Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu các khu công nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.47 KB, 58 trang )


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Ngành công nghiệp có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển nền kinh
tế quốc dân, đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa của các nƣớc
đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Công nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền quốc dân, đóng góp tích cực
vào sự tăng trƣởng kinh tế trong nƣớc; thúc đẩy nông nghiệp và dịch vụ phát
triển theo hƣớng công nghiệp hóa hiện đại hóa; góp phần đắc lực vào việc thay
đổi phƣơng pháp tổ chức, phƣơng pháp quản lí sản xuất và nâng cao hiệu kinh tế
xã hội; tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
làm thay đổi sự phân công lao động và giảm mức chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng. Công nghiệp có khả năng tạo ra nhiều sản phẩm mới mà
không ngành sản xuất vật chất nào sánh đƣợc, đồng thời góp phần vào việc mở
rộng sản xuất, thị trƣờng và giải quyết tốt vấn đề việc làm cho lao động, góp
phần tích lũy nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và giải quyết các vấn đề
môi trƣờng.
Trong nghị định 192/CP ngày 25/12/1994, đã nêu khái niệm về khu công
nghiệp ở Việt Nam nhƣ sau: “Khu công nghiệp do Chính phủ quyết định thành
lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cƣ sinh sống”.
Trong những năm qua, các khu công nghiệp Việt Nam đã phát triển mạnh,
đóng góp nhất định vào tăng trƣởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hƣớng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc. Nhiều nhà nghiên cứu
đã quan tâm đến việc phát triển và nâng cao các khu công nghiệp ở Việt Nam.
Để hiểu biết hơn về sự phát triển công nghiệp nói chung và các khu công
nghiệp nói riêng, phục vụ cho việc nghiên việc nghiên cứu và dạy học Địa lý ở
trƣờng Phổ thông sau này tôi đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Nghiên cứu các
khu công nghiệp ở Việt Nam”.




2

2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận về tổ chức lãnh thổ, tổ chức lãnh thổ công
nghiệp ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu về các khu công nghiệp ở Việt Nam, về
thực trạng phát triển và sự phân bố các khu công nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện đƣợc mục tiêu đặt ra, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, đồng thời đánh giá các nguồn lực trong nƣớc
nhằm phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam.
- Nghiên cứu những thành tựu và hạn chế của các khu công nghiệp Việt
Nam.
2.3. Giới hạn nghiên cứu đề tài
Về nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sự hình thành, phát triển và
phân bố các khu công nghiệp ở Việt Nam. Đánh giá các nguồn lực bên trong và
bên ngoài nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó. Phân tích, đánh giá
những thành tựu và hạn chế các khu công nghiệp.
Về thời gian: Nghiên cứu sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp
Việt Nam, từ năm 1990 đến 2012.
Về không gian: Nghiên cứu các khu công nghiệp, đến các vùng, thành
phố ở Việt Nam
3. Các phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập và xử lí thông tin
Đây là phƣơng pháp quan trọng và xuyên suốt trong quá trình thực hiện
khóa luận. Những thông tin, các nguồn tài liệu cho phép chúng ta hiểu biết
những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực này. Việc phân tích, phân loại và tổng
hợp các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu sẽ giúp ta dễ dàng phát hiện

ra những vấn đề trọng tâm cũng nhƣ những vấn đề còn bỏ ngỏ. Trên cơ sở
những tài liệu phong phú đó, việc tổng hợp sẽ giúp chúng ta có một tƣ liệu toàn
diện, khái quát về vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt hiện nay, công nghệ thông tin

3
phát triển mạnh, việc khai thác các nguồn tài liệu quan trọng qua Internet sẽ là
nguồn tƣ liệu quý hỗ trợ cho việc tổng hợp các vấn đề nghiên cứu.
3.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê
Phƣơng pháp phân tích thống kê đƣợc sử dụng để mô tả những đặc tính
cơ bản của dữ liệu, thông qua thu thập và xử lí số liệu từ thực tiễn hay qua tài
liệu tham khảo khác, nhằm chứng minh rõ ràng hơn sự phát triển của khu công
nghiệp.
Các số liệu thống kê kinh tế có ý nghĩa nhất định trong việc thể hiện khai
thác tri thức, thông qua đó số liệu thống kê giải trình nhiều vấn đề quan trọng, có
thể so sánh, đối chiếu các số liệu, thể hiện mức tăng trƣởng, trình độ phát triển
của các khu công nghiệp ở Việt Nam.
4. Những đóng góp của khóa luận
Khóa luận hoàn thành sẽ có một số đóng góp cơ bản sau đây:
- Tổng quan và chọn lọc những vấn đề lí luận về khu công nghiệp.
- Điều tra, khảo sát và bƣớc đầu đánh giá thực trạng phát triển và phân bố
các khu công nghiệp ở Việt Nam.
5. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm có 2 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam;
Chƣơng 2. Thực trạng phát triển và phân bố các khu công nghiệp ở Việt
Nam.











4

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ
CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

1.1 Khái niệm về tổ chức lãnh thổ và tổ chức lãnh thổ công nghiệp
1.1.1. Một số khái niệm về tổ chức lãnh thổ
Có nhiều quan niệm khác nhau về tổ chức lãnh thổ nhƣ khu vị luận công
nghiệp của A. Weber, Lý thuyết điểm trung tâm của W. Christaller, Lý thuyết
cực tăng trƣởng của Francoi Perroux…mỗi quan niệm có những lý giải riêng,
phân tích riêng dƣới đây là một số quan niệm về tổ chức lãnh thổ:
- Khu vị luận công nghiệp của A. weber:
Khu vị luận công nghiệp giải thích sự tập trung công nghiệp vào một lãnh
thổ nào đó là do 3 nguyên nhân chủ yếu: chi phí vận tải rẻ nhất (nguyên nhân
chính), chi phí nhân công thấp nhất và là nơi có xí nghiệp tập trung để có thể sử
dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền. Trên cơ sở xác định nguyên tắc “cực tiểu
hóa chi phí, cực đại hóa lợi nhuận”, A.weber đƣa ra mô hình không gian về phân
bố công nghiệp.
Tƣ tƣởng chủ đạo của A.weber coi thành phố là những nút hay trọng điểm
của lãnh thổ. Sức lan tỏa ảnh hƣởng của nó rất lớn. Xung quanh thành phố (nút)
là các vành đai với chức năng khác nhau, nhƣng đều phục vụ cho một trung tâm.
Lý thuyết này, tất nhiên, chỉ phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa chƣa phát triển mạnh. Nó có ý nghĩa trong việc xác
định vai trò của trung tâm ở những khu vực có nền kinh tế còn chậm phát triển.

- Lý thuyết điểm trung tâm của W. Christaller
Vào đầu những năm 30 của thế kỉ XX, hầu nhƣ cùng một lúc đã xuất hiện
các công trình của W. Christaller và A. Loesch. Đƣợc hoàn thiện trên những ý
tƣởng và mô hình của G. Thunen và A. Weber, W. Christaller đã có đóng góp to
lớn vào việc tìm ra tính quy luật phát triển của toàn bộ hoạt động sản xuất vật
chất và phi sản xuất theo không gian.

