Danh mục viết tắt
SGK: Sách giáo khoa
NXB: Nhà xuất bản
ĐHSP: Đại học Sư phạm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
3. Mục đích nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phạm vi nghiên cứu 5
6. Phương pháp nghiên cứu …………………………………… ………………5
7. Giả thuyết khoa học 6
8. Những đóng góp của khóa luận 6
9. Cấu trúc khóa luận 6
NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 8
1.1. Cơ sở lí luận 8
1.1.1. Đọc và đọc diễn cảm ở nhà trường Tiểu học 8
1.1.2. Cơ sở tâm lí, sinh lí của việc dạy đọc 15
1.1.3. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc 18
1.2. Cơ sở thực tiễn 21
1.2.1. Khảo sát chương trình sách lớp 4 21
1.2.2. Thực trạng của giáo viên lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố
Sơn La - tỉnh Sơn La 23
1.2.3. Thực trạng dạy - học đọc diễn cảm ở lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh -
thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La 25
Tiểu kết 32
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC DIỄN
CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƢỜNG TIỂU HỌC CHIỀNG SINH -
THÀNH PHỐ SƠN LA - TỈNH SƠN LA 33
2.1. Rèn luyện kỹ năng đọc đúng cho học sinh 33
2.2. Rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh 36
2.2.1. Hướng dẫn học sinh cách xác định và thể hiện giọng đọc cho phù hợp với
văn bản 37
2.2.2. Rèn luyện kỹ năng thể hiện ngữ điệu khi đọc 39
2.2.3. Sử dụng đồ dùng trực quan 43
Tiểu kết 50
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM 51
3.1. Mục đích thực nghiệm 51
3.2. Đối tượng, thời gian và địa bàn thực nghiệm 51
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm 51
3.2.2. Thời gian và địa bàn thực nghiệm 51
3.3. Nội dung, phương pháp thực nghiệm 51
3.4. Kết quả thực nghiệm 59
Tiểu kết 61
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Như chúng ta đã biết, giáo dục bậc Tiểu học là một khoa học giáo dục
khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển, đặc
biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các môn học ở trường, nó
hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho học sinh tiếp thu
và học các môn học khác.
Ở cấp Tiểu học, khi dạy môn Tiếng Việt chủ yếu tập trung rèn cho học
sinh bốn kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết; trong đó đọc là một hoạt động
quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với học sinh tiểu học. Các kỹ năng đó được
thực hiện bắt đầu từ lớp 1 đến lớp 5 và nâng dần từ thấp đến cao. Đối với mỗi
người, giao tiếp bằng chữ viết chỉ được thực hiện khi bắt đầu biết đọc. Đó là yêu
cầu cơ bản đầu tiên đối với mỗi học sinh khi bước vào Tiểu học.
1.2. Đọc giúp học sinh chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp
và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác, nó tạo ra hứng thú và
động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần
học tập cả đời, nó là một khả năng không thể thiếu được của con người trong
thời đại văn minh. Đọc giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng
yêu cái thiện và cái đẹp. Các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết tư
duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm
vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
1.3. Dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học thực chất là giao tiếp bằng ngôn ngữ
qua hệ thống câu hỏi và bài tập. Việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh tiểu học là
một yêu cầu quan trọng cần thiết. Đọc đúng, đọc diễn cảm là kỹ năng cơ bản mà
người giáo viên cần giúp học sinh đạt được. Kỹ năng và hình thức đọc gồm có
nhiều phương diện như: đọc đúng, đọc thầm, đọc lướt, đọc thành tiếng, đọc hiểu,
đọc diễn cảm; trong đó phương diện đọc diễn cảm là khó nhất đối với học sinh
tiểu học. Bởi lẽ, đọc diễn cảm là một hình thức đọc có tính đặc thù, nhằm rèn
luyện kỹ năng đọc và cảm thụ văn học của học sinh. Khi đọc diễn cảm, người
2
đọc chuyển văn bản “viết” thành văn bản “âm thanh” một cách trung thực, nhằm
truyền đến cho người nghe không chỉ nội dung thông tin mà còn cảm nhận được
giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của văn bản. Một người đọc diễn
cảm tốt tức là người đó đã truyền thụ được một phần nội dung và cảm xúc của
bài đọc tới người nghe mà chưa cần đến giảng giải. Đối với học sinh, khi đọc
diễn cảm các bài đọc trong chương trình các em sẽ được tiếp thu với ngôn ngữ
nghệ thuật và cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương. Như vậy, đọc diễn cảm
không chỉ đơn thuần thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc cả phạm trù văn
học, phạm trù nghệ thuật và thẩm mĩ.
1.4. Trong thực tiễn hiện nay thì kỹ năng đọc diễn cảm trong giờ dạy Tập
đọc ở trường Tiểu học là một yêu cầu cao. Đối với học sinh lớp 4 các giờ Tập đọc
đòi hỏi các em phải thể hiện năng lực đọc diễn cảm của mình, nhưng khi thể hiện
năng lực đó thì các em rất lúng túng thậm chí có em còn chưa đạt yêu cầu. Lí do
dẫn đến kết quả đó là do các em chưa có hoặc có rất ít về kỹ năng đọc diễn cảm.
1.5. Trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La là
trường có thuận lợi về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên giảng dạy nhiệt tình.
