Tải bản đầy đủ (.doc) (213 trang)

Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (toàn văn + tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 213 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HÀ
§éi ngò trÝ thøc gi¸o dôc §¹i häc ViÖt Nam
trong ®µo t¹o nguån nh©n lùc chÊt lîng cao
thêi kú ®Èy m¹nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2014
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ THANH HÀ
§éi ngò trÝ thøc gi¸o dôc §¹i häc ViÖt Nam
trong ®µo t¹o nguån nh©n lùc chÊt lîng cao
thêi kú ®Èy m¹nh c«ng nghiÖp hãa, hiÖn ®¹i hãa
Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 62 22 85 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực và
có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Thanh Hà
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 6


1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN 6
1.2. NHỮNG GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA CÁC CÔNG TRÌNH
TỔNG QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN LÀM RÕ
22
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 26
2.1. TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 26
2.2. VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
52
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 60
3.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO 60
3.2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
- THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ 74
3.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO HIỆN NAY 108

Chương 4
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA 121
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN 121
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
127
KẾT LUẬN 157
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 161
PHỤ LỤC 175
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CNCS : Chủ nghĩa cộng sản
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đạị hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTQG : Chính trị quốc gia
ĐHQG : Đại học quốc gia
GS : Giáo sư
KH&CN : Khoa học và công nghệ
KHTN : Khoa học tự nhiên
KHXH&NV : Khoa học Xã hội và Nhân văn
KTTT : Kinh tế tri thức
KT-XH : Kinh tế - xã hội
LLSX : Lực lượng sản xuất
NNLCLC : Nguồn nhân lực chất lượng cao

Nxb : Nhà xuất bản
PGS : Phó Giáo sư
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TS : Tiến sĩ
TSKH : Tiến sĩ khoa học
VUSTA : Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi
trong chiến lược phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Ngày nay, hầu như bất cứ
quốc gia nào trên thế giới cũng đều nhận thức rõ chất lượng nguồn lực con người
là nhân tố quyết định cho sự phát triển. Nhiều nghiên cứu hiện nay đã chỉ ra rằng,
đầu tư cho nguồn nhân lực thông qua các hoạt động giáo dục và đào tạo, chăm sóc
sức khoẻ…, được xem là đầu tư hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững của mỗi quốc gia - dân tộc. Giáo dục và đào tạo, trong
đó có giáo dục đại học được coi là chiến lược quan trọng hàng đầu đối với phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, bởi nó góp phần làm tăng giá
trị toàn diện của con người về các mặt: đức, trí, thể,
mỹ, đặc biệt là năng lực nghề nghiệp. Giáo dục đại học
không chỉ tích luỹ tri thức mà còn tạo ra tri thức
mới, trang bị kỹ năng cần thiết giúp cho mỗi cá nhân
phát hiện và làm giàu thêm sự hiểu biết để tự phát
triển và khẳng định mình trong cuộc sống.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế,
sự phân công lao động có tính chất quốc tế diễn ra
mạnh mẽ, sự cạnh tranh giữa các quốc gia càng quyết
liệt hơn. Trong cuộc đấu tranh này, thực tiễn cho
thấy, chỉ có phát huy tối đa NNLCLC mới có thể tận dụng triệt để những cơ

hội của toàn cầu hoá nhằm phát triển đất nước.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Quá trình này chỉ đạt được
kết quả khi chúng ta kết hợp tốt sức mạnh của mọi nguồn lực, trong đó nội lực là quyết định. Do
vậy, yêu cầu về NNLCLC đang đặt ra đối với hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại
học nói riêng, trong đó đội ngũ trí thức các nhà giáo đại học giữ vai trò trọng yếu.
Trí thức giáo dục đại học (bao gồm các nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản
lý, các chuyên gia đang trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu ở bậc đại học) là bộ phận
quan trọng của đội ngũ trí thức giáo dục và đào tạo, giữ vai trò quyết định nhất
1
trong đào tạo NNLCLC, thực hiện chuyển giao và đổi mới công nghệ, bảo tồn và
phát triển những giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu có hiệu quả những giá trị văn hoá
tiên tiến trên thế giới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vai trò
của trí thức. Đặc biệt, gần đây, Hội nghị Trung ương 7 Khoá X, Đảng ta nhấn
mạnh: "Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào dân tộc sâu
sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bằng hoạt động sáng tạo, trí
thức nước ta đã có đóng góp lớn trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc" [46, tr.82].
Thực tế gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế đã chứng minh cho sức
mạnh và đóng góp to lớn của trí thức Việt Nam vào quá trình phát triển đất nước,
trong đó có đội ngũ trí thức giáo dục đại học. Bằng lao động sáng tạo của mình, trí
thức giáo dục đại học đã góp phần đào tạo những lớp người lao động mới (học
viên, sinh viên) hữu ích cho sự phát triển xã hội. Đó là NNLCLC trong tương lai
gần, những người có năng lực làm chủ công nghệ tiên tiến, có khả năng đổi mới
và hiện đại hoá công nghệ truyền thống, từng bước sáng tạo những công nghệ
mới, hiện đại, phù hợp với con người, với điều kiện và môi trường Việt Nam.
Trong Chiến lược phát triển KT-XH đến năm 2020, Đảng ta quán triệt ba khâu
cần đột phá, trong đó: “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là NNLCLC, tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt

chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng KH&CN” [49, tr.106].
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của NNLCLC trong bối cảnh đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam chưa đáp ứng
kịp thời, đội ngũ trí thức giáo dục đại học chưa thực sự phát huy hết tính tích cực
của mình; tình trạng thừa về số lượng, yếu về chất lượng, thiếu hụt đội ngũ trí thức
có trình độ chuyên môn cao, năng lực sư phạm giỏi và phẩm chất chính trị vững
vàng đang diễn ra; tình trạng mất cân đối về cơ cấu ngành nghề đào tạo, phân bố
khu vực, lứa tuổi cũng đang là vấn đề cần quan tâm; đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý giáo dục đại học chưa hội tụ đủ những tiêu chí để đáp ứng kịp thời yêu
2
cầu đổi mới của đất nước, nhất là đội ngũ chuyên gia nghiên cứu và thiết kế chính
sách giáo dục đại học v.v
Những bất cập trên của trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã dẫn đến hệ
lụy trực tiếp, đó là: một bộ phận không nhỏ NNLCLC đang được đào tạo ở các
trung tâm giáo dục, đào tạo lớn của Việt Nam (học viên, sinh viên) sau khi ra
trường năng lực không đáp ứng được đòi hỏi công việc. Thực tế, một lực lượng
không nhỏ còn thiếu hụt nghiêm trọng về kỹ năng thực hành nghề nghiệp… dẫn
đến mất tự tin, hạn chế về năng lực sáng tạo so với học viên, sinh viên các nước
trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, văn hóa
đạo đức và lối sống của một bộ phận NNLCLC còn nhiều điều