5
Từ công trình đƣợc công bố vào năm 1933, W. Christaller cho rằng không
có khu vực nông thôn nào lại không chịu sự tác động của một thành phố với tƣ
cách nhƣ cực hút. Sự thay đổi của chi phí dành cho kết cấu hạ tầng phụ thuộc
vào vấn đề đô thị hóa. Nhƣ vậy, chi phí kết cấu hạ tầng sẽ tăng lên cùng với quá
trình đô thị hóa và ảnh hƣởng đến chi phí đầu tƣ cho quy hoạch lãnh thổ. Thành
phố là trung tâm đối với tất cả các điểm dân cƣ còn lại của vùng. Các trung tâm
tồn tại theo nhiều cấp, từ thấp đến cao. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa
chọn hàng hóa và dịch vụ đối với các trung tâm cấp thấp hơn, khả năng này
cũng bị hạn chế hơn. Ông cho rằng, thành phố có vai trò nhƣ những cực phát
triển và là hạt nhân cho sự phát triển. Nó trở thành đối tƣợng để đầu tƣ, trên cơ
sở sức hút và mức độ ảnh hƣởng đến các vùng xung quanh, thông qua bán kính
vùng tiêu thụ sản phẩm. Thị trƣờng đƣợc xác định trong giới hạn về bán kính
của vùng tiêu thụ. Ngoài giới hạn này, việc tiêu thụ sản phẩm sẽ không có hiệu
quả kinh tế.
Lý thuyết trung tâm của W. Christaller đã đƣợc A. Loesch hƣởng ứng và
phát triển. Theo A. Loesch, có một điểm trung tâm quan trọng nhất là thành phố,
đầu mối của toàn bộ hệ thống các điểm dân cƣ. Vai trò thƣơng mại và dịch vụ
của nó tác động mạnh mẽ đến các khu vực lân cận chịu ảnh hƣởng của thành
phố.
Đóng góp chủ yếu của W. Christaller và A. Loesch là ở sự khám phá ra quy
luật phân bố không gian của các điểm dân cƣ, phát hiện ra một trật tự trong sự
phân bố giữa các thành phố và nông thôn.

Đây là cơ sở mở đƣờng cho việc nghiên cứu các hệ thống không gian hoặc
xác định các nút trọng điểm trong một lãnh thổ nhất định.
- Lý thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux
Lý thuyết cực tăng trƣởng (hay lựa chọn các lãnh thổ trọng điểm) của nhà
kinh tế học ngƣời pháp Francoi Perroux đƣợc đƣa ra vào đầu thập kỷ 50 của thế
kỉ XX. Theo thuyết này, trong một vùng không thể phát triển kinh tế đồng đều ở
tất cả các điểm trên lãnh thổ vào cùng một thời gian. Xu hƣớng chung là có một
hoặc một vài điểm phát triển mạnh nhất, trong khi đó các điểm khác lại chậm

6
phát triển hay bị trì trệ. Tất nhiên, các điểm phát triển nhanh là các điểm có lợi
thế so với toàn vùng. Nhƣ vậy, lý thuyết cực phát triển chú ý đến những thay đổi
trong phạm vi một khu vực của lãnh thổ làm phát sinh sự tăng trƣởng kinh tế.
Sau F. Perroux, lý thuyết này đƣợc một số nhà khoa học hoàn thiện trên cơ
sở nhấn mạnh vai trò của công nghiệp và dịch vụ đối với việc tăng trƣởng kinh
tế của vùng.
Gắn với điểm phát triển mang tính chất động lực cho toàn vùng là một công
nghiệp mũi nhọn, dựa vào lợi thế so sánh của mình so với các điểm khác. Nền
kinh tế của lãnh thổ có ngành công nghiệp đó phát triển mạnh, với tốc độ tăng
trƣởng nhanh. Nguyên nhân là do số lƣợng việc làm nhiều hơn, sức mua tăng
lên và có khả năng thu hút một số ngành công nghiệp và dịch vụ mới.
Sự chênh lệch về tăng trƣởng kinh tế trong vùng có cả ý nghĩa tích cực và
tiêu cực. Đối với lãnh thổ tụt hậu, có một số ảnh hƣởng tiêu cực do sự khác nhau
về mức độ tăng trƣởng kinh tế. Các ngành công nghiệp ở lãnh thổ này có thể bị
các ngành công nghiệp mũi nhọn ở lãnh thổ trọng điểm lấn át, cạnh tranh.
Cạnh tranh là nhân tố chủ yếu dẫn đến sự phân hóa trong vùng. Sự tăng
trƣởng của nền kinh tế diễn ra theo hình sin. Thông qua việc đổi mới quy trình
công nghệ, kỹ thuật và hàng loạt yếu tố khác, một số ngành phát triển với tốc độ
nhanh và đƣợc đầu tƣ lớn. Các ngành này tạo thành cực phát triển mang tính
chất khu vực có tác dụng thu hút các ngành kinh tế khác. Ở mức độ nhất định, sự

liên kết của chúng là cơ sở quan trọng chi phối đầu vào, đầu ra của các ngành
trong vùng. Quy mô và cƣờng độ của sự liên kết giữa các ngành là một trong
những đặc trƣng của cực tăng trƣởng.
Lý thuyết cực tăng trƣởng đƣợc áp dụng tƣơng đối rộng rãi ở Châu Á, nhất
là ở các nƣớc ASEAN. Nhiều kinh nghiệm đã đƣợc tích lũy và có giá trị đối với
các quốc gia cần huy động vốn đầu tƣ từ nƣớc ngoài.
- Lý thuyết cơ sở xuất khẩu
Theo thuyết này, chỉ có các hàng hóa sản xuất phục vụ cho thị trƣờng bên
ngoài (tức là hàng xuất khẩu) mới đƣợc coi là cơ sở để phát triển kinh tế cho
một vùng. Các hoạt động kinh tế nhƣ vậy tác động đến nhịp độ tăng trƣởng việc

7
làm và thu nhập. Từ đó, nền kinh tế trong một vùng đƣợc chia thành các ngành
cơ bản và các ngành không cơ bản.
Lý thuyết cơ sở xuất khẩu phát triển ở Hoa Kỳ từ trƣớc năm 1950. Lúc đầu,
nó chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế của những trung tâm buôn bán
và về sau đƣợc nâng lên thành mô hình phổ biến cho các nƣớc đang phát triển.
Tƣ tƣởng chủ đạo của mô hình cơ sở xuất khẩu là ở chỗ đối với các vùng
kém phát triển cần phải tìm ra khả năng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế bằng việc
hƣớng ngoại. Nhân tố quan trọng đối với cực tăng trƣởng của vùng là những
thúc đẩy xuất phát từ đòi hỏi ở bên ngoài. Lợi nhuận có đƣợc nhờ lĩnh vực xuất
khẩu là điều kiện cần và đủ để khuyến khích nhu cầu gia tăng thị trƣờng nội địa.
Một số mô hình kinh tế hƣớng vào xuất khẩu đã đƣợc thực hiện thành công ở
Đài Loan, Hàn Quốc, Singapo…
Một dạng khác của lý thuyết này là lý thuyết về sự phụ thuộc mà sau này
trở thành cơ sở lý luận cho chiến lƣợc phát triển hƣớng vào xuất khẩu của nhiều
quốc gia. Nó đƣợc hình thành từ cuộc tranh luận của các nhà kinh tế học ở Mỹ
La Tinh khoảng giữa những năm 50 của thế kỷ XX.
Theo thuyết này, trong điều kiện thế giới có sự phụ thuộc lẫn nhau thì các
nƣớc đang phát triển chỉ có thể phát triển đƣợc bằng cách dựa vào nguồn vốn và

công nghệ tiên tiến của các nƣớc phát triển. Thế mạnh của các nƣớc đang phát
triển là nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, lực lƣợng lao động
dồi dào và rẻ. Hạn chế chính là thiếu vốn và công nghệ hiện đại, năng lực quản
lý kém, thị trƣờng tiêu thụ nhỏ.
Trong quá trình thực hiện mô hình hƣớng vào xuất khẩu, bên cạnh những
thành công, thực tiễn chỉ ra rằng cái giá phải trả cũng không nhỏ. Đó là sự phụ
thuộc chặt chẽ vào bên ngoài, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng về ngành
và lãnh thổ, các tầng lớp nhân dân bị phân hóa giàu- nghèo rõ rệt…
- Mô hình phát triển hình chuông của Alonso
Khi nghiên cứu việc phát triển kinh tế, Alonso đã đƣa ra mô hình phát
triển hình chuông để biểu diễn sự thay đổi nhịp độ tăng trƣởng kinh tế. Theo mô
hình này, tại một điểm nào đó trong quá trình phát triển, sự tăng trƣởng đạt tới