Nhưng học sinh của trường có số lượng học sinh dân tộc thiểu số tương đối
đông, nên khi áp dụng chương trình sách giáo khoa vào giảng dạy và học tập
còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, chất lượng đọc diễn cảm của học sinh trong
giờ Tập đọc chưa cao. Với những lí do trên và bằng sự hiểu biết của mình, đồng
thời dựa trên sự tiếp thu, học hỏi những thành tựu của các công trình nghiên cứu
khác, tôi mạnh dạn lựa chọn và thực hiện đề tài: “Rèn luyện kỹ năng đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh
Sơn La” với mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đọc và đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tập đọc là phân môn thực hành có nhiệm vụ quan trọng là hình thành
năng lực đọc cho học sinh. Cao hơn nữa là hình thành cho học sinh kỹ năng đọc
diễn cảm tức là đọc chính xác, rõ ràng, truyền cảm, có ngữ điệu đọc phù hợp với
nội dung của văn bản; sao cho người nghe cảm nhận đầy đủ giá trị nội dung và
3
giá trị nghệ thuật của văn bản. Vì vậy, việc vận dụng phương pháp, biện pháp
dạy đọc diễn cảm là vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Trong cuốn Phương pháp đọc diễn cảm của B.X.NAIDENOP, LIUKOKENHIUC,
R.R.MAIMAN, N.M.XOLOVEVA, TPH ZAVAIXKAIA đã đề cập đến phương
pháp dạy đọc diễn cảm với các tác phẩm văn học nhưng tác giả lại đề cập đến
phương pháp dạy đọc diễn cảm cho các cấp học chứ chưa đi sâu vào việc dạy
đọc diễn cảm ở Tiểu học.
Phương pháp dạy học tiếng Việt (giáo trình chính thức đào tạo giáo
viên Tiểu học hệ Cao đẳng sư phạm và sư phạm 12 + 2) của Lê A - Thành Thị
Yên Mĩ - Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Cao Đức Tiến. Trong cuốn này các
tác giả đã đưa ra được cơ sở lí luận và một số phương pháp dạy học Tập đọc
ở Tiểu học.
Trong cuốn Dạy học Tập đọc ở Tiểu học của tác giả Lê Phương Nga đã đi
sâu nghiên cứu về phân môn Tập đọc với các vấn đề lí luận chung, một số vấn
đề tổ chức dạy Tập đọc. Đồng thời tác giả đã đưa ra một số biện pháp để hình
thành và rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh. Đây là cơ sở quan trọng để giáo
viên vận dụng vào dạy Tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm
nói riêng cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
Phương pháp dạy Tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp Tiểu học (Tài liệu
đào tạo giáo viên) của dự án phát triển giáo dục Tiểu học(NXB giáo dục - NXB
ĐHSP - 2007) đã đề cập đến phương pháp dạy đọc diễn cảm đã quan tâm nghiên
cứu cơ sở khoa học của việc dạy đọc diễn cảm, nhưng chưa đề xuất các biện
pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
Trong cuốn Phương pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp Tiểu
học (Tài liệu bồi dưỡng giáo viên) của dự án phát triển giáo viên Tiểu học đã
nghiên cứu một số biện pháp và hình thức hướng dẫn học sinh trong giờ Tập
đọc. Đây là nhưng vấn đề có ý nghĩa thực tiễn có thể áp dụng vào dạy đọc - đọc
diễn cảm không chỉ với học sinh dân tộc thiểu số mà ngay cả với học sinh dân
tộc Kinh, thì những biện pháp này vẫn hoàn toàn có tác dụng tích cực.
4
Cuốn Rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt (giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu
học hệ Cao đẳng sư phạm và sư phạm 12 + 2). Tác giả Đào Ngọc - Nguyễn
Quang Ninh đã đưa ra kĩ thuật đọc ở các hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm.
Đây cũng là những gợi ý để chúng tôi đề xuất các biện pháp rèn luyện kỹ năng
đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh.
Trong cuốn Dạy lớp 4 theo chương trình Tiểu học mới của dự án phát
triển giáo viên Tiểu học đã đề cập đến những phương pháp, biện pháp chủ yếu
để dạy đọc diễn cảm lớp 4, trong đó chú trọng đến phương pháp đọc theo mẫu,
phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp sử dụng trò chơi học tập. Nhưng
mới chỉ đề cập đến vấn đề lí luận của phương pháp chưa hướng dẫn cụ thể.
Và còn nhiều công trình nghiên cứu khác nữa. Các công trình trên với các
hướng nghiên cứu về phương pháp đọc và đọc diễn cảm khác nhau, song đều
đưa đến những lí luận có tính thuyết phục cho dạy học Tập đọc nói chung và
đọc diễn cảm nói riêng. Đây là cơ sở quan trọng để chúng tôi đi sâu tìm hiểu và
đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La một cách hiệu
quả nhất.
3. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên những lí luận chung về dạy học Tập đọc và căn cứ vào đặc điểm
tâm lí, sinh lí của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh- Thành phố Sơn
La- Tỉnh Sơn La để đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả đọc diễn cảm
cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Sưu tầm tài liệu, tìm hiểu cơ sở lí luận dạy Tập đọc và rèn luyện kỹ năng
đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
- Điều tra khảo sát sách giáo khoa, thực trạng giáo viên hướng dẫn học
sinh đọc diễn cảm và thực trạng đọc diễn cảm ở lớp 4 trường Tiểu học Chiềng
Sinh.
- Khảo sát kỹ năng đọc diễn cảm của giáo viên và học sinh trường Tiểu
học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La.
5
- Bước đầu đề xuất, xây dựng một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh- thành phố Sơn La-
tỉnh Sơn La.
- Vận dụng các biện pháp hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm để xây dựng
một số giáo án mẫu.
- Thể nghiệm để khẳng định tính khả thi của đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài lựa chọn, khảo sát các bài Tập đọc có tính nghệ thuật trong
chương trình Tiếng Việt 4 theo chương trình hiện hành.
- Khảo sát thực tiễn dạy học Tập đọc và luyện đọc diễn cảm ở lớp 4
trường Tiểu học Chiềng Sinh- thành phố Sơn La- tỉnh Sơn La.
- Đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh- thành phố Sơn La- tỉnh Sơn La.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Tìm hiểu tài liệu, kết hợp phân tích, tổng hợp để xử lí tư liệu liên quan
đến vấn đề đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Thống kê, khảo sát thực tế bằng dự giờ, phiếu điều tra kết hợp với trò
chuyện, trao đổi trực tiếp với giáo viên ở trường Tiểu học Chiềng Sinh về biện
pháp đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4.
Tìm hiểu thực trạng đọc diễn cảm của học sinh lớp 4 trường Tiểu học
Chiềng Sinh- thành phố Sơn La- tỉnh Sơn La.
So sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp những vấn đề lí luận và thực tiễn
từ đó khái quát rút ra kết luận và đề xuất.
6.3. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê để xử lý số liệu.
6.4. Phương pháp thể nghiệm sư phạm
Thiết kế một số giáo án thể nghiệm và tiến hành dạy thể nghiệm.
6
7. Giả thuyết khoa học
Vấn đề rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 ở các trường
Tiểu học hiện nay vẫn còn chưa được chú trọng. Nhiều giáo viên chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh.
Nếu đề tài đề xuất được những biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm phù
hợp thì sẽ phát huy hiệu quả cao nhất kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh.
8. Những đóng góp của khóa luận
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lí luận và thực tiễn, xây dựng một
số biện pháp đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh-
thành phố Sơn La- tỉnh Sơn La.
Nếu đề tài được thực hiện thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu đối với sinh viên khoa Tiểu học - Mầm non nói riêng cho giáo viên
trường Tiểu học Chiềng Sinh - Sơn La để góp phần nâng cao hiệu quả đọc diễn
cảm cho học sinh, giúp giáo viên có những biện pháp để rèn luyện kỹ năng đọc
diễn cảm cho học sinh.
9. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa
luận gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Trong chương này chúng tôi đề cập đến cơ sở lí luận về: Đọc và đọc diễn
cảm ở nhà trường Tiểu học; yêu cầu của việc đọc diễn cảm; cơ sở tâm lí, sinh lí
và cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy đọc và cơ sở thực tiễn nhằm: khảo sát
chương trình sách lớp 4; thực trạng của giáo viên lớp 4 và thực trạng đọc diễn
cảm ở lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La.
Chương 2: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 4 trường Tiểu học Chiềng Sinh - thành phố Sơn La - tỉnh Sơn La.
Dựa trên những cơ sở đã nêu ở chương 1, ở chương này tôi mạnh dạn đề
xuất một số biện pháp để rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4
trường Tiểu học Chiềng Sinh - Sơn La để giúp các em có khả năng đọc diễn cảm
tốt hơn.
7
Chương 3: Thiết kế một số giáo án thể nghiệm
Ở chương này đề tài đi vào soạn một số giáo án thể nghiệm, dạy thể
nghiệm, kiểm tra đánh giá kỹ năng đọc diễn cảm của học sinh để khẳng định
tính khả thi của những biện pháp mà đề tài đề xuất.
8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đọc và đọc diễn cảm ở nhà trường Tiểu học
1.1.1.1. Đọc là gì?
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ
năng: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được
hình thành từ hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chất lượng của
đọc thầm bao gồm ba kỹ năng đầu là: đọc đúng, đọc nhanh và đọc hiểu. Rõ ràng
là đọc thành tiếng không thể tách rời với đọc đúng. Nhưng với kỹ năng đọc có ý
thức không được bộc lộ một cách trực tiếp, vì vậy có trường hợp học sinh đọc
trơn tru nhưng đọc vẹt, không hiểu gì cả. Khi đọc thầm chỉ được đo gián tiếp
qua việc người đọc hiểu đúng văn bản hay không.
“Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng hình thức
chữ viết sang dạng lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (hình thức đọc thành tiếng)
là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có
âm thanh (đọc thầm)” (Sổ tay thuật ngữ dạy học tiếng Nga của M.R.lô rốp năm
1988). Đây là một định nghĩa rất phù hợp với dạy học Tập đọc ở Tiểu học.
Định nghĩa trên là một quan niệm đầy đủ về việc đọc, xem đó là một quá
trình từ chữ viết đến âm thanh và chữ viết (âm thanh) đến nghĩa. Như vậy, đọc
không chỉ là đánh vần phát âm thanh thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết,
cũng không phải là quá trình nhận thức để có kỹ năng thông hiểu những gì được
đọc. Mà đọc là một sự tổng hợp của hai quá trình này.
Năng lực đọc của học sinh được cụ thể hóa thành các kỹ năng đọc, nhưng
chỉ được hình thành khi học sinh thực hiện hai hình thức đọc này: đọc thành
tiếng và đọc thầm. Chỉ khi nào học sinh thực hiện thành thạo được hai hình thức
đọc này thì mới được xem là biết đọc. Vì vậy, việc tổ chức dạy Tập đọc cho học
sinh chính là quá trình làm việc của thầy và trò để thực hiện hai hình thức đọc
này. Đọc thành tiếng là một hình thức đọc không thể thiếu được của dạy học.
9
Đối với học sinh đầu cấp thì đọc thành tiếng còn là điều kiện cần thiết để rèn
luyện tính tự giác trong quá trình học. Từ lớp 3 trở lên, phần lớn học sinh đã có
thể tiếp thu bài đọc ở hai hình thức đọc thầm và đọc thành tiếng như nhau.
Trong mỗi cá thể thì hình thức đọc thầm xuất hiện sau sự chuyển hóa vào
trong của đọc thành tiếng. Nhưng trong một lớp học hai hình thức này thường
được thực hiện đồng thời và gắn bó chặt chẽ với nhau, không chỉ xét ở thời gian
học trên lớp học mà ở cả sự cộng tác để đạt mục đích cuối cùng của đọc là thông
hiểu nội dung văn bản.
1.1.1.2. Thế nào là đọc diễn cảm?
Đọc diễn cảm là hình thức đọc thành tiếng, không những đạt được yêu
cầu của đọc đúng đã nêu ở trên mà còn có yêu cầu ngữ điệu đọc với các yếu tố
kèm ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt góp phần diễn tả nội dung
bài đọc và hướng tới người nghe.
Đọc diễn cảm là một yêu cầu cao trong quá trình đọc và được đặt ra khi
đọc các văn bản văn chương hoặc có các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là
việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu, ngừng giọng, ngắt giọng, cường
độ giọng đọc,… để biểu đạt đúng nội dung, ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã
gửi gắm trong bài đọc, đồng thời biểu hiện sự thông hiểu được nội dung thông
điệp, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực
đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện trên cơ sở đọc đúng, đọc lưu loát.
