Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.05 KB, 83 trang )

trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế

Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài:
Một số giải pháp thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài
vào khu công nghiệp ở việt nam
Họ và tên sinh viên :
Nguyễn quang khoan
Giảng viên hớng dẫn :
Pgs.ts nguyễn nh bình
Hà nội - 2007
MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu, sơ đồ
Mở đầu
Chương 1.Lý luận chung về FDI và Khu Công nghiệp ở Việt Nam.................1
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về KCN ...................................................1
1.1.1. Khái quát về KCN và định nghĩa KCN...................................................1
1.1.2. Phân biệt KCN với KCX. .......................................................................4
1.1.3. Mô hình và phân loại KCN ....................................................................6
1.1.4. Sự cần thiết khách quan phát triển KCN ở Việt Nam ............................9
1.1.4.1. Sự cần thiết tất yếu phát triển KCN ở Việt Nam...............................9
1.1.4.2. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam ................12
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI của một quốc gia ...........19
1.2.1. Tổng quan về đầu tư nước ngoài...........................................................19
1.2.2. Khái niệm về FDI..................................................................................21
1.2.3. Tác động của FDI..................................................................................23
1.2.3.1. Đối với nước chủ đầu tư..................................................................23
1.2.3.2. Đối với nước nhận đầu tư................................................................23
1.2.4. Các hình thức thu hút FDI vào một quốc gia........................................25


1.2.4.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( Contractual Business Co –
Operation)........................................................................................25
1.2.4.2. Doanh nghiệp liên doanh ( Joint – Venture enterprise):..................25
1.2.4.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign capital
enterprise):.......................................................................................26
1.2.4.4. Các hình thức BOT, BTO, BT.........................................................26
1.3. Thu hút FDI vào KCN ..........................................................................27
1.3.1. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút FDI vào các KCN.......................27
1.3.2. Nội dung của quá trình thu hút FDI vào KCN .....................................28
Chương 2. Thực trạng thu hút FDI vào Khu Công nghiệp ở Việt Nam hiện nay
.........................................................................................................................29
2.1. Đặc điểm tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam...........................29
2.1.1. Thuận lợi:..............................................................................................29
2.1.1.1. Đối với trong nước:..........................................................................29
2.1.1.2. Đối với ngoài nước:.........................................................................31
2.1.2. Khó khăn – Thách thức.........................................................................31
2.1.2.1. Ở trong nước:...................................................................................31
2.1.2.2. Ở ngoài nước:...................................................................................32
2.2. Thực trạng thu hút FDI vào các KCN Việt Nam thời gian qua ...........33
2.2.1. Quy mô và tốc độ thu hút FDI vào các KCN........................................33
2.2.2. Quy mô bình quân một dự án FDI........................................................35
2.2.3. Tỷ lệ lấp đầy diện tích KCN.................................................................36
2.3. Công tác quản lý nước ngoài về ĐTNN................................................37
2.3.1. Công tác xây dựng pháp luật, chính sách: ............................................37
2.3.2. Về công tác điều hành cụ thể:...............................................................40
2.3.3. Về công tác xúc tiến đầu tư và hợp tác quốc tế:...................................41
2.4. Đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các KCN Việt Nam....................42
2.4.1. Ưu điểm trong thu hút FDI vào các KCN.............................................42
2.4.1.1. Về hoạt động đầu tư nước ngoài:.....................................................42
2.4.1.2. Về quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các dự án FDI trong các

KCN...................................................................................................43
2.4.2. Tồn tại trong thu hút FDI vào các KCN................................................43
2.5. Nguyên nhân và các tồn tại...................................................................45
2.5.1. Nguyên nhân khách quan .....................................................................45
2.5.2. Nguyên nhân chủ quan:.........................................................................45
Chương 3 Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào KCN Việt Nam trong
thời gian tới.....................................................................................................48
3.1. Một số vấn đề trong xây dựng , phát triển và phương hướng hoàn thiện
các KCN ở Việt Nam ...........................................................................48
3.2. Mục tiêu , triển vọng phát triển và thu hút FDI vào các KCN đến 2010
...............................................................................................................53
3.3. Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào các KCN Việt Nam trong thời
gian tới...................................................................................................55
3.3.1. Tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư vào
KCN......................................................................................................55
3.3.1.1. Đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các KCN ....................55
3.3.1.2. Áp dụng các biện pháp tăng sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư....57
3.3.1.3. Nâng cao chất lượng quy hoạch và danh mục dự án gọi vốn FDI ..57
3.3.1.4. Đa dạng hoá và đổi mới các phương thức tổ chức xúc tiến ............58
3.3.1.5. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư.........61
3.3.1.6. Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền về đầu.........62
3.3.2. Cải cách hành chính, nhanh chóng áp dụng cơ chế một cửa một dấu tại
chỗ, tạo môi trường đầu tư thuận lợi.....................................................62
3.3.3. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với KCN..........................63
3.3.4. Tham gia tích cực và chủ động hơn vào các chương trình xúc tiến đầu
tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực...............................64
3.3.5. Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN.......................................65
3.3.6. Cải thiện cơ sở hạ tầng tại KCN............................................................65
3.3.7. Sử dụng đất và tình trạng ô nhiễm môi trường ở các KCN..................65
Kết luận ..........................................................................................................67

Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................68
Phụ lục
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á
AIA: Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN investment area)
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of the south east
Asian nations)
ASEM: Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu
BTA: Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ
CNH, HĐH:Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
Eu: Liên minh Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
FPI : Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment)
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GATS: Hiệp định về thương mại dịch vụ
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund)
JETRO: Cơ quan xúc tiến thương mại Nhật Bản
KCN: Khu công nghiệp
KCNC: Khu công nghệ cao
KCX: Khu chế xuất
MNCs: Các công ty đa quốc gia (Multinational Corporrations)
NICs: Các nước công nghiệp mới (Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,
Hồng Kông), (Newly Industrial Countries)
NGO: Tổ chức phi chính phủ NGO
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

TRIPS Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến tm và quyền sở hữu trí
tuệ
TNCs: Các công ty xuyên quốc gia
R&D: Nghiên cứu và triển khai
UNCTAD: Uỷ ban thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc
UNIDO Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc UNIDO
WB: Ngân hàng thế giới
WEPZA: Hiệp hội các KCX thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SỞ ĐỒ HÌNH VẼ
Bảng 1.1. Khác biệt giữa KCN và KCX
Bảng 2.1. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đến tháng 12 năm 2006
Bảng số 2.2. Quy mô bình quân một dự án FDI trong KCN
Bảng 2.3. Cơ cấu KCN theo tỷ lệ lấp đầy
Bảng 3.1. Quy hoạch phát triển KCN đến năm 2010 của các vùng trên cả
nước
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Việc phát triển các KCN trở thành một trong những phương thức huy động
vốn và khai thác có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, vốn khoa học công nghệ, trình
độ tổ chức quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài vào quá trình phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tạo ra bước ngoặt
cho sự phát triển của quốc gia trong hơn 15 năm qua, đồng thời từng bước
góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu chiến lược của đất nước trong
thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, , thì hoạt động thu
hút vốn FDI vào phát triển các KCN ở Việt Nam đã bộc lộ không ít những tồn
tại, bất cập. Đó là: Việc thu hút FDI vào các KCN trong vài năm gần đây có
xu hướng chậm lại chưa đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá. Vấn đề đặt ra là cần phải đánh giá đúng những thành công, những tồn tại,
bất cập trong việc thu hút FDI vào các KCN ở nước ta thời gian qua và tìm ra

những nguyên nhân của các tồn tại, bất cập ấy thì mới có giải pháp đúng để
giải quyết những bất cập cơ bản trong tình hình hiện nay của Việt Nam nhằm
nâng cao hiệu quả của thu hút FDI vào các KCN.
Từ vấn đề cấp thiết đó, Khoá luận này sẽ đi vào nghiên cứu đề tài “ Một số
giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN ở Việt Nam”
2- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI vào KCN của
Việt Nam
Đánh giá thực thực trạng thu hút FDI của Việt Nam và KCN thời gian
qua và đưa ra các vấn đề tồn tại cần phải tiếp tục hoàn thiện
Đề suất hệ thống giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI ở Việt Nam
và KCN thời gian qua.
3- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thu hút FDI trong KCN ở Việt
Nam. (KCN không kể khu chế xuất, khu công nghệ cao, đặc khu kinh
tế, khu kinh tế mở và kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam)
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung chủ yếu nghiên cứu theo cách tiếp cận quản lý vĩ mô
+ Thời gian từ 1990
4- Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng: Biện chứng, lịch sử, tổng hợp
và phân tích thống kê, xây dựng mô hình, kế thừa có cân nhắc, phân tích
khách quan những kết quả nghiên cứu khác của các tác giả trong nước và
nước ngoài.
5- Kết cấu của đề tài
Tên đề tài:
“Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN ở Việt
Nam”
Đề tài dài X trang, ngoài phần mở đầu, kết luận, 5 bảng biểu, X phụ lục và
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài được bố cụng thành 3

chương sau:
Chương 1. Lý luận chung về FDI và Khu Công nghiệp ở Việt Nam.
Chương 2 Thực trạng thu hút FDI vào Khu Công nghiệp ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3 Một số giải pháp tăng cường thu hút FDI vào KCN Việt Nam
trong thời gian tới.