8
điểm cong giới hạn, sự tập trung hóa về mặt địa lý đạt tới đỉnh cao nhất và sau
đó bắt đầu đổi chiều. Đô thị hóa lan rộng từ một vài trung tâm lớn ra xung
quanh. Các cơ hội phát triển mới đƣợc xuất hiện ở nhiều nơi trƣớc đây đƣợc coi
là chậm phát triển.
Mô hình đƣờng cong hình chuông có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu sự
thay đổi kinh tế theo không gian ở một quốc gia cũng nhƣ trong quá trình lựa
chọn cơ cấu lãnh thổ theo hƣớng phát triển có trọng điểm.
- Lý thuyết ba khu vực của Jean Fourastier
Trên cơ sở tài liệu về sự thay đổi trong cơ cấu lao động của các nƣớc
Tây Âu khi trải qua giai đoạn đô thị hóa, J. Fourastier đƣa ra lý thuyết ba khu
vực hoạt động kinh tế. Theo ông, tất cả các hoạt động của xã hội đƣợc chia
thành 3 khu vực chủ yếu :
Khu vực I bao gồm các hoạt động khai thác trực tiếp nguồn tài nguyên
thiên nhiên sẵn có nhƣ đất, rừng, biển, khoáng sản… Trong số đó, nông nghiệp
là hoạt động chủ đạo và ở vào thời kỳ đầu của tất cả các cộng đồng khi mới hình
thành. Nhƣ vậy, trong thời kỳ đầu, hầu hết lao động của xã hội hoạt động trong

khu vực I.
Tổ chức xã hội của cộng đồng ngày càng phát triển, nhu cầu của con
ngƣời ngày càng cao và đa dạng. Dựa vào những thành tựu của cuộc cách mạng
kỹ thuật, con ngƣời đã chế biến những sản phẩm khai thác từ thiên nhiên (khu
vực I), hoặc tạo ra những sản phẩm mới không có trong tự nhiên. Phần đông lực
lƣợng lao động chuyển từ khu vực I sang khu vực II (công nghiệp).
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về dịch vụ nói chung ngày
càng lớn và không ngừng gia tăng về khối lƣợng cũng nhƣ về loại hình. Đó là
các dịch vụ thƣơng mại, vui chơi giải trí, du lịch nghỉ dƣỡng, ngân hàng, tài
chính, thuế quan… Đội ngũ cán bộ phục vụ trong lĩnh vực dịch vụ ngày càng
tăng lên. J. Fourastier xếp các loại hoạt động nói trên vào lao động khu vực III
và gọi chung là lao động dịch vụ.
Lý thuyết ba khu vực hoạt động có giá trị nhất định. Để đánh giá trình độ
phát triển của một nƣớc, có thể xem xét tỉ lệ lao động giữa 3 khu vực. 3 khu vực

9
hoạt động kinh tế, về đại thể trùng với 3 thời kỳ phát triển của nền (văn minh
nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp). Lý thuyết
này có liên quan đến việc xác định các ngành chủ đạo trong tổ chức lãnh thổ.
- Các lý thuyết thuộc trường phái địa lý Xô Viết
Trong trƣờng phái địa lý Xô Viết, đáng lƣu ý là lý thuyết chu trình sản
xuất năng lƣợng của N.N. Colaxopxki đƣợc đề ra năm 1947. Kế thừa tƣ tƣởng
này nhiều nhà địa lý Xô viết đã bổ sung, hoàn thiện và đƣa ra 14 chu trình sản
xuất năng lƣợng (EPS) bao gồm: EPS kim loại đen, EPS kim loại màu, EPS
nhiên liệu cứng (than, đá, dầu), EPS hóa học quặng mỏ, EPS hóa học kim loại
hiếm, EPS công nghiệp dầu khí, EPS silicat, EPS kỹ thuật thủy lợi, EPS sử dụng
nhiệt năng dƣới sâu, EPS công nghiệp gỗ, EPS nông –công nghiệp, EPS đại
dƣơng, EPS công nghiệp chế biến và EPS sinh hóa.
Các kiểu EPS đƣợc hình thành trên cơ sở tài nguyên thiên nhiên khác
nhau và tạo ra hàng loạt sản phẩm không giống nhau. Những kết hợp EPS ra đời

mang tính quy luật và tạo nên một tổ chức lãnh thổ hiện thực của nền sản xuất
xã hội trong mối tác động qua lại với những hình thái cụ thể của thiên nhiên.
1.1.2. Một số khái niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa không phải là một quá trình đơn chiếc.
Đi kèm theo nó, thậm chí có khi đi trƣớc, là quá trình đô thị hóa. Hai quá trình
này bổ sung cho nhau, phụ thuộc lẫn nhau, góp phần quan trọng tạo nên bộ mặt
của nền kinh tế. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc, tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói
riêng có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của
nền sản xuất xã hội theo lãnh thổ. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học.
Nhƣ trên đã trình bày, khi nghiên cứu địa lý kinh tế nƣớc Pháp,
F.Perroux đƣa ra khái niệm các cực tăng trƣởng và chú trọng đến vai trò của
công nghiệp. W. Christaller, nhà khoa học ngƣời Đức với lý thuyết điểm trung
tâm nhấn mạnh hoạt động của lực đẩy và lực hút để phân định ranh giới các khu

10
vực ảnh hƣởng. N.N. Colaxopxki đề xuất các vấn đề lý luận và giải pháp thực
tiễn về tổ chức lãnh thổ cho các vùng giàu tài nguyên… Các tƣ tƣởng nói trên có
giá trị đặc biệt đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
Thuật ngữ “tổ chức lãnh thổ công nghiệp” ngày càng đƣợc sử dụng rộng
rãi trong các tài liệu khoa học và thực tiễn. Vì vậy có nhiều nhà khoa học nghiên
cứu về vấn đề này.
Theo A.T. Khowrusov (1979), tổ chức lãnh thổ công nghiệp đƣợc hiểu là
hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh
thổ khác nhau trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật
chất, lao động cũng nhƣ tiết kiệm chi phí để khắc phục sự không phù hợp đã
xuất hiện trong lịch sử về việc phân bố các nguồn nguyên liệu, năng lƣợng, nơi
sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm, góp phần đạt hiệu quả kinh tế cao.