Việc rèn luyện có nhiều sắc thái khác nhau: rèn đọc đúng ngữ điệu, đọc
nhấn mạnh vào các từ ngữ miêu tả, gợi tả, gợi cảm để làm nổi bật ý nghĩa của
câu. Ngắt nhịp đúng khi đọc văn, đọc thơ, diễn cảm được tình cảm của từng
đoạn văn, đoạn thơ (vui buồn, tức giận, phấn khởi), thay đổi giọng đọc, ngữ điệu
khi đọc lời đối thoại theo từng tính cách của nhân vật.
Đọc diễn cảm là đọc đúng về mặt văn chương, là nghệ thuật biểu hiện một
cách hợp lí mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong phản ánh của tác
giả. Sự thể hiện phù hợp giữa chủ quan của người đọc và chủ quan của tác giả sẽ
truyền được tiếng nói tâm tình của tác giả đến người nghe.
10
Đọc diễn cảm chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc
diễn cảm yêu cầu đọc đúng thể hiện giọng đọc như: vui, buồn, giận dữ, trang
nghiêm… phù hợp với từng ý cơ bản của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại.
Đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở những từ ngữ biểu cảm, gợi tả, phân biệt
lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc được diễn cảm người đọc phải làm chủ giọng
đọc của mình, xác định được chỗ ngắt giọng, ở đây muốn nói đến kĩ thuật ngắt
giọng biểu cảm, làm chủ tốc độ đọc (độ nhanh, chậm, chỗ nhấn hay việc giảm
nhịp đọc), làm chủ được cường độ giọng đọc (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay
không nhấn giọng) và làm chủ ngữ điệu cao độ của giọng đọc (lên giọng hay
xuống giọng).
Cần hiểu rằng “Đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho “điệu” , thiếu tự
nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Mà đọc diễn cảm là sử dụng ngữ
điệu để phô diễn cảm xúc của bài học. Vì vậy, phải hòa nhập với câu chuyện,
bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính tác phẩm
quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ điệu.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc đọc và đọc diễn cảm
Như chúng ta đã biết đọc là một hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt
động ngôn ngữ của con người. Đọc trở thành một yêu cầu cần phải đạt đầu tiên
đối với mỗi người đi học. Trước tiên các em phải học đọc, sau đó các em phải
đọc để học tập. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Đọc sẽ tạo cho học sinh thông hiểu tư tưởng, tâm lí, tình cảm
của người khác, đặc biệt là khi đọc các tác phẩm văn chương con người không
chỉ phát triển về mặt nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những
ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như bồi
dưỡng tâm hồn cho các em. Không biết đọc con người không có điều kiện tiếp
xúc, hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội đã dành cho họ, nên không thể hình thành
một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ ngày càng
phát triển,thời đại bùng nổ thông tin thì việc biết đọc ngày càng quan trọng vì nó
giúp con người sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa, học mãi,
đọc để tự học, đọc cả đời.
11
Vì những điều nói trên ta thấy việc dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở
Tiểu học. Từ việc biết đọc sẽ giúp các em dễ dàng hơn khi rèn đọc diễn cảm.
Đọc còn là công cụ để học tập các môn học khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ
học tập, giúp học sinh có điều kiện tự học và tinh thần học tập cả đời.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, tránh xa cái xấu và cái ác, dạy cho
các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh.
Việc dạy đọc diễn cảm không đơn giản chỉ là giúp các em chuyển từ chữ
viết thành âm thanh có vần, có điệu mà sâu hơn nữa là giúp các em chuyển văn
bản viết (văn bản nghệ thuật và phi nghệ thuật) thành văn bản âm thanh nhằm
truyền đến cho người nghe không chỉ nội dung thông tin và cả cảm xúc chủ quan
của mình về giá trị nghệ thuật của văn bản. Đối với học sinh tiểu học đọc diễn
cảm vừa là hoạt động tiếp nhận thông tin, trong đó hoạt động phát tin có vai trò
nổi trội hơn so với hoạt động nhận tin.
Trong giờ Tập đọc học sinh trở thành nhân vật môi giới để nối liền các tác
phẩm văn học với người nghe. Khi các em đọc diễn cảm vừa có tác động tới lí
trí, vừa tác động đến xúc cảm của các em và người nghe. Đọc đúng rồi tiến tới
đọc diễn cảm để thể hiện được tình cảm và cảm xúc của văn bản là một trong
những đòi hỏi mà giờ tập đọc diễn cảm cần phải đạt được.
1.1.1.4. Nhiệm vụ của việc đọc và đọc diễn cảm trong nhà trường Tiểu học
a) Hình thành năng lực đọc cho học sinh
Dạy học Tập đọc trong nhà trường Tiểu học giúp các em hình thành và
phát triển kỹ năng đọc một cách tốt nhất. Để rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm
cho học sinh tiểu học cần chú ý đến kỹ năng đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung mình đọc), và đọc hay (cao
hơn là đọc diễn cảm). Muốn có được kỹ năng đọc diễn cảm thì trước hết học
sinh tiểu học phải có được kỹ năng đọc đúng, đồng thời phải biết cảm thụ văn
bản đọc và biết hướng tới người nghe để giọng đọc trở nên truyền cảm. Năng
12
lực đọc của học sinh được thể hiện qua hai hình thức: đọc thành tiếng và đọc
thầm. Học sinh sử dụng thành thạo hai hình thức này được xem là biết đọc.
Đọc thành tiếng là hình thức đọc phát ra âm thanh. Hình thức đọc này dựa
theo nghiên cứu quá trình của người mới tập đọc là hoạt động dùng mắt để nhận
biết văn bản viết, đồng thời sử dụng cơ quan phát âm phát ra âm thanh để người
khác nghe được. Đọc thành tiếng chính là hoạt động chuyển văn bản ngôn ngữ
viết thành văn bản ngôn ngữ âm thanh.
