. Trong bối cảnh vừa có sáng có tối, có thuận có nghịch đó ta cần làm gì,
cần có những cải cách gì, để mở đường cho xã hội Việt Nam gỡ lại sự chậm trễ
thời gian qua, nhanh chóng tiến kịp thế giới trong kỷ nguyên trí tuệ?
4. Trong cơ chế quản lý thì bộ phận lạc hậu cần cải cách nhất là quản lý
- 9 -
tài chính, tiền tệ và quản lý hành chính. Tài chính tiền tệ là lĩnh vực nhạy cảm
nhất trong kinh tế thời nay, còn hành chính là bộ máy trực tiếp hàng ngày với
người dân. Riêng đối với chúng ta, có hai căn bệnh kinh niên trầm trọng, mà nếu
không khắc phục được thì có bàn tới kinh tế tri thức cũng vô ích:
5. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa
và kinh tế tri thức phải bắt đầu từ việc nâng cao sức cạnh tranh ở các lĩnh vực
công nghiệp thấp và vừa của nông, công nghiệp truyền thống. Tình trạng hiện
nay là ngay trong các lĩnh vực này, năng suất lao động của ta quá thấp, không đủ
sức cạnh tranh với các nước vì làm ăn kém thông minh, thể hiện ở sự thiếu tính
toán hiệu quả, không có tư duy so sánh (mía đường, xi-măng là thí dụ). Ta băn
khoăn cân nhắc giữa tư nhân hay Nhà nước, tập thể hay cá nhân, mà không thấy
điều quan trọng hơn là phân phối của cải làm ra sao cho công bằng để kích thích
được kinh tế phát triển lành mạnh.
6. Phát triển kinh tế tri thức hiển nhiên đòi hỏi phải xây dựng kết cấu hạ
tầng thích hợp. Tuy nhiên, đi đôi với kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật sờ mó
được, và hơn nữa có tiền là xây dựng được, phải hết sức chú trọng kết cấu hạ
tầng tâm lý xã hội, trước hết là giáo dục và khoa học, là những thứ mà chỉ có
tiền thôi cũng chưa đủ để xây dựng tốt.
Đối với Việt Nam
1/Quá trình phát triển của kinh tế tri thức
- Từ những thập niên 60 của thế kỷ 20, kinh tế tri thức đã manh nha xuất
hiện trong đời sống kinh tế - xã hội ở Hoa Kỳ.
- Năm 1962, lần đầu tiên khái niệm kinh tế kiến thức ra đời trong một
công trình nghiên cứu của Fritz Machlup với nhan đề: Sản xuất và phân phối
kiến thức ở Hoa Kỳ.
- Những năm 1970, nổi lên khái niệm kinh tế thông tin trong một công
trình của Marc Porat khi nghiên cứu về việc phát triển của các khu vực kinh tế ở
Mỹ từ giữa thế kỷ 19 đến năm 1970.
- 10 -
- Đến năm 1990, xu hướng bắt đầu thống nhất kể từ khi Tổ chức nghiên
cứu của Liên Hợp Quốc đưa ra khái niệm kinh tế tri thức trên cơ sở xác định
tính chất của loại hình kinh tế này.
- Sáu năm sau - năm 1996- Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
điều chỉnh lại với tên gọi sát hợp hơn: Kinh tế dựa trên tri thức.
2/ Việt Nam và nền kinh tế tri thức
1/ Tác động của nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam
a/ Tác động của nền kinh tế tri thức đối với Khoa học công nghệ:
- Trước xu hướng phát triển kinh tế tri thức, khoa học công nghệ từng
bước trở thành lực lượng lao động quan trọng và trực tiếp. Sự biến đổi vị thế của
khoa học công nghệ đã làm cho nhóm ngành này có những bước phát triển vượt
trội cả về số lượng và chất lượng. Đáng chú ý nhất là ngành Công nghệ thông tin
và Công nghệ sinh học.
- Hiện nay, không ai phủ nhận sự phát triển nhanh, mạnh của ngành Công
nghệ thông tin, ngành này trực tiếp len lõi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
đồng thời nó còn là đòn bẩy giúp các ngành khoa học khác phát triển. Cũng như
nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam có sự đầu tư đáng kể cho ngành khoa học
có thể mang lại lợi nhuận khổng lồ này.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin được tiến hành trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống, mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp đất nước, nối với hần
hết các tổ chức và gia đình.
- Các sản phẩm phần mềm mang thương hiệu Việt đã và đang xuất hện
trên thị trường như một sản phẩm hàng hóa bên cạnh những sản phẩm vật chất
truyền thống. [dẫn chứng: máy rút tiền ATM do TS. Đỗ Đức Cường phát minh,
hiện nay có khoảng 5000 máy ATM trên khắp cả nước]
- Sự phát triển của Công nghệ sinh học tạo tiền đề cho Y học phát triển
mạnh. Đến nay, Việt Nam đã hình thành ngành công nghiệp sản xuất vắc xin
phục vụ nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu. Gần đây, các nhà khoa học
- 11 -
đã thành công trong việc nghiên cứu, làm chủ công nghệ và tạo ra quy trình sản
xuất vaccine viêm gan B thế hệ mới dựa trên công nghệ ADN (vaccine tái tổ
hợp)
b/ Tác động của nền kinh tế tri thức đối với cơ cấu kinh tế - xã hội
Sự xuất hiện các xí nghiệp sản xuất được tự động hóa cao độ và rất linh
hoạt, do tác động đồng bộ của tiến bộ khoa học trong hàng loạt lĩnh vực, mà đặc
biệt là trong Công nghệ kỹ thuật tin học và truyền thông.