Tổ chức lãnh thổ công nghiệp không phải là hiện tƣợng bất biến. So với
nông nghiệp, tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể thay đổi trong một thời gian
tƣơng đối ngắn. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì trong thời đại ngày nay sự
tiến bộ khoa học, công nghệ diễn ra rất nhanh, nhu cầu của thị trƣờng và cả bản
thân thị trƣờng cũng thƣờng xuyên thay đổi. Vì vậy, tổ chức lãnh thổ muốn tồn
tại và phát huy tác dụng thì không thể sơ cứng và chậm biến đổi, mặc dù về lý
thuyết, mỗi hình thái kinh tế - xã hội sẽ có các kiểu tổ chức lãnh thổ công nghiệp
tƣơng ứng.
Ở nƣớc ta, số lƣợng các công trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công
nghiệp không nhiều. Tuy nhiên, tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể đƣợc coi là
việc bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất công nghiệp, các cơ sở phục vụ cho hoạt
động công nghiệp, các điểm dân cƣ, cùng kết cấu hạ tầng trên phạm vi một lãnh
thổ nhất định, nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên trong cũng nhƣ bên
ngoài lãnh thổ đó.
Thực tiễn ở nƣớc ta chỉ rõ rằng, quá trình hình thành và phát triển một số
hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp (điểm, cụm, khu, trung tâm công nghiệp)
gắn liền với quá trình đô thị hóa. Quá trình này, một mặt làm xuất hiện những đô
thị mới và mặt khác cải tạo hoặc nâng cấp các đô thị cũ. Giữa đô thị hóa và phát

11
triển công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ. Việc phát triển và phân bố công
nghiệp là cơ sở quan trọng nhất để hình thành và phát triển đô thị. Mặt khác,
mạng lƣới đô thị khi đã ra đời và nhất là có kết cấu hạ tầng ở mức độ nhất định
sẽ trở thành nơi hấp dẫn, làm cơ sở để phát triển và tổ chức lãnh thổ công
nghiệp.
Trong những năm gần đây, nhà nƣớc triển khai các “quy hoạch tổng
thể”. Giữa quy hoạch tổng thể và tổ chức lãnh thổ có những sự khác nhau rõ rệt.
Quy hoạch tổng thể (ngành hoặc lãnh thổ) thƣờng bao gồm các nội dung ở
tầm vĩ mô nhƣ đánh giá các nguồn lực (tự nhiên, kinh tế - xã hội…), Phân tích
hiện trạng và đƣa ra các định hƣớng phát triển trong khoảng thời gian 10-20 năm

tới. Ngoài ra, nó còn đƣợc hiểu theo một nghĩa khác. Đó là các sơ đồ sử dụng
mặt bằng của một không gian nào đó phục vụ cho mục đích thiết kế xây dựng
(thí dụ, quy hoạch tổng thể khu công nghiệp A).
Quy hoạch tổng thể theo nghĩa đầu tiên, mang tính chất tập hợp các kế
hoạch phát triển, thƣờng là của các ngành, trên một lãnh thổ cụ thể (quốc gia,
tỉnh, huyện). Theo nghĩa thứ hai, thực chất đó là quy hoạch mặt bằng (đô thị,
khu công nghiệp…).
Tổ chức lãnh thổ nhƣ các khái niệm trên đã chỉ rõ, là việc tìm ra các mối
liên kết không gian, là việc bố trí hợp lý các cơ sở kinh tế trên một lãnh thổ nhất
định. Nói cách khác, đối với công nghiệp đây là việc định vị các xí nghiệp, các
khu công nghiệp để tạo nên các không gian công nghiệp thuộc các cấp khác
nhau. Trên cơ sở các lợi thế so sánh của từng lãnh thổ sao cho đạt hiệu quả cao
về các mặt kinh tế, xã hội và môi trƣờng.
Nhƣ vậy, tổ chức lãnh thổ công nghiệp là sự sắp xếp, phối hợp giữa các
quá trình và cơ sở sản xuất công nghiệp trên một lãnh thổ nhất định để sử dụng
hợp lý các nguồn lực sẵn có nhằm đạt hiệu quả cao về các mặt kinh tế, xã hội và
môi trƣờng. Nó đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình đổi mới kinh
tế - xã hội của nƣớc ta. Đây là một trong những công cụ hữu hiệu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.


12

1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp Việt Nam
1.2.1. Nguồn lực bên trong
- Nguồn lực tự nhiên
+ Khoáng sản là một trong những nguồn lực hàng đầu ảnh hƣởng đến việc
tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Số lƣợng, trữ lƣợng, chất lƣợng và sự kết hợp các
loại khoáng sản theo lãnh thổ sẽ chi phối quy mô, cơ cấu và tổ chức các xí
nghiệp công nghiệp trên lãnh thổ.

Thí dụ, miền núi và trung du Bắc Bộ tập trung nhiều loại khoáng sản có ý
nghĩa cả nƣớc. Trên cơ sở đó, đã hình thành và phát triển công nghiệp khai
khoáng (khai thác và tuyển than ở Quảng Ninh, khai thác và chế biến apatit ở
Lào Cai, khai thác và chế biến quặng sắt ở Thái Nguyên, khai thác và chế biến
thiếc ở Cao Bằng …). Vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng có nguồn
đá vôi phong phú; do vậy, công nghiệp sản xuất xi măng và công nghiệp vật liệu
xây dựng tƣơng đối phát triển.
+ Nguồn nƣớc có ý nghĩa lớn đối với các ngành sản xuất, trong đó có
công nghiệp. Khi lựa chọn lãnh thổ để phân bố các xí nghiệp và hình thành các
tổ chức lãnh thổ công nghiệp, cần phải chú ý đến nguồn nƣớc. Ở khu vực ven
biển hay vùng gò đồi, trong nhiều trƣờng hợp, yếu tố nguồn nƣớc quyết định sự
phân bố và tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Mức độ thuận lợi (hay khó khăn) về
nguồn cung cấp hoặc thoát nƣớc là điều kiện quan trọng để định vị các xí nghiệp
công nghiệp.
+ Khí hậu cũng có ảnh hƣởng nhất định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
Trong một số trƣờng hợp, nó chi phối việc lựa chọn kỹ thuật và công nghệ sản
xuất, đặc biệt đối với vùng ven biển dễ bị nhiễm mặn do độ ẩm của không khí.
Ngoài ra, khí hậu đa dạng, phức tạp cũng làm xuất hiện những tập đoàn cây
trồng, vật nuôi đặc thù. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp chế
biến lƣơng thực, thực phẩm.
Bên cạnh các tài nguyên thiên nhiên nói trên, còn có một số nguồn lực
khác tác động tới tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Có thể kể tới vị trí địa lý, đất đai

13
(với tƣ cách là nơi phân bố công nghiệp, nhất là về địa chất công trình), tài
nguyên sinh vật, biển …
- Nguồn lực kinh tế - xã hội
+ Dân cƣ với những tập quán sản xuất, tiêu dùng và nguồn lao động (số
lƣợng, chất lƣợng) có vai trò to lớn trong việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Về
phƣơng diện này, dân cƣ đƣợc xem xét dƣới hai góc độ: sản xuất và tiêu dùng.