Đọc thành tiếng bao gồm các mức độ sau:
+) Đọc rõ ràng và rành mạch: Là việc đọc tròn vành rõ tiếng, rõ câu, rõ
chữ, rõ lời của văn bản. Việc đọc này đòi hỏi học sinh phải biết ngừng nghỉ
đúng chỗ, thời gian nghỉ phù hợp ở những chỗ có dấu câu hoặc có sự phân đoạn
ngữ nghĩa và có giọng đọc vừa phải (không quá to hoặc quá nhỏ, không đọc ê a
mà phải đọc rõ chữ và tiếng, không đọc luyến thoáng).
+) Đọc lưu loát: Là đọc với tốc độ nhanh, phát âm rõ ràng và rành mạch,
không bị vấp, biết ngừng nghỉ đúng dấu câu.
+) Đọc diễn cảm: Là mức độ cao nhất của đọc đúng, giúp người đọc thể
hiện được tâm tư, tình cảm của văn bản. Đó là việc đọc với giọng đọc, ngữ điệu
đọc, nét mặt, cử chỉ phù hợp với nội dung văn bản, phù hợp với những sắc thái
khác nhau của phong cách văn bản. Đọc diễn cảm chính là thể hiện được ý nghĩa
của tâm tư, tình cảm, cảm xúc với người nghe. Đọc diễn cảm chính là hình thức
đọc rèn cho học sinh đọc đúng đồng thời phải cảm thụ được văn bản đọc và biết
hướng tới người nghe để giọng đọc, ngữ điệu đọc, nét mặt, cử chỉ trở nên truyền
cảm hơn.
Như vậy, quá trình đọc phải tiến hành như thế nào để có hiệu quả cao,
bước đầu tiên là chúng ta phải giúp học sinh luyện đọc đúng. Học sinh khi đọc
phải tái hiện lại mặt âm thanh của bài đọc một cách chuẩn xác không có lỗi,
không đọc thừa hoặc đọc sót từng âm, vần, tiếng mà cần đọc đúng chính âm,
ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.
Việc ngắt hơi phải phù hợp các dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn
ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở
13
cuối câu kể, thay đổi giọng đọc cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu
cảm. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu
khiến khác nhau.
b) Hình thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc
với sách cho học sinh
Thông qua hoạt động đọc và đọc diễn cảm cho học sinh, giúp các em có
thói quen làm việc với văn bản, với sách một cách đầy hứng thú. Làm cho học
sinh thích đọc và thấy rằng khả năng đọc và đọc diễn cảm có lợi cho các em
trong cả cuộc đời. Làm cho học sinh thấy được lợi ích của việc làm quen với văn
bản, với sách để lĩnh hội kiến thức một cách dễ dàng. Phải làm cho học sinh thấy
được đó là một trong những con đường đặc biệt tạo cho mình một cuộc sống trí
tuệ đầy đủ và phát triển hơn.
c) Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho
học sinh
Ngoài nhiệm vụ rèn đọc cho học sinh, phân môn Tập đọc còn có nhiệm vụ
tích luỹ về nhiều mặt, đa dạng và phong phú, bên cạnh nhiệm vụ hình thành thế
giới quan, giúp cho sự phát triển tư duy thính giác, thị giác, nó còn có nhiệm vụ
làm giàu vốn kiến thức về ngôn ngữ, về đời sống và kiến thức văn học cho học
sinh. Yêu cầu về việc đọc là một yêu cầu đặt ra trước tiên đối với người đi học,
có đọc tốt và hiểu (cảm thụ) được văn bản thì mới có thể hiểu được nội dung của
văn bản đó. Đọc giúp cho các em có một lượng kiến thức ngôn ngữ phong phú
hơn, khả năng đọc diễn cảm cũng tốt hơn, giúp các em có khả năng giao tiếp tốt
hơn trong cuộc sống. Khi các em có một khả năng đọc diễn cảm tốt sẽ giúp các
em được tiếp xúc với những bài viết hết sức phong phú và đa dạng thuộc nhiều
thể loại, với các chủ điểm, các chủ đề khác nhau về cuộc sống, con người. Vì thế
các em có thêm nhiều hiểu biết về những vấn đề mà các em được học, về con
người, cuộc sống, thiên nhiên, đất nước, văn hoá, lịch sử dân tộc và thế giới từ
đó tạo điều kiện cho các em mở rộng vốn sống và khả năng hiểu biết của mình.
Trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống các em có điều kiện tiếp xúc
nhiều hơn với các văn bản nghệ thuật, có kỹ năng đọc diễn cảm tốt sẽ giúp cho
14
các em cảm thụ đầy đủ và sâu sắc các tác phẩm nghệ thuật đó. Từ đó khả năng
cảm thụ văn học của các em được mở rộng và phát triển hơn và nó ngày càng
được hoàn thiện hơn trong quá trình học tập. Trong quá trình rèn luyện kỹ năng
các em được từng bước hoàn thành khả năng về ngôn ngữ và văn học, vốn từ
của các em ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, khả năng tư duy của các
em được phát triển một cách lôgic, quá trình diễn đạt ngôn ngữ của các em được
gọn gàng, trong sáng. Khi kỹ năng đọc diễn cảm của các em tốt nó sẽ thúc đẩy
khả năng thấu hiểu nội dung của văn bản. Từ đó giúp các em càng yêu tiếng
Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và yêu nền văn học của nước nhà hơn.
d) Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mĩ và giáo
dục lao động, kích thích sự phát triển tư duy cho học sinh
Đọc diễn cảm hình thành, phát triển và giáo dục những tình cảm đạo đức
cho học sinh là điều hết sức quan trọng. Giáo dục lòng nhân ái, giáo dục đức
tính thật thà, dũng cảm, kỉ luật, vâng lời cha mẹ sẽ giúp các em dễ hoà nhập vào
cuộc sống và đón nhận những ảnh hưởng tốt đẹp của môi trường để phát triển
nhân cách một cách tích cực.