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ FDI VÀ KHU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM.
1.4. Một số vấn đề lý luận cơ bản về KCN
1.4.1. Khái quát về KCN và định nghĩa KCN.
Từ cuối thế kỷ XIX các KCN bắt đầu được hình thành và phát triển.
Năm 1896, KCN đầu tiên trên thế giới được hình thành ở Trafford Park thành
phố Manchester, nước Anh. Tiếp theo Anh, các nước khác lần lượt thành lập
các KCN như Hoa Kỳ 1899, Italy 1904, Puerto Rico 1947 và sau những năm
50 thì sự tăng trưởng các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Nếu như năm 1940 ở
Mỹ mới có 33 KCN thì đến năm 1959 con số này đã là 452 và đến năm 1970
số KCN đã lên đến 2.400. Với Châu Á, KCN đầu tiên được thành lập ở
Singapore vào năm 1951, ở Malaysia 1954 và ở Ấn Độ 1955. Hiện nay ở khu
vực Châu Á có trên 1000 KCN đang hoạt động. Như vậy, lịch sử hình thành
và phát triển các KCN trên thế giới đã trên 100 năm. Ở Việt Nam, KCN đầu
tiên được thành lập vào năm 1991 tại thành phố Hồ Chí Minh, đó là KCX Tân
Thuận.
Về mặt lý thuyết KCN thành lập nhằm mục đích thiết lập những điều
kiện, yếu tố thuận lợi về mặt pháp lý và hạ tầng kỹ thuật trên một địa bàn hạn
chế phù hợp với khả năng về tài chính, quản lý, là một sách lược khôn khéo,
linh hoạt và có ý nghĩa về phương diện vận dụng lý thuyết kinh tế vào thực
tiễn các quan hệ kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Phát triển KCN
được xác định trên nền tảng lý thuyết kinh tế của trường phái tư do mậu dịch
trong thương mại quốc tế. Lý thuyết này đưa ra hai căn cứ chứng minh cho

hiệu quả tích cực của việc mở rộng trao đổi thương mại quốc tế và hợp tác
kinh tế giữa các nước nói chung và giữa hai nhóm nước chậm phát triển và
phát triển nói riêng.
Thứ nhất, nhờ có sự hợp tác và trao đổi như vậy, các nước chậm phát
triển có khả năng khai thác những lợi thế so sánh và nguồn lực của mình vào
quá trình phát triển kinh tế. Tài nguyên thiên nhiên và lao động chính là
những nguồn lực mà các nước này có và muốn khai thác.
Thứ hai, Theo học thuyết về lợi thế so sánh của D. Ricardo, một nước
có năng suất lao động không cao vẫn có thể có lợi khi phân công vào lao động
quốc tế. Những lợi thế mà các nước có thể phát huy được khi sử dụng hình
thức KCN có thể là vị trí địa lý kinh tế và kinh doanh thuận lợi cho sản xuất
và buôn bán quốc tế, ưu thế về tay nghề và giá trị lao động đối với việc sản
xuất và khả năng chuyên môn hoá để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của thế
giới về một số mặt hàng nhất định… Trong bối cảnh các hoạt động kinh tế
trên thế giới đang được “toàn cầu hoá” việc tính toán đến và lợi dụng các lợi
thế của mỗi quốc gia ngày càng trở nên cấp thiết, bởi vì nếu chậm trễ thì
chúng sẽ không còn là lợi thế nữa.
KCN tạo ra những điều kiện có thể lợi dụng và phát huy nhanh chóng
các lợi thế so sánh của một nước hay một vùng bằng cách tham gia tích cực
vào phân công lao động quốc gia hay quốc tế. Rõ ràng xét về mặt lợi ích và
hiệu quả kinh tế theo nguyên lý về lợi thế so sánh, KCN là nơi hội tụ về
quyền lợi của các nước đang phát triển và các Công ty xuyên quốc gia, Tổ
chức nắm giữ phần lớn nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hiện nay trên
thế giới.
KCN là mô hình kinh tế linh hoạt, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài
(đối tượng chủ yếu đầu tư vào KCN), vì họ hi vọng vào thị trường nước đầu
tư, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình, tạo
lên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước từ đó không những nâng
cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập
khẩu lậu từ bên ngoài.