Thị trƣờng tiêu thụ gắn với số dân có thể coi là một nguồn lực quan trọng.
Ở nơi nào có nguồn lực phong phú thì ở đó có khả năng để phân bố và phát
triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Những nơi có đội ngũ lao
động lành nghề thƣờng cho phép phát triển các xí nghiệp công nghiệp đòi hỏi
tay nghề cao và sản xuất ra các sản phẩm chứa đựng hàm lƣợng kỹ thuật lớn. Ở
những nơi mà nguồn lao động có nhiều ngành nghề truyền thống thì đều có thể
phát triển các ngành nghề này để thu hút lao động và tạo ra sản phẩm độc đáo
mang bản sắc dân tộc…
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, tập quán tiêu dùng có
thể thay đổi và kéo theo nó là sự biến đổi về hƣớng và quy mô chuyên môn hóa
của các ngành cũng nhƣ các xí nghiệp công nghiệp. Từ đó dẫn đến sự mở rộng
hay thu hẹp không gian công nghiệp.
+ Các trung tâm kinh tế và mạng lƣới đô thị luôn có những điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển một số hình thức tổ chức lãnh thổ công
nghiệp. Nơi đây thƣờng hội tụ những thế mạnh và kết cấu hạ tầng (giao thông,
điện, nƣớc, thông tin liên lạc…), nguồn lao động với chất lƣợng cao và thị
trƣờng tiêu thụ rộng lớn với sự đa dạng về thị hiếu tiêu dùng.
+ Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ công nghiệp có giá
trị nhất định đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó có thể là tiền đề
thuận lợi hay cản trở sự phát triển công nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ
công nghiệp nói riêng.
1.2.2. Nguồn lực bên ngoài
Song song với nguồn lực bên trong (nội lực) còn có những yếu tố bên
ngoài tác động đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Ở đây, các yếu tố bên ngoài

14
đƣợc hiểu là các yếu tố ảnh hƣởng với tƣ cách nhƣ nguồn lực bên ngoài lãnh thổ
công nghiệp (các vùng khác trong nƣớc hay từ nƣớc ngoài). Trong một số
trƣờng hợp cụ thể, nguồn lực bên ngoài chi phối mạnh mẽ và thậm chí có thể có
ý nghĩa quyết định đối với tổ chức lãnh thổ công nghiệp của một vùng nào đó.

- Thị trƣờng bên ngoài, ở mức độ lớn, có tác động mạnh mẽ tới quá trình
lựa chọn vị trí xí nghiệp, hƣớng chuyên môn hóa sản xuất và chi phối trực tiếp
tới tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Ở trong nƣớc, các đô thị lớn ngoài chức năng
trung tâm - hạt nhân công nghiệp, còn luôn là thị trƣờng quan trọng khuyến
khích sự phát triển của sản xuất. Thị trƣờng quốc tế cũng có vai trò đặc biệt. Sự
phát triển công nghiệp cuả bất kỳ quốc gia nào cũng đều nhằm thỏa mãn nhu cầu
trong nƣớc và hội nhập với thị trƣờng thế giới. Vì thế, thị trƣờng này chắc chắn
có tác động nhất định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
- Mối quan hệ hợp tác liên vùng và quốc tế có vai trò đáng kể với việc tổ
chức lãnh thổ công nghiệp. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa
nền kinh tế thế giới cùng với những tiến bộ kỹ thuật phát triển nhƣ vũ bão, vấn
đề hợp tác quốc tế là một xu thế tất yếu, đem lại lợi ích cho các bên đối tác. Đối
với các nƣớc, các vùng chậm phát triển, để giảm khoảng cách về trình độ phát
triển và tránh tụt hậu, không thể không quan tâm đến sự hợp tác quốc tế và liên
vùng.
Hợp tác quốc tế và liên vùng đƣợc thể hiện qua một số lĩnh vực chủ yếu
sau đây:
+ Hỗ trợ vốn đầu tƣ từ các nƣớc, các vùng phát triển cho các nƣớc, các
vùng chậm phát triển. Quá trình hợp tác đầu tƣ làm xuất hiện ở các nƣớc, các
vùng chậm phát triển một số ngành công nghiệp mới, các khu vực công nghiệp
tập trung, khu chế xuất và mở mang các ngành nghề truyền thống. Điều đó dẫn
đến sự thay đổi tổ chức lãnh thổ công nghiệp theo cả hai chiều: tích cực và tiêu
cực.
+ Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cũng là một trong những hƣớng
quan trọng của sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại có
ý nghĩa quyết định đến nhịp độ tăng trƣởng kinh tế. Trƣớc hết, nó ảnh hƣởng

15
trực tiếp đến quy mô, phƣơng hƣớng sản xuất và sau đó là việc phân bố sản
xuất, các hình thức tổ chức lãnh thổ cũng nhƣ bộ mặt kinh tế - xã hội của một

vùng (hay quốc gia).
+ Chuyển giao kinh nghiệm tổ chức quản lý đến các nƣớc, các vùng
chậm phát triển đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Kinh nghiệm quản trị giỏi
không chỉ giúp từng xí nghiệp làm ăn phát đạt, mà còn mở ra cơ hội cho họ hợp
tác chặt chẽ với nhau, tạo ra sự liên kết bền vững trong một hệ thống sản xuất
kinh doanh thống nhất. Chính sự liên kết đó là tiền đề để hình thành các không
gian công nghiệp cũng nhƣ các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
- Sự hỗ trợ từ bên ngoài về năng lƣợng, nguyên vật liệu cũng hết sức quan
trọng. Đối với các vùng thiếu năng lƣợng, nguyên vật liệu, sự hỗ trợ từ bên
ngoài rõ ràng là không thể thiếu đƣợc. Sự hỗ trợ này tác động đến quá trình phát
triển và tiếp theo là đến việc tổ chức lãnh thổ nền kinh tế của vùng nói chung và
tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng.
1.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Việt Nam
Có nhiều hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp, các hình thức này phụ
thuộc vào quan niệm và quy mô lãnh thổ của mỗi quốc gia. Trên cơ sở tổng
quan các hình thức của một số nƣớc trên thế giới và gắn với thực tiễn của nƣớc
ta, nhất là sau khi đất nƣớc bƣớc vào công cuộc đổi mới, có thể nêu 4 hình thức
tổ chức lãnh thổ công nghiệp quan trọng nhất sau đây:
1.3.1. Điểm công nghiệp
- Điểm công nghiệp thƣờng chỉ là một, hai xí nghiệp phân bố đơn lẻ, có
kết cấu hạ tầng riêng. Nó đƣợc phân bố ở gần nguồn nguyên liệu với chức năng
khai thác hay sơ chế nguyên liệu hoặc ở những điểm dân cƣ nằm trong một vùng
nguyên liệu nông, lâm, thủy sản nào đó. Cũng có thể nó ở ngay trong vùng tiêu
thụ để phục vụ cho những nhu cầu nhất định của dân cƣ.
Điểm công nghiệp có một số đặc trƣng sau đây:
+ Lãnh thổ nhỏ với một (hai) xí nghiệp, phân bố lẻ tẻ, phân tán.
+ Hầu nhƣ không có mối liên hệ sản xuất với các xí nghiệp khác.
+ Thƣờng gắn với một điểm dân cƣ nào đó.

16

Ở đây cần phân biệt điểm công nghiệp và xí nghiệp công nghiệp. Điểm
công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Trong
khi đó, xí nghiệp công nghiệp là hình thức tổ chức sản xuất, là đơn vị cơ sở của
phân công lao động về mặt địa lý. Nếu xét về mặt hình thức, chúng có vẻ nhƣ
nhau, nhƣng về bản chất lại hoàn toàn khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, một bên là
hình thức tổ chức công nghiệp theo lãnh thổ, còn bên kia lại là cách thức tổ chức
sản xuất trong công nghiệp.
Các xí nghiệp công nghiệp có tính chất độc lập về kinh tế, có công nghệ
sản xuất sản phẩm riêng. Do tính chất và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của các
ngành công nghiệp có sự khác nhau mà quy mô của các xí nghiệp cũng khác
nhau. Có xí nghiệp chỉ có vài chục hoặc vài trăm công nhân (nhƣ chế biến nông
sản,…) và đƣợc bố trí gọn trong một xƣởng sản xuất, nhƣng cũng có xí nghiệp
thu hút hàng nghìn công nhân, gồm nhiều công trình, nhà xƣởng, diện tích tƣơng
đối lớn (nhƣ xí nghiệp khai thác khoáng sản,…). Hiện nay, do sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ, số lƣợng các xí nghiệp có quy mô lớn tăng lên nhanh
chóng ở tất cả các ngành công nghiệp.
- Điểm công nghiệp theo kiểu đơn lẻ này cũng có những mặt tích cực nhất
định. Nó có tính cơ động, dễ đối phó với các sự cố và thay đổi trang thiết bị,
không bị ràng buộc và ảnh hƣởng của các xí nghiệp khác, đặc biệt thuận lợi cho
việc thay đổi mặt hàng trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, những
mặt hạn chế lại rất nhiều. Đó là việc đầu tƣ khá tốn kém cho cơ sở hạ tầng, các
chất phế thải bị lãng phí do không tận dụng đƣợc, các mối liên hệ (sản xuất, kinh
tế, kỹ thuật,…) với các xí nghiệp khác hầu nhƣ thiếu vắng và vì vậy, hiệu quả
kinh tế thƣờng thấp.
Ở nƣớc ta có nhiều điểm công nghiệp. Các điểm công nghiệp đơn lẻ thƣờng
hình thành ở các tỉnh miền núi của Tây Bắc, Tây Nguyên.
1.3.2. Khu công nghiệp tập trung
- Khu công nghiệp tập trung với tƣ cách là một hình thức tổ chức lãnh thổ
công nghiệp đƣợc hình thành và phát triển ở các nƣớc tƣ bản vào những năm
cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nó đƣợc hiểu là một khu vực đất đai có