Người ta thường phân chia thẩm mĩ và đạo đức thành hai phần, thực tế
việc đọc diễn cảm là một phần của chương trình giáo dục thẩm mĩ, nhưng giáo
dục thẩm mĩ và giáo dục đạo đức bao giờ cũng gắn liền với nhau. Trong giáo dục
năng lực cảm thụ thẩm mĩ các tác phẩm văn học và năng khiếu thẩm mĩ, việc đọc
diễn cảm sẽ làm tăng thêm và làm sâu sắc thêm sự xúc cảm. Các em phải cảm thụ
được từng lời nói của nhà thơ bằng cả trái tim và bằng cả tâm hồn, sự chân thành,
rung cảm, những cảm xúc ngập tràn thì mới có được sự rung cảm sâu sắc và đúng
đắn. Đọc diễn cảm giúp cho các em cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn học,
làm cho các em thêm yêu thích văn học, từ đó nảy sinh ra ý muốn đọc diễn cảm
thật tốt các tác phẩm nghệ thuật mà mình đã rung động. Kết quả đầu tiên đó sẽ là
nhân tố tích cực cho quá trình hoàn thiện kỹ năng trong lĩnh vực đọc diễn cảm và
phát triển những tình cảm đạo đức và thẩm mĩ của các em.
Giáo dục thẩm mĩ thông qua việc dạy học đọc diễn cảm thực chất là giúp
các em biết cảm thụ cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn học, hình tượng văn học
15
thông qua mỗi bài đọc diễn cảm. Từ đó, các em có sự cảm nhận sâu sắc các văn
bản mà mình đọc.
Giáo dục tình cảm và giáo dục thẩm mĩ là con đường đưa nghệ thuật đến
với cuộc đời. Văn học có một sức mạnh lớn, nó giáo dục con người không phải
bằng những triết lí khô khan, cứng nhắc mà bằng những hình tượng văn học sinh
động. Từ sự rung cảm với tác phẩm văn học sẽ mang đến cho các em những tình
cảm đạo đức cao cả, thiêng liêng, tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con
người, gia đình, bạn bè, yêu quê hương đất nước. Để có được những điều này
thầy cô giáo chính là cầu nối đưa các em tiếp cận với cuộc sống bằng những tình
cảm cao đẹp, trong sáng, lành mạnh có sức lay động sâu xa, truyền cảm của mình.
Từ đó có tác dụng vun đắp, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức sâu sắc cho học sinh.
Mỗi bài tập đọc sẽ giúp học sinh nhận thức thêm một phần nhỏ bé của
cuộc sống, từ đó sẽ giúp các em có thể mở rộng kiến thức và sự hiểu biết của
mình hơn, ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú hơn, nếu các em có được
khả năng đọc diễn cảm tốt thì khả năng cảm thụ văn học của các em sẽ sâu sắc
hơn. Dạy học Tập đọc trong đó dạy đọc diễn cảm có giá trị thẩm mĩ cao sẽ có
tác dụng ghi lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời các em.
1.1.2. Cơ sở tâm lí, sinh lí của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm được bản chất kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lí, sinh lí của học sinh khi đọc
hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy đọc.
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin
bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Quá trình này được thể
hiện:
+) Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau. Một mặt, là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ, âm để phát ra
một cách chuẩn xác những dòng và tự ghi lại lời nói âm thanh. Mặt khác, là sự
vận động của tư tưởng, mối quan hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm
chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc.
16
+) Đọc bao gồm những yếu tố: Tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ
quan phát âm, cơ quan thính giác, cơ quan hô hấp và thông hiểu những gì được
đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động qua lại với nhau
nhiều hơn.
+) Thuật ngữ đọc được sử dụng trong nhiều nghĩa: Theo nghĩa hẹp, đọc là
quá trình chuyển từ hình thức chữ viết của từ thành âm thanh. Còn theo nghĩa
rộng: đọc không chỉ hiểu nghĩa của những từ riêng lẻ mà là cả câu cả bài.
+) Kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, muốn đọc tốt đòi hỏi một quá
trình luyện đọc lâu dài. Giai đoạn dạy học vẫn là sự phân tích các chữ cái và đọc
từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong
đó sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức, ý
nghĩa.
+) Việc đọc nhằm vào sự nhận thức. Chỉ có thể xem là đứa trẻ biết đọc
khi nó đọc mà hiểu được điều mình đọc, đọc là hiểu nghĩa của chữ viết. Việc
đọc không thể tách rời khỏi việc chiếm lĩnh một công cụ ngôn ngữ. Mục đích
này chỉ có thể đạt được thông qua con đường luyện giao tiếp có ý thức.
+) Các công trình nghiên cứu về cơ chế đọc cho thấy khi đọc mắt ta lướt
từ dòng này sang dòng khác. Hoạt động này không thể hiện thành một vận động
đều liên tục mà diễn ra thành những bước nhảy kế tiếp nhau. Ở mỗi bước, mắt
dừng lại để bao quát và ghi nhận một đoạn, một mảng nhất định của dòng chữ,
sau đó sẽ qua mảng tiếp theo. Một mảng như thế, bao gồm một số lượng chữ
thay đổi tuỳ theo người đọc.
Quá trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau:
- Hiểu nghĩa các từ.
- Hiểu các câu.
- Hiểu những tập hợp câu dùng để phát biểu một ý trọn vẹn.
- Hiểu được các bài.
Đối với học sinh lớp 4, tâm lí các em đã được hoàn thiện cấu trúc tâm lí,
các em có ý thức về bản thân mình, tự ý thức được mình là ai, như thế nào. Ở
giai đoạn này ngôn ngữ của các em rất phát triển, các em đã sử dụng tiếng mẹ đẻ
17
trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong học tập nhiều hơn so với các lứa tuổi
trước đó. Các em phát âm đúng với phát âm của người lớn, ngữ điệu phù hợp
với hoàn cảnh giao tiếp. Đó là một bước ngoặt trong quá trình hình thành và
phát triển tâm lí của các em. Bước tiến về ngôn ngữ của các em được bộc lộ khi
các em tiếp xúc với các tác phẩm văn học. Đặc điểm tâm lí của các em là dễ tiếp
thu, dễ cảm xúc, hồn nhiên, tư duy mang tính chất cụ thể và biểu cảm. Nhờ vậy
đã giúp cho việc đọc diễn cảm rất dễ dàng.