Với cách tiếp cận trên và quá trình hình thành KCN cho phép tổng hợp
một số định nhĩa về KCN như sau:
Thứ nhất, KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt cho những
điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi
đầu tư được áp dụng. Đây sẽ là địa bàn lý tưởng cho các nhà đầu tư cho các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Thứ hai, KCN là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ thống
theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa điểm cho các ngành công
nghiệp với hạ tầng cơ sở, tiện ích công cộng và các dịch vụ hỗ trợ phát triển.
các nước như Thái Lan, Philipin quan niệm KCN như một thành phố công
nghiệp vì ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng
hoàn chỉnh và sử lý chất thải, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ
ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, nhà ở cho công
nhân…
Thư ba, Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo nghị
định số 36/CP ngày 24/4/1997, KCN là “Khu tập trung các doanh nghiệp
chuyên sản xuất công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;
Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Thực tế khái niệm này mới chỉ
được hiểu theo nghĩa hẹp. Điều này dẫn đến một thực tế là nhiều KCN được
xây dựng thiếu tính đồng bộ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc và hiệu
quả kinh tế xã hội của các khu công nghiệp thấp. Vì vậy, khái niệm trong
Nghị định 36/CP cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế nước ta
và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ đó, có thể rút ra một số kết luận như sau về KCN:
- KCN là lãnh thổ hữu hạn được phân cách bằng đường bao hữu
hình hoặc vô hình.
- Được phân bố tập trung với hạt nhân là các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp (hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến, tư liệu
sản xuất) và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và

doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
- Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất
công nghiệp sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một
cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của ban quản lý KCN.
1.4.2. Phân biệt KCN với KCX.
KCN được thành lập trên cơ sở nước chủ nhà tạo những điều kiện, yếu tố
thuận lợi về pháp lý và hạ tầng kỹ thuật trên một địa bàn hạn chế phù hợp với
khả năng về tài chính, quản lý để thu hút đầu tư của các nước phát triển, đặc
biệt là các Công ty xuyên quốc gia. KCX với tính chất là khu vực chuyên sản
xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước.
Các tổ chức, quốc gia trên thế giới có thể có cách hiểu không hoàn toàn giống
nhau về KCX như:
Định nghĩa của hiệp hội các KCX thế giới (WEPZA): Theo điều lệ hoạt
động của WEPZA, KCX bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ các
nước cho phép, như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kỳ
khu vực ngoại thương nào hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định
nghĩa này về cơ bản đồng nhất KCX với khu vực miễn thuế.
Định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO):
KCX là khu vực được giới hạn về hành chính, có danh giới địa lý xác định,
được hưởng một chế độ thuế quan cho phép được tự do nhập trang thiết bị và
sản xuất nhằm mục đích sản xuất sản phẩm. Chế độ thuế quan được ban hành
cùng với những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu
tư nước ngoài.
Định nghĩa của Việt Nam: Theo quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành
kèm theo Nghị định 36 CP ngày 24 tháng 4 năm 1997, KCX là khu chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu
và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Xét về bản chất KCX cũng là một loại hình KCN, tuy nhiên giữa hai khái
niệm này cũng có một số khác biệt:

Bảng 1.1. Khác biệt giữa KCN và KCX
Khác biệt KCX KCN
Mục tiêu
thành lập
Nhằm thu hút đầu tư của nước
ngoài
Nhằm thu hút cả đầu tư nước
ngoài và đầu tư trong nước
Chế độ ngoại
thương
Ưu đãi, miễn giảm thuế Theo khuôn khổ chế độ mậu
dịch và thuế quan chung của
mỗi quốc gia
Cấu trúc tổ
chức
Chỉ gồm doanh nghiệp sản xuất
và dịch vụ sản xuất hàng xuất
khẩu
Trong KCN có doanh nghiệp
chế xuất và KCN
Tính chất
hoạt động
Khu vực chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu
Khu vực vừa sản xuất hàng xuất
khẩu và sản xuất hàng bán vào
nội địa
Có thể thấy rằng, KCN là một trong những công cụ đểtạo ra thể chê
thương mại tự do cho các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. Theo các
chuyên gia kinh tế, trong thời gian qua ở các nước Châu Á như Đài Loan,