17
ranh giới nhất định do nhà tƣ bản sở hữu, trƣớc hết là xây dựng cơ sở hạ tầng và
sao đó là xây dựng các xí nghiệp để bán.
Việc hình thành các khu công nghiệp tập trung mang tính tất yếu trong
từng giai đoạn lịch sử ở các quốc gia khác nhau. Các nƣớc tƣ bản muốn thông
qua việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung để tăng cƣờng xuất khẩu cũng
nhƣ khả năng cạch tranh trên thị trƣờng thế giới, đồng thời khai thác triệt để các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của các nƣớc.
Đối với các nƣớc đang phát triển, trong quá trình công nghiệp hóa với
chiến lƣợc hƣớng về xuất khẩu, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất
đƣợc hình thành nhằm thu hút vốn đầu tƣ, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
của các nƣớc phát triển. Ở các nƣớc Châu Á và ASEAN, khu công nghiệp tập
trung ra đời vào nửa sau của thế kỷ XX, thí dụ nhƣ Singapo năm 1951, Đài Loan
(1966), Hàn Quốc (1970), Thái Lan (1972),… Dù tên gọi ở mỗi nƣớc có thể
khác nhau, nhƣng về bản chất đó là các khu công nghiệp tập trung.
Ở nƣớc ta, hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp này đƣợc hình thành
vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Trong nghị định 192/CP ngày 25/12/1994
của Chính phủ đã chỉ rõ, khu công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết định
thành lập, có ranh giới xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cƣ sinh sống.
Nhƣ vậy, có thể xác định khu công nghiệp tập trung là một khu vực có
ranh giới rõ rệt với những thế mạnh về vị trí địa lý, về tự nhiên, kinh tế để thu
hút đầu tƣ, hoạt động với cơ cấu hợp lý giữa các doanh nghiệp công nghiệp và
dịch vụ có liên quan thuộc nhiều thành phần kinh tế nhằm đạt hiệu quả cao cho
từng doanh nghiệp nói riêng và tổng thể cả khu công nghiệp nói chung.
1.3.3. Trung tâm công nghiệp
- Trung tâm công nghiệp là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp
gắn với các đô thị vừa và lớn. Mỗi trung tâm có thể bao gồm một số hình thức tổ
chức lãnh thổ công nghiệp ở cấp thấp hơn.

Về lý thuyết, mỗi trung tâm có một (hay một số) ngành đƣợc coi là hạt
nhân. Hƣớng chuyên môn hóa của trung tâm thƣờng do các ngành (xí nghiệp)

18
hạt nhân đó quyết định. Những ngành (xí nghiệp) này đƣợc hình thành dựa trên
những lợi thế so sánh (về vị trí địa lý, về nguồn lực tự nhiên, lao động, thị
trƣờng,…). Một trong những điểm khác biệt rõ rệt so với hai hình thức trên là
các xí nghiệp phân bố trong trung tâm công nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau về kỹ thuật sản xuất, quy trình công nghệ hay về mặt kinh tế nhằm đạt hiệu
quả cao nhất. Bên cạnh các xí nghiệp chuyên môn hóa còn có hàng loạt xí
nghiệp bổ trợ phục vụ cho việc cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, sửa
chữa máy móc thiết bị, đảm bảo lƣơng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng cho dân
cƣ.
- Nhƣ vậy, trung tâm công nghiệp đƣợc đặc trƣng bởi một số đặc điểm
chủ yếu sau đây:
+ Trung tâm công nghiệp đồng thời cũng là các đô thị vừa và lớn với hoạt
động công nghiệp là chính.
+ Trung tâm công nghiệp bao gồm nhiều xí nghiệp thuộc các ngành khác
nhau tạo nên cơ cấu ngành. Cơ cấu ngành của trung tâm công nghiệp có thể đơn
giản (ít ngành) hoặc phức tạp (đa ngành), phụ thuộc chủ yếu vào sự thu hút các
ngành của trung tâm. Các xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp khác nhau có
mối liên hệ mật thiết với nhau về kinh tế, kỹ thuật, sản xuất.
+ Nhóm xí nghiệp hạt nhân đƣợc coi là bộ khung của trung tâm công
nghiệp thƣờng gồm một số xí nghiệp lớn và cũng có thể là xí nghiệp liên hợp.
Hƣớng chuyên môn hóa của trung tâm là do nhóm xí nghiệp này quyết định.
Gắn với nhóm xí nghiệp hạt nhân là nhóm xí nghiệp bổ trợ để tạo điều kiện cho
trung tâm công nghiệp có thể hoạt động bình thƣờng.
- Các trung tâm công nghiệp rất đa dạng. Vì vậy, việc phân loại các trung
tâm công nghiệp cũng phải dựa trên một số tiêu chí nhất định, tùy thuộc vào
mục đích của ngƣời nghiên cứu. Các tiêu chí đƣợc lựa chọn có thể là vai trò của

trung tâm công nghiệp trong sự phân công lao động theo lãnh thổ, giá trị sản
xuất công nghiệp, tính chất chuyên môn hóa và đặc điểm sản xuất.
Căn cứ vào vai trò của trung tâm công nghiệp trong sự phân công lao
động theo lãnh thổ, có thể chia ra các trung tâm có ý nghĩa quốc gia (thí dụ ở