Học sinh tiểu học - con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của một cơ
thể đang phát triển. Trong đó, cơ quan phát âm ngôn ngữ phát triển mạnh, phù
hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới, theo chức năng
của chúng. Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân
cách học sinh đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang phát
triển. Học sinh tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích
hoạt động, khám phá thường độc lập, tự làm việc theo hứng thú của mình. Thầy,
cô giáo là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều trẻ đều
nhất nhất nghe theo. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học phụ thuộc
phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô ở nhà trường Tiểu học.
Dạy Tập đọc cho học sinh tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa
học cho não bộ và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn
hoá, văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ; rèn kỹ năng đọc - hiểu, cảm thụ văn
học, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát
triển khả năng học tập các môn khác, là điều kiện phát triển toàn diện cho học
sinh tiểu học. Nhân cách học sinh tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ
thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó phương tiện nghe, nói,
đọc, viết có được nhờ học Tập đọc. Dạy Tập đọc đặc biệt là dạy đọc diễn cảm
cho học sinh tiểu học đòi hỏi người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, phù hợp với sự phát triển tiến bộ
của khoa học, xã hội, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh tiểu học và
tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách cho trẻ.
18
Tuy nhiên, học sinh tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu được
những bài mình đọc. Hầu như toàn bộ sức chú ý của các em đều tập trung vào
việc nhận ra mặt chữ, đánh vần để phát thành âm. Mặt khác, do vốn từ còn ít,
năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn chế nên việc hiểu và nhớ nội dung
còn khó khăn. Đây là cơ sở để đề xuất một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc
diễn cảm cho học sinh tiểu học.
1.1.3. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Chúng ta đều biết rằng, phương pháp dạy Tập đọc phải dựa trên cơ sở của
ngôn ngữ học, nó có liên quan mật thiết đến một số vấn đề của ngôn ngữ học.
Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn ngữ chữ
viết, chính âm, chính tả, nghĩa của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ điệu, nhịp điệu,
tình cảm ngôn ngữ, các dấu câu, các kiểu câu. Đó là những vấn đề gắn bó với
việc dạy và học Tập đọc của thầy (cô) và trò ở bậc Tiểu học.
Mặt khác, có thể thấy rằng hiện nay, những kết quả nghiên cứu của Việt
ngữ học còn hạn chế, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của phương pháp.
Ví dụ: Việc chưa thống nhất một chuẩn chính âm, có rất ít những nghiên
cứu về ngữ điệu tiếng Việt,… làm cho phương pháp dạy Tập đọc không tránh
khỏi những vướng mắc về vấn đề đọc đúng, đọc diễn cảm, cũng như không giải
quyết được vấn đề phát âm của địa phương, không có những chỉ dẫn cụ thể cho
việc đọc diễn cảm đành theo những cách nói chung chung, hời hợt.
a) Vấn đề về chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu lực
về mặt khoa học, xã hội. Vấn đề về chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn
đề thời sự và có nhiều ý kiến trái chiều khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn
đề khác nhau như: chuẩn hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt,
mục đích của việc xây dựng chính âm. Vấn đề đặt ra trước mắt là phải giải quyết
như thế nào những nét khác biệt trên bình diện ngôn ngữ giữa các phương ngữ
và việc xác định chuẩn chính âm.
Những nét khác biệt về phương ngữ giữa các vùng của nước ta
19
Phương ngữ
Những nét
khác biệt
Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
và Nam Bộ
Âm đầu tr, s, r
-
+
+
Vần ưu, ươu
-
+
+
Âm đầu v
+
+
-
Âm cuối t, n
+
+
-
Sáu thanh
+
-
-
Đó là những nét khác biệt về phương ngữ của các vùng miền ở nước ta.
Trên thực tế, ngữ âm của các phương ngữ tiếng Việt còn rất đa dạng, phong phú
và phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, việc giải quyết những nét khác biệt trên bình
diện ngữ âm giữa các phương ngữ phải thích hợp.
b) Vấn đề ngữ điệu của tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp:
Ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp giọng
đọc và ngắt câu phù hợp đến mức nào đó với tình cảm và ý nghĩa cần biểu đạt.
Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn điệu. Ngữ điệu gồm
các bình diện như: cao độ (độ cao của âm thanh), cường độ (độ mạnh yếu của
âm thanh), trường độ (độ dài, ngắn của âm thanh), âm sắc (sắc thái riêng của âm
thanh), …
Ngữ điệu là yếu tố gắn bó chặt chẽ với lời nói. Mỗi ngôn ngữ có một lời
nói riêng. Ngữ điệu tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ có âm thanh khác, chủ
20
yếu được biểu hiện ở cao độ, trường độ, cường độ,…
Cấu trúc của ngữ điệu gồm hai phần chính là phần mềm và phần cứng:
+) Phần cứng: Là những đặc trưng vốn có của các thành phần để tham gia
cấu thành ngữ điệu như cao độ, cường độ, trường độ. Phần cứng thì mang tính
bắt buộc, tính xã hội và tính phổ quát.
+) Phần mềm: Là sự sáng tạo của người nói, người đọc khi sử dụng ngữ
điệu. Phần mềm mang tính nghệ thuật, cá nhân, gắn với những tình huống giao
tiếp cụ thể, trường hợp sử dụng cụ thể và mang tính sáng tạo.
Theo nghĩa rộng:
Ngữ điệu là toàn bộ những phương tiện được sử dụng để đọc diễn cảm
như những chỗ lên giọng, xuống giọng, chỗ ngừng, tốc độ,… được hệ thống lại
thành một tổ hợp phản ánh đúng thái độ, tình cảm, cảm xúc của tác giả.
Như vậy, là sự hoà đồng về âm hưởng của bài đọc, nó có giá trị lớn về
bộc lộ tình cảm, cảm xúc mà tác giả muốn thể hiện. Nên việc sử dụng ngữ điệu
rất quan trọng trong việc đọc diễn cảm.
c) Cơ sở văn học của việc dạy đọc
Văn học nghệ thuật là tinh hoa của ngôn ngữ, là tình cảm đạo đức lý
tưởng của tình yêu, nó có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, làm cho tâm hồn con
người thêm phong phú và sâu sắc.