Hàn Quốc, Singapore, Malaixia, Trung Quốc… KCX, đặc khu kinh tế được
thành lập nhiều và thu được nhiều thành công, do các nước này có lực lượng
lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, lại nằm trên các tuyến đường hàng hải nối
liền các cảng và trung tâm thương mại sôi động bậc nhất thế giới. Tuy nhiên,
KCX ở một số nước đang phát triển khác lại gặp nhiều khó khăn, do các
nguyên nhân sau:
- Mật độ KCX được thành lập ở các nước có điều kiện kinh tế xã
hội, địa lý giống nhau, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt thu hút
FDI.
- Hy vọng của các nước thành lập KCX là để tăng kim ngạch
xuất khẩu, tạo được nhiều công ăn việc làm, lợi dụng được kỹ
thuật nước ngoài, tạo tác dụng lan toả các khu vực khác trong
nước, nhưng thực tế thành quả đạt được rất hạn chế.
- Mâu thuẫn giữa tăng xuất khẩu, thu ngoại tệ và bảo hộ sản xuất
trong nước.
Vì vậy, để khắc phục những hạn chế của mô hình KCX cổ điển,
nhiều nước đã chuyển sang phát triển mô hình KCN.
1.4.3. Mô hình và phân loại KCN
Thực tiễn kinh tế thế giới trong xu thế toàn cầu hoá cùng với điều kiện
cụ thể của mỗi quốc gia với sức ép của thời đại, thế giới ngày nay đã định
hình ra các mô hình KCN khác nhau, các mô hình KCN này có những đặc
điểm chung và các đặc điểm riêng, song danh giới giữa chúng rất mỏng manh,
dễ sử dụng lẫn nhau. Tuy nhiên, xét về quy mô và tính chất hoạt động, KCN
có thể phân ra thành các nhóm sau:
Phân theo quy mô: có hai loại
- KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên
- KCN vừa và nhở: có quy mô nhỏ hơn 50 ha
Phân theo chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN có 3 loại:
- KCN có doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài làm chủ
đầu tư. Vd: KCN Hà Nội – Đài tư ( Hà Nội).

- KCN do liên doanh giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Đặc trưng của các KCN
này là được xây dựng hiện đại có quy mô thường lớn hơn 100
ha, xuất đầu tư bình quân 1 triệu USD/ha. Thường ở các KCN
này khi xây dựng hoàn chỉnh mới cho các nhà đầu tư thuê xây
dựng hạ tầng. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Nomura
(Hải Phòng), KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Đà Nẵng (Đà
Nẵng)…
- KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư, Đặc trưng
của các KCN này thường được xây dựng theo hình thức cuốn
chiếu ( xây dựng đến đâu cho các nhà đầu tư thuê sau đó mới
tiếp tục xây dựng tiếp), xuất đầu tư của các KCN này bình quân
120.000 USD/ha. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Tiên
Sơn (Bắc Ninh), KCN Lệ Môn (Thanh Hoá), KCN Bắc Vinh
(Nghệ An)…
Phân theo mục đích phát triển KCN, có các hình thức sau:
- KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài thường tập trung ở các
Thành phố lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Quy mô
thường lớn hơn 100 ha.
- KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố,
đô thị lớn. Thường tập trung ở các Thành phố lớn, có quy mô
nhỏ hơn 100 ha. Vd: KCN Phú Thịnh (Hà Nội), KCN Thanh
Trì (Hà Nội)…
- KCN gắn với ưu thế địa phương, thường có quy mô nhỏ hơn
100 ha, gắn với lợi thế địa phương và chế biến các nông sản,
thực phẩm do địa phương đó sản xuất ra. Điển hình ở Việt Nam
có các khu: KCN Tiền Hải (Thái Bình), KCN Tâm Thắng (Đắc
Lắc)…
Phân theo đặc điểm ngành công nghiệp:
- KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế

tạo như: KCN Phú Mỹ I (Bà Rịa – Vũng Tàu) tập trung các dự
án về thép, phân bón, điện, khí…
- KCN tập trung các nghành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng
tiêu dùng sản xuất các sản phẩm: may mặc, đầu tư, dự án –
giày, xe máy… Như KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), KCN Đông
An (Bình Dương).
- KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ, chuyên sản xuất
các sản phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như bao bì,
đóng gói… KCN Bình Đường (Bình Dương)
- KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: gồm các ngành công
nghiệp chế biến sản phẩm công nghiệp, sản xuất các sản phẩm
hỗ trợ cho nghành nông nghiệp và nông thôn. Như KCN Phúc
Khánh (Thái Bình), Tân Thắng (Đắc Lắc)…
Phân theo trình độ công nghệ hoá:
- KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
thấp và trung bình tương đương với trình độ công nghệ của các
doanh nghiệp công nghiệp ngoài khu. Như KCN Bình Đường
(Bình Dương), KCN Lê Minh Xuân (TP HCM)…
- KCN tập trung các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá cao
so với các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt mức
trung bình trong khu vực. KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Sài
Đồng B (Hà Nội)…
- KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
khá cao so với khu vực như KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN
Vĩnh Lộc (TP HCM)…
- KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
tiên tiến so với khu vực và thế giới. Như KCN Nomura (Hải
Phòng)…
1.4.4. Sự cần thiết khách quan phát triển KCN ở Việt Nam
1.4.4.1. Sự cần thiết tất yếu phát triển KCN ở Việt Nam

Nền kinh tế nước ta đang vận hành trong một hệ trục toạ độ mà chiến
lược CNH, HĐH chính là trục tung và hội nhập nền kinh tế toàn cầu là trục
hoành. Càng nhanh chóng CNH, HĐH đất nước thì càng sẵn sang hội nhập
nền kinh tế thế giới, hội nhập nhanh, chủ động và có lợi thế hơn. Mặt khác
càng hội nhập toàn cầu hoá sâu rộng thì càng có điều kiện thuận lợi để CNH,
HĐH nhanh, vững chắc và hiệu quả. Phát triển KCN là một giải pháp tổng
hợp, mang tính toàn diện để giải quyết đồng thời các yêu cầu về vốn, lao
động, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý, là con đường tối ưu để tiến tới
mục tiêu trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghã xã hội. Do đó, bằng
việc phát triển KCN, chúng ta có thể rút ngắn và đẩy nhanh tiến trình CNH,
HĐH.
Mặt khác, chúng ta đang thực hiện CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, nên sự vận động của tất cả các thành phần
kinh tế trên các lĩnh vực của nền kinh tế không thể tách rời xu thế này. Đồng
thời, để nền kinh tế phát triển vững chắc, bên cạnh việc hội nhập kinh tế quốc
tế một cách chủ động, chung ta cần đảm bảo tính độc lập trong phát triển kinh
tế, có một đường lối phát triển riêng được xây dựng trên cơ sở điều kiện thực
tế của đất nước. Phát triển KCN có thể thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu
trên. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất là KCN được hiểu là một vùng lãnh thổ đặc biệt có những
điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng sẵn có cùng với nhiều chính sách ưu đãi
đầu tư được áp dụng. Đây sẽ là nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư, trong
đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài vào
KCN, các công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, trình độ quản lý của đội
ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các
chuẩn mực quốc tế sẽ được du nhập vào Việt Nam. Đây cũng chính là các
nhân tố góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực chất của toàn cầu hoá quá trình phân công lao động trên phạm vi quốc tế
theo hướng chuyên môn hoá và tập trung hoá. Phát triển KCN chính là một
cách để chúng ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế.