19
nƣớc ta, đó là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội), các trung tâm có ý nghĩa vùng (Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ,…) và các trung tâm có ý nghĩa địa phƣơng (Vĩnh
Yên, Bắc Giang,…).
Nếu dựa vào giá trị sản xuất công nghiệp (và có thể một số tiêu chí khác
để xác định quy mô) thì có thể phân thành các trung tâm lớn (thí dụ TP. Hồ Chí
Minh, Hà Nội), các trung tâm trung bình (Hải Phòng, Đà Nẵng,…) và các trung
tâm nhỏ (Vinh, Quy Nhơn, Nha Trang,…).
Còn theo tính chất chuyên môn hóa và đặc điểm sản xuất, ngƣời ta chia ra
các trung tâm công nghiệp tổng hợp (đa ngành) và các trung tâm công nghiệp
chuyên môn hóa. Thậm chí, một số thành phố - trung tâm công nghiệp đƣợc
mang tên gắn liền với hƣớng chuyên môn hóa. Trên thế giới, các trung tâm công
nghiệp chế tạo ô tô nhƣ Đitroi (Hoa Kỳ), Nagoia (Nhật Bản) hay trung tâm công
nghiệp dệt Mansextor (Anh), Mumbai (Ấn Độ),… Ở nƣớc ta, nói tới Nam Định
ai cũng liên tƣởng đến thành phố dệt (mặc dù hiện nay ngành này không phải
chiếm ƣu thế), Thái Nguyên - thành phố gang thép,…
1.3.4. Vùng công nghiệp
- Vùng công nghiệp là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở cấp
cao nhất. Điều đó có nghĩa là trong phạm vi vùng công nghiệp có thể tồn tại tất
cả các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp còn lại. Nó bao gồm một lãnh thổ
tƣơng đối rộng lớn, có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực, về kinh tế - xã hội, có khả năng bố trí tập trung công nghiệp nhằm đạt
hiệu quả và tốc độ tăng trƣởng cao, thúc đẩy và bảo đảm sự phát triển của các
vùng khác và của cả nƣớc.
- Về mặt lý thuyết, ngƣời ta phân biệt hai loại vùng công nghiệp là vùng

ngành và vùng tổng hợp.
Vùng (công nghiệp) ngành là tập hợp các xí nghiệp cùng loại trên một
lãnh thổ. Cơ chế hình thành loại vùng này đƣợc thể hiện ở chỗ mỗi ngành công
nghiệp lựa chọn cho mình phần lãnh thổ thích hợp nhất về các nguồn lực tự
nhiên, kinh tế, xã hội trên cơ sở thỏa mãn đƣợc các yêu cầu về kinh tế - kỹ thuật

20
và các yếu tố phân bố sản xuất. Trên thực tế, các vùng ngành thƣờng gặp là
vùng công nghiệp khai thác than, dầu khí, luyện kim, hóa chất,…
Vùng (công nghiệp) tổng hợp là một khái niệm đƣợc sử dụng rộng rãi hơn
và gọi chung là vùng công nghiệp. Trên một lãnh thổ nhất định có những điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành và phân bố các xí nghiệp không chỉ của một
ngành, mà là của nhiều ngành.
Nhƣ vậy, khác với vùng ngành, vùng công nghiệp bao trùm lên tất cả các
ngành công nghiệp. Trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, vùng ngành đƣợc
thể hiện dƣới dạng “da báo”, nghĩa là có thể không liền vùng, liền khoảnh.
Ngƣợc lại, đối với vùng công nghiệp thì bất kỳ một điểm (địa phƣơng) nào của
quốc gia đều phải nằm trong một vùng công nghiệp nào đó. Hơn nữa, vùng công
nghiệp không phải là tổng số của các vùng ngành cùng cộng lại, mà là vùng
hoàn toàn mới về chất, bởi vì tập hợp của các ngành theo lãnh thổ sẽ có các điều
kiện và đặc điểm phân bố khác xa so với từng ngành riêng lẻ.
Vùng công nghiệp có một số đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Là bộ phận lãnh thổ lớn nhất trong số các hình thức tổ chức lãnh thổ
công nghiệp, nhƣng ranh giới không mang tính pháp lý.
+ Có thể bao gồm tất cả các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp từ
thấp đến cao (hoặc cũng có thể chỉ chứa đựng một vài hình thức nào đó) và giữa
chúng có các mối liên hệ chặt chẽ với nhau về sản xuất, công nghệ, kinh tế,…
+ Có một số nhân tố tạo vùng tƣơng đồng (sử dụng chung một vài loại tài
nguyên tạo nên tính chất tƣơng đối giống nhau của các ngành công nghiệp, cùng
có những thuận lợi về vị trí địa lý và các nguồn lực khác).

+ Có một (hay một vài) ngành công nghiệp chủ đạo tạo nên hƣớng chuyên
môn hóa của vùng, trong đó có hạt nhân tạo vùng và thƣờng là trung tâm công
nghiệp lớn. Để hỗ trợ cho ngành chuyên môn hóa có các ngành bổ trợ và phục
vụ.
+ Sản xuất mang tính chất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng ở
trong và ngoài vùng, kể cả thị trƣờng quốc tế.

21
Theo quy hoạch của Bộ Công nghiệp (năm 2001), cả nƣớc đƣợc phân
thành 6 vùng công nghiệp:
- Vùng 1: Các tỉnh thuộc Trung du và miền núi Bắc Bộ (trừ Quảng Ninh).
- Vùng 2: Các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Vùng 3: Các tỉnh từ Quảng Bình đến Ninh Thuận.
- Vùng 4: Các tỉnh thuộc Tây Nguyên (trừ Lâm Đồng).
- Vùng 5: Các tỉnh Đông Nam Bộ, Bình Thuận, Lâm Đồng.
- Vùng 6: Các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long.
1.4. Khu công nghiệp
1.4.1. Khái niệm khu công nghiệp
So với khái niệm của khoa học địa lý Xô Viết, khu công nghiệp ở Việt
Nam là một hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp hoàn toàn khác. Trong nghị
định 192/CP ngày 25/12/1994 của Chính phủ đã nêu: Khu công nghiệp quy định
trong quy chế này là “khu công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết định thành
lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cƣ sinh sống”.
1.4.2. Đặc điểm khu công nghiệp
Khu công nghiệp có một số đặc điểm chính sau đây:
+ Tập trung tƣơng đối nhiều xí nghiệp công nghiệp trên một khu vực có
ranh giới rõ ràng, sử dụng chung kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội.
+ Các xí nghiệp nằm trong khu công nghiệp đƣợc hƣởng quy chế ƣu đãi

riêng, khác với các xí nghiệp phân bố ngoài khu công nghiệp.
+ Có ban quản lý thống nhất để thực hiện quy chế quản lý.
+ Có sự phân cấp về quản lý và tổ chức sản xuất. Về phía các xí nghiệp,
khả năng hợp tác sản xuất phụ thuộc vào việc tự liên kết với nhau của từng
doanh nghiệp. Việc quản lý nhà nƣớc đƣợc thể hiện ở chỗ Nhà nƣớc chỉ quy
định những ngành (hay loại xí nghiệp) đƣợc khuyến khích phát triển và những
ngành (hay loại xí nghiệp) không đƣợc đặt trong khu công nghiệp vì lý do môi
trƣờng sinh thái hoặc an ninh, quốc phòng.

22
- Các khu công nghiệp rất khác nhau về tính chất và về loại hình. Thí dụ,
có khu công nghiệp chỉ xoay quanh một loại nguyên liệu nhất định với chuyên
môn hóa thống nhất, trong khi đó lại có khu công nghiệp tổng hợp với nhiều loại
hình xí nghiệp; hay có khu công nghiệp lớn, trung bình, nhỏ; hoặc có khu công
nghiệp đã hình thành hay đang trong quá trình hình thành…
Để thuận lợi cho việc phân loại các khu công nghiệp, có thể đƣa ra một số
tiêu chí cụ thể nhƣ: Vị trí địa lý, tính chất chuyên môn hóa, cơ cấu và đặc điểm
sản xuất, quy mô, sự độc lập hay phụ thuộc, trình độ công nghệ.
+ Về vị trí địa lý, các khu công nghiệp đƣợc hình thành ở những địa bàn
khác nhau. Vì thế nó có thể phân ra các khu công nghiệp nằm ở trung du hay
vùng núi, các khu công nghiệp ven biển, các khu công nghiệp dọc theo quốc lộ,
các khu công nghiệp nằm trong các thành phố lớn,…
+ Về tính chất chuyên môn hóa, cơ cấu và đặc điểm sản xuất, có thể chia
ra: các khu công nghiệp chuyên môn hóa (trên cơ sở xí nghiệp chuyên môn hóa
sử dụng một loại nguyên liệu cơ bản nhƣ than, điện, luyện kim, hóa chất), các
khu công nghiệp tổng hợp (cơ cấu đa dạng với nhiều ngành sản xuất) hoặc các
khu công nghiệp sản xuất chủ yếu để xuất khẩu (khu chế xuất).
+ Về quy mô, tùy thuộc vào điều kiện đất đai, vị trí thuận lợi và sự hấp
dẫn đối với các nhà đầu tƣ (trong và ngoài nƣớc), có thể chia thành: các khu
công nghiệp có quy mô lớn, các khu công nghiệp có quy mô vừa và các khu