Việc dạy học không thể không dựa trên lý thuyết về văn bản. Những tiêu
chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản nói chung cũng như lý thuyết để phân
tích, đánh giá các tác phẩm văn chương nói riêng.
Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc hiểu và đọc diễn cảm cho học sinh
phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt như: tính chính xác,
đúng đắn và tính thẩm mĩ, đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ, phong cách chức
năng, thể loại văn học, các bảng điểm dùng làm ngữ liệu đọc ở Tiểu học.
Việc luyện đọc cho học sinh phải dựa trên những hiểu biết về đặc điểm
của ngôn ngữ văn học, tính hình tượng, tính tổ chức và tính hàm súc của nó.
Dạy Tập đọc cho học sinh tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng
tiếng, từ, câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm,
21
cảm nhận được ý nghĩa tình cảm; biết tư duy, tưởng tượng, hình thành ý thức tốt
đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, học sinh biết chuẩn ngôn ngữ và biết
cảm thụ văn học. Dạy Tập đọc sẽ càng tinh tế, càng sáng tạo, càng hiệu quả hơn
khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ văn học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát chương trình sách lớp 4
Chương trình và sách giáo khoa, nội dung dạy học bắt đầu từ kì một lớp 1,
mỗi tuần gồm 5 tiết ứng với 5 bài tập đọc (có 3 bài đọc thêm).
Ở các lớp 2, 3, 4, 5 chương trình cả năm đều gồm 33 tuần, sách giáo khoa
in đều thành hai tập. Mỗi tuần ở lớp 4 có hai tiết Tập đọc, mỗi tiết có 40 phút.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4 có cấu trúc gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng
với một chủ điểm trong 3 tuần (riêng chủ điểm tiếng sáo diều học trong 4 tuần),
mỗi tuần có 2 tiết tập đọc gồm 2 bài học.
Nếu như ở các lớp dưới, chủ điểm học tập xoay quanh những lĩnh vực rất
gần gũi với học sinh thì ở lớp 4 chủ điểm là những vấn đề đời sống tinh thần của
con người như tính cách, đạo đức, năng lực, sở thích,… cụ thể:
Tập 1 gồm 5 chủ điểm, học trong 18 tuần:
- Thương người như thể thương thân (tuần 1, 2, 3)
- Măng mọc thẳng (tuần 4, 5, 6)
- Trên đôi cánh ước mơ (tuần 7, 8, 9)
- Có chí thì nên (tuần 11, 12, 13)
- Tiếng sáo diều (tuần 14, 15, 16, 17)
Tuần 10 dùng để ôn tập giữa học kì 1, tuần 18 ôn tập cuối học kì 1.
Tập 2 gồm 5 chủ điểm, học trong 17 tuần.
- Người ta là hoa đất (tuần 19, 20, 21)
- Vẻ đẹp muôn màu (tuần 22, 23, 24)
- Những người quả cảm (tuần 25, 26, 27)
- Khám phá thế giới (tuần 29, 30, 31)
- Tình yêu cuộc sống (tuần 32, 33, 34)
Tuần 28 dùng để ôn tập giữa học kì 2, tuần 35 ôn tập cuối học kì 2.
22
Như vậy, ta thấy sách giáo khoa lớp 4 có sự cụ thể. Số lượng chủ điểm
nhiều với những tên gọi phong phú, hấp dẫn hơn tạo ra hứng thú học tập cho học
sinh, các chủ điểm được sắp xếp một cách hợp lí và nội dung phù hợp với trình
độ nhận thức của học sinh.Các bài tập đọc ở trong sách giáo khoa đa dạng và
phong phú về các thể loại văn bản như: truyện ngắn, kịch, thơ, văn xuôi, văn bản
khoa học, trích đoạn, thần thoại, ca dao, truyện dân gian, thư.
Các bài tập đọc ở chương trình lớp 4 gồm:
- Trích đoạn
Gồm có 10 đoạn trích, bao gồm: “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” 2 bài (Tô
Hoài), “Truyện cổ nước mình” (trích đoạn thơ - Lâm Thị Mĩ Dạ), “Tuổi ngựa”
(trích đoạn thơ - Xuân Quỳnh), “Truyện cổ tích về loài người” (trích đoạn thơ -
Xuân Quỳnh), “Chợ tết” (trích đoạn thơ - Đông Đắc Cù), “Khúc hát ru những
em bé lớn trên lưng mẹ” (trích đoạn thơ - Nguyễn Khoa Điềm), “Đoàn thuyền
đánh cá” (thơ - Huy Cận), “Bài thơ về Tiểu đội xe không kính” (thơ - Phạm Tiến
Duật), “Con chim chiền chiện” (thơ - Huy Cận).
- Kịch: có một bài: “Ở Vương quốc Tương Lai” (Mát-Téc-Lích)
- Văn bản khoa học
Có 4 bài, gồm: “Trống đồng Đông Sơn” (Nguyễn Văn Huyên), “Vẽ về
cuộc sống an toàn” (báo đại đoàn kết), “Ăng-co Vát” (Những kì quan thế giới),
“Tiếng cười là liều thuốc bổ” (báo giáo dục và thời đại).
- Thơ
Gồm có: “Mẹ ốm” (Trần Đăng Khoa), “Tre Việt Nam” (Nguyễn Duy),
“Gà trống và cáo” (La - phông - ten), “Nếu chúng mình có phép lạ” (Định Hải),
“Chuyện cổ tích về loài người” (Xuân Quỳnh), “Trăng ơi … từ đâu đến?” (Trần
Đăng Khoa), “Dòng sông mặc áo” (Nguyễn Trọng Tạo), “Ngắm trăng. Không
đề” (Hồ Chí Minh).
- Thần thoại: gồm có một bài: “Điều ước của vua Mi-đát” (Thần thoại Hi
Lạp).
- Truyện dân gian: gồm có 2 bài: “Những hạt thóc giống” (truyện dân gian
Khơ-me), “Ăn “mầm đá”” (Truyện dân gian Việt Nam).