Thứ hai là KCN là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi và nhiều ưu đãi,
đồng thời cũng được quản lý chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật. Tại KCN, các
nhà đầu tư vừa được tự do kinh doanh vừa phải tuân thủ chặt chẽ pháp luật
Việt Nam. Qua hoạt động của các doanh nghiệp KCN trong và ngoài nước,
KCN thiết lập các mối liên kết kinh tế theo vùng, theo ngành trên phạm vi
trong nước và quốc tế, từ đó giúp chúng ta khai thác các nguồn lực sẵn có,
phát huy được những lợi thế so sánh, đồng thời huy động được các nguồn lực
từ bên ngoài để phát triển kinh tế. Như vậy, với mô hình KCN, chúng ta vừa
phat huy được các yếu tố nội lực, vừa tận dụng được các yếu tố bên ngoài để
phát triển. KCN đảm bảo cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực mà vẫn giữ được thế chủ động và độc lập của nền kinh tế đất nước.
Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, chúng ta chưa thể có ngay được
một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ trên cả nước, chưa thể tạo ra
một mặt bằng thống nhất và bình đẳng cho các thành phần kinh tế trong và
ngoài nước hoạt động, phát triển KCN là một giải pháp để có được một hệ
thống kết cầu hạ tầng đồng bộ, môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất để
thu hút vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Đặc biệt, trong
thời gian gần đây, quan điểm về phát triển KCN có sự thay đổi: phát triển
KCN không chỉ chú trọng vào mục tiêu thu hút vốn FDI nhằm du nhập các
yếu tố vốn, công nghệ, trình độ công nghệ của thế giới vào Việt Nam, xen kẽ
khu vực trong nước, mà KCN còn là một giải pháp để thực hiện chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong
nước, thông qua việc thu hút các doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư
vào KCN. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là dòng vốn đầu tư trong
nước vào KCN trong vài năm gần đây ngày càng gia tăng.
KCN à mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Ở các
nước phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, có một thời kỳ các nước này đã đẩy
mạnh việc phát triển các KCN và rất chú trọng vai trò của KCN trong quá
trình phát triển kinh tế. Kinh nghiệm triển khai mô hình KCN ở các nước này
cho thấy, phát triển KCN là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp quốc gia. Có thể nói thành công của các
KCN đã góp phần không nhỏ để các nước này trở thành những nước có nền
kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước công nghiệp mới phát triển (NICs)
như Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như các nước đang phát triển ở Đông Nam
Á hiện nay cũng đang triển khai việc xây dựng và phát triển các KCN, khu
kinh tế và đều gặt hái được những thành công đáng kể.
Tóm lại, thành công của KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước
đầu được khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh
tién trình CNH, HĐH đất nước. KCN là nới tập trung các nguồn lực để phát
triển kinh tế, là nơi diễn ra sự phân công lao động xã hội ở trình độ cao, thực
hiện các mối liên kết kinh tế quốc tế. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế
kinh tế thế giới, phù hợp với chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước của đảng
và nhà nước ta.
1.4.4.2. Vai trò của KCN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, các KCN đang từng bước thể hiện
rõ vai trò không thể thay thế của nó trong tiên trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. các KCN trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc hiện
đại hoá vào hệ thống kết cấu hạ tầng, thúc đẩy sự phát triển ngành công
nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vai trò của KCN thể
hiện ở các khía cạnh sau:
a. KCN huy động một lực lượng vốn lớn từ nhiều nguồn để phát triển
kinh tế.
Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam cho thấy nhân ttó hàng đầu, nếu không nói
là quan trọng nhất đối với CNH, HĐH cũng như đối với sản xuất kinh doanh
của nền kinh tế là phải có vốn lớn. Muốn cho sự nghiệp CNH, HĐH được tiến
hành với tốc đọ nhanh cần phải có cơ chế, chinh sách và biện pháp huy động
được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất. KCN đi
liền với nó là một hệ thống các cơ chế chính sách thu hút đầu tư tương đối
đồng bộ, trong những năm qua đã huy động được một lượng vốn rất lớn cho

nền kinh tế. Tác dụng huy động vốn của KCN được thể hiện ở hai mặt:
Trước hết là huy động vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước, đây là nguồn
vốn có tính chất quyết định, là nhân tố nội lực. Những năm đầu xây dựng
KCN, do chưa nhận thức được tầm quan trọng của KCN trong việc huy động
nguồn vốn bên trong, chúng ta đã xem nhẹ việc thu hút các doanh nghiệp
trong nước đầu tư vào KCN. Điều nay có thể thấy rõ ở số dự án và tổng vốn
đầu tư của thành phần kinh tế trong nước vào KCN trong thời gian này còn rất
hạn chế. Chỉ vài năm gần đây, vai trò của khu vực trong ước mới được chú
trọng, dòng vốn đầu tư trong nước trong KCN tăng đáng kể, số dư án trong
nước trong các KCN hai năm gần đây đã vượt so với khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài. Đến tháng 4 năm 2006, các KCN cả nước thu hút được hơn 2.400
dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 116.000 tỷ đồng. Kết quả
này cho thấy rõ tiềm lực của khu vực kinh tế trong nước và là kết quả của chu
trương phát huy nội lực để xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta.
Thứ hai là huy động vốn của của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Trong
điều kiện nền kinh tế tích luỹ nội bộ càn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu
tư nước ngoài là rất quan trọng. KCN là một giải pháp hữu hiệu nhăm huy
động vốn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế từ khi xây
dựng khu công nghiệp cho đến nay, số dự án và tổng vón đầu tư nước ngoài
vào khu công nghiệp không ngừng ra tăng và chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong
tổng vốn FDI đầu tư trên cả nước. Tổng số dự án FDI trong KCN đến tháng 4
năm 2006 là hơn 2.200 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 17,7 tỷ
USD. Có thể nói, KCN là nơi chính sách ưu đãi đối với khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài được thể hiện rõ nét nhất, các nhà đầu tư nước ngoài nhìn chung
cảm thấy yên tâm hơn khi đầu tư vào KCN, bởi lẽ trong KCN có một hệ
thống kết cấu hạ tầng hiện đại và sẵn có, một môi trường pháp lý thuận lợi và
thống nhất, là nơi cơ chế “một cửa, tại chỗ” được thực thi rõ rang nhất. đây
chính là những lợi thế chủ yếu để thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào KCN.
b. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới,

góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Có được những đóng góp nêu trên phải kể tới vai trò to lớn của khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN. Cùng với dòng vốn của khu vực
có FDI vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư nước
ngoài còn đưa vào Việt Nam những dây truyền sản xuất với công nghệ tiên
tiến, hiện đại. Mặc dù nhiều công nghệ so với trình độ công nghệ trên thế giới
còn ở mức trung bình, nhưng cũng phần nào nâng cao trình độ công nghệ hiện
có của Việt Nam. Đó là chưa kể tới những dự án công nghiệp kỹ thuật cao
(phần lớn của Nhật Bản) đầu tư vào KCN, như Công ty TNHH Canon Việt
Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel…, các dự án này đã du nhập vào Việt
Nam những công nghệ hiện đại nhất trên thế giới, ở những lĩnh vực mà chúng
ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện
tử…
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp. Về mặt lượng, đương nhiên KCN góp phần nâng cao tỷ trọng ngành
công nghiệp trong tổng GDP của các ngành kinh tế tạo ra trong cả nước, tỷ
trọng giá trị sản xuất công nghiệp do các doanh nghiệp KCN tạo ra luông tăng
qua các năm, từ 13% năm 2000 lên 26,4% năm 2004 và năm 2005 đạt 28%.
Nhưng quan trọng hơn, về mặt chất, KCN đã thu hút được các dự án có hàm
lượng vốn lớn, công nghệ cao như dầu khí, sản xuất ô tô, xe máy, dụng cụ văn
phòng, cơ khí chính xác, vật liệu xây dựng… Mặc dù số lượng các dự án này
trong KCN còn ít (chiếm khoảng 5-10% số dự án), nhưng cũng góp phần phát
triển những ngành nghề mới, đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề công nghiệp.
Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp nhẹ
như dệt may, dự án giày… và công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm trên
50% tổng số dự án), đây là dự án thu hút nhiều lao động và có tỷ lệ xuất khẩu
cao. Các ngành công nghiêp nhẹ, chế biến thực phẩm là những ngành truyền
thống, đã có từ lâu ở nước ta, nhưng các dự án trong KCN đã góp phần nâng
cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ, chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, phải kể tới đóng góp của KCN vào nâng cao tỷ trọng các ngành

dịch vụ công nghiệp như dịch vụ tư vấn, thiết kế xây dựng, bảo hiểm, bưu
chính viễn thông… Đây là những dịch vụ có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn
quốc tế và có giá trị gia tăng khá, đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tóm lại, KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, cả về mặt chất và lượng. Mặc dù có sự bất hợp lý trong cơ cấu ngành
nghề công nghiêp, tỷ trọng các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp kỹ
thuật cao còn thấp và còn tồn tại những hậu quả do các công nghệ chưa được
hiện đại du nhập vào công nghiêp nhưng đóng góp của KCN vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế đất nước là không thể phủ nhận.
c. KCN đã tạo ra một lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao, thích
ứng với nền công nghiệp hiện đại; một đội ngũ cán bộ có trình độ quản
lý giỏi.
Đảng và nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn ở vị trí trung tâm
trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Không thể phủ nhận rằng
người lao động Việt Nam rất tháo vát, nhạy bén, thích ứng mau lẹ với mọi
hoàn cảnh biến động của nền kinh tế thị trường và có khả năng nắm bắt
những kỹ thuật mới để sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Nhưng với yêu cầu
của sự nghiệp CNH, HĐH thì chất lượng của người lao động Việt Nam còn
thấp do chưa có một nền tảng giáo dục tốt.
Phát triển KCN để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những mục
tiêu quan trọng của nước ta. Mặc dù việc thu hút nguồn nhân lực làm việc
chưa phải là lớn, hiện hơn 850.000 người, nhưng điều quan trọng là số lao
động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, được trực tiếp làm việc trong
một môi trường làm việc có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện
được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc thích ứng với một nền công nghiệp
tiên tiến, hiện đại. Các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI
đã đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp tiên tiến, có tác động lan toả và
nâng cao nền tảng trình độ lao động của đội ngũ lao động Việt Nam.

×