Bên cạnh ứng dụng các thành tựu công nghệ cao trong công nghiệp,
ngành nông nghiệp ở nước ta cũng đang dần cải tiến và hoàn thiện, sử dụng
nhiều hơn các thiết bị hiện đại trong quá trình tạo ra sản phẩm nông nghiệp. Bên
cạnh đó, ngày càng có nhiều nông dân đã tự tìm tòi và chế tạo ra các máy móc
phục vụ sản xuất, lai tạo thành công nhiều giống cây trồng cho năng suất cao.
2/ Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam
a/ Thuận lợi
- Qua 20 năm đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập
vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, tốc
độ tăng trưởng thuộc loại cao nhất trên thế giới, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; là nước có thành tích giảm nghèo được thế giới khen ngợi;
đời sống nhân dân nâng cao rõ rệt.
- Bên cạnh đó, nước ta còn có nguồn lực bên trong:
+ Điều kiện chính trị xã hội ổn định
+ Nguồn nhân lực dồi dào giá rẻ
+ Lực lượng tri thức Việt Nam ngày càng phát triển mạnh
+ Chính sách thu hút đầu tư của Đảng và Nhà nước
- Nguồn lực bên ngoài:
+ Việt Nam gia nhập vào các tổ chức khu vực, thế giới: WTO, Liên Hợp
Quốc.
+ Sự hợp, tác đầu tư từ các nước phát triển
- 12 -
+ Tác động của xu thế toàn cầu hóa
b/ Khó khăn
- Qua 20 năm đổi mới, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và tính cạnh
tranh của nền kinh tế còn rất thấp, còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không
bền vững, và đặc biệt là đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác,
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chuyển tiếp từ xã hội công nghiệp sang
xã hội thông tin và tri thức.
- Cơ cấu kinh tế vẫn còn nặng về nông nghiệp và khai thác tài nguyên
- Giá trị xuất khẩu tuy khá cao, nhưng hiệu quả thấp.
- Hạn chế chuyển giao công nghệ do lạc hậu về nhận thức; khó khăn về
vốn; thiếu kinh nghiệm lựa chọn, mua bán công nghệ. Tỷ lệ đổi mới máy móc
thiết bị của VN hằng năm chỉ đạt 8-10%, trong khi ở các nước trong khu vực thì
tỷ lệ này đạt 15-20%.
=> Khái quát lại, nền kinh tế VN đang còn là nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tài nguyên và lao động.
3/ Phương hướng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Có 3 nhân tố cơ bản quyết định sự hình thành nền kinh tế tri thức:
a/ Nhân lực
- Yếu tố quyết định của mọi nền kinh tế là nguồn nhân lực, đặc biệt trong
nền kinh tế tri thức phụ thuộc hoàn toàn vào người có tri thức, có trình độ cao
- Nước ta có dân số động, lực lượng lao động dồi dào, tuy nhiên còn yếu
về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do đó, để xây dựng đội ngũ trí thức, đề án
“Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gần với đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế” của Hội nghị
trung ương 7 đã đưa ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức:
+ Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.
+ Xây dựng, thực hện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức
+ Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức
- 13 -
+ Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt
động các hội của trí thức
+ Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí
thức
b/ Phát triển và đổi mới công nghệ kỹ thuật
- Với tình hình của nước ta hiện nay thì phương pháp hiệu quả nhất là dựa
vào nguồn lực nước ngoài thông qua nhập công nghệ, hợp tác với nước ngoài,
thực sự mở cửa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Các biện pháp lâu dài:
+ Phát huy sức sáng tạo trong khoa học: chính sách đãi ngộ, tạo điều kiện
cho cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.
+ Các chính sách khuyến khích ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ,
cơ chế quản lý kinh tế
+ Tăng đầu tư cho khoa học công nghệ
+ Phát triển các khu công nghệ cao
c/ Tạo lập cơ sở hạ tầng
- Xây dựng một cơ sở vật chất đầy đủ, bền vững, đặc biệt là hạ tầng thông
tin.
- Cần ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm: luật CNTT,
các quy định về chứng thực điện tử, giao dịch điện tử, thanh toán qua mạng.
Thực thi nghiêm chỉnh luật sở hữu trí tuệ, có chính sách bảo hộ thương hiệu các
sản phẩm công nghệ thông tin Việt Nam
- Nhà nước cần có những cải cách về hành chính, tạo lập một hành lang
pháp lý thông thoáng, an toàn, thiết lập một cơ chế ổn định, minh bạch để tạo
một cơ sở cho sự cạnh tranh bình đẳng lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
- 14 -
KÕT BµI
Thay lời kết:
Trong cuộc hội thảo Những vấn đề trong tương lai của trật tự Kinh tế thế
giới" do trường Đại học tổng hợp Tự Do và trường Đại học tổng hợp Humboldt
tổ chức hồi tháng 5.2000 tại Berlin, sau khi kết thúc chương trình nghị sự chính
thức, đại biểu một nước Nam Âu đề nghị hội nghị bàn về những biện pháp giúp
đỡ các nước đang phát triển xây dựng KTTT. Đại diện Trung Quốc xin phát
biểu. Ông nói rất ngắn - đại ý: Chúng tôi sẽ không bao giờ quên bài học của
chiến lược Đại nhẩy vọt". Sau đó, hội nghị đã không bàn tiếp về đề nghị của
nước Nam Âu kia nữa.
Ước mơ sao phải đợi!
- 15 -
Bµi tiÓu luËn nµy lµ do chÝnh b¶n th©n em t×m kiÕm tµi liÖu, suy nghÜ vµ tù
viÕt ra.
Em kh«ng sao chÐp mét nguån kh¸c, kh«ng sao ch¸p tiÓu luËn cña b¹n
kh¸c, kh«ng nhê viÕt hé, kh«ng thuª viÕt hé.
- 16 -