công nghiệp có quy mô nhỏ.
+ Về tính chất độc lập hay phụ thuộc (tƣơng đối), có khu công nghiệp
nằm ngoài các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cao hơn nó và có khu
công nghiệp là một bộ phận của trung tâm hay dải công nghiệp (nhƣ khu Đông
Anh và các khu mới nhƣ Bắc Thăng Long, Sóc Sơn…) hoặc nằm trên các địa
bàn trọng điểm (các khu công nghiệp thuộc Hà Nội, Hải Dƣơng, Hải Phòng,
Quảng Ninh,…).
+ Về trình độ công nghệ, có thể chia ra một số loại khu công nghiệp, tùy
thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ của các xí nghiệp phân bố trong khu
công nghiệp. Có khu công nghiệp tập trung các xí nghiệp có trình độ công nghệ

23
tiên tiến và đƣợc gọi là khu công nghiệp kỹ thuật cao. Ngƣợc lại, có khu công
nghiệp chỉ có các xí nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ trung bình, thậm
chí có cả các xí nghiệp thủ công.
1.4.3. Vai trò và ý nghĩa của khu công nghiệp
- Khu công nghiệp góp phần vào sự tăng trƣởng kinh tế, là ngành sản xuất
vật chất tạo ra khối lƣợng sản phẩm lớn cho xã hội, tạo ra thiết bị máy móc, tƣ
liệu sản xuất cho các ngành kinh tế khác. Công nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cao,
năng suất lao động tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó ít bị hạn chế bởi các yếu
tố tự nhiên.
- Khu công nghiệp thúc đẩy các ngành khác phát triển theo hƣớng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khu công nghiệp trực tiếp chế biến và nâng cao giá trị
sản phẩm của các ngành khác, hạ giá thành, nâng cao chất lƣợng.
Sử dụng hợp lý các nguồn vốn và nhân công trong nƣớc. Mở rộng thị
trƣờng trong nƣớc và quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở
nƣớc ta.
- Góp phần đắc lực vào việc thay đổi phƣơng pháp tổ chức, phƣơng pháp
quản lý sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Khác với các ngành khác
công nghiệp nói chung và khu công nghiệp nói riêng rất nhạy cảm với những

tiến bộ khoa học kỹ thuật, nó không chỉ sử dụng các trang thiết bị hiện đại mà
còn có các phƣơng pháp tổ chức quản lý tiên tiến nhằm tạo ra sản phẩm có chất
lƣợng cao, giá thành thấp thông qua việc sản xuất theo dây chuyền. Các ngành
kinh tế khác đã áp dụng phƣơng pháp tổ chức, quản lý kiểu công nghiệp và đều
đạt hiệu quả cao. Ngay cả chính bản thân ngƣời công nhân đƣợc rèn luyện trong
môi trƣờng sản xuất công nghiệp cũng có tác phong công nghiệp khác hẳn với
nông nghiệp lao động có tính mùa vụ.
- Khu công nghiệp tạo điều kiện khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên nhƣ quặng, than đá,… Nhờ làm tốt các công tác thăm dò, khai thác
và chế biến tài nguyên mà danh mục các điều kiện tự nhiên trở thành tài nguyên
thiên nhiên phục vụ ngành sản xuất công nghiệp.

24
Hoạt động khu công nghiệp làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát
triển giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn. Chính khu công nghiệp đã làm
thay đổi bộ mặt kinh tế của nông thôn, làm cho nông thôn nhanh chóng bắt kịp
đƣợc với đời sống đô thị.
- Khu công nghiệp đóng góp vào tích lũy của nền kinh tế và nâng cao đời
sông nhân dân. Nhờ có năng suất lao động và tốc độ tăng trƣởng cao, khu công
nghiệp góp phần tích cực vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho Nhà nƣớc, tăng
tích lũy cho các doanh nghiệp và thu nhập cho nhân dân.
Quá trình phát triển khu công nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trƣờng
cũng là quá trình tích lũy năng lực khoa học và công nghệ của đất nƣớc. Phát
triển khu công nghiệp góp phần đào tạo, rèn luyện và nâng cao chất lƣợng nguồn
lao động, đội ngũ chuyên gia khoa học và công nghệ. Nhƣ vậy, khu công nghiệp
góp phần tích lũy cho nền kinh tế, bao gồm nguồn tài chính, nguồn nhân lực và
trình độ khoa học công nghệ, những nhân tố cơ bản của sự phát triển.
Khu công nghiệp còn góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu lãnh thổ công nghiệp, góp phần phân công các khu, điểm công
nghiệp hợp lí hơn.















25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ PHÂN BỐ
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM

2.1. Sự phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng các khu vực tập trung công nghiệp ở nước ta
Nền công nghiệp của nƣớc ta đã đƣợc hình thành và phát triển qua những
bƣớc thăng trầm trong suốt nhiều thập kỷ. Cho đến trƣớc những năm 1990, trên
phạm vi cả nƣớc đã có nhiều khu vực tập trung công nghiệp. Do lịch sử để lại,
nên hiện nay tồn tại nhiều loại hình khu công nghiệp. Có khu mang dáng dấp
của khu công nghiệp tập trung theo quan niệm nhƣ bây giờ, mặc dù không
nhiều; trong khi đó, có hàng loạt khu công nghiệp lại có những đặc điểm khác
hẳn.
Theo nghiên cứu của Viện Chiến lƣợc phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ
(1995), có thể phân chúng thành 5 nhóm sau đây:
* Khu vực tập trung công nghiệp dựa trên cơ sở một xí nghiệp liên hợp

Một số khu công nghiệp dựa trên cơ sở một xí nghiệp liên hợp tiêu biểu:
Liên hợp gang thép Thái Nguyên, Liên hợp dệt Nam Định, Liên hợp dệt 8/3
(Minh Khai, Hà Nội), Liên hợp giấy Bãi Bằng (Phong Châu, Phú Thọ),…
- Đặc điểm chủ yếu của loại hình này là:
+ Các xí nghiệp (phân xƣởng) tập trung vào một lãnh thổ không lớn, với
diện tích trung bình là 50 - 60 ha.
+ Các xí nghiệp (phân xƣởng) có mối liên hệ chặt chẽ với nhau về công
nghệ trong quá trình tạo ra sản phẩm cuối cùng, ngoài việc sử dụng chung kết
cấu hạ tầng sản xuất (điện, nƣớc,…), dịch vụ xã hội, nhà ở cho cán bộ công
nhân,…
Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên bao gồm hệ thống các xí nghiệp
(phân xƣởng) mang tính chất liên hợp hóa từ khâu luyện cốc, cung cấp khí cốc
cho lò luyện gang, rồi đến luyện thép, cán thép. Các khu công nghiệp dệt (Nam
Định, 8/3) bắt đầu từ khâu sợi rồi đến dệt vải, nhuộm in hoa và một số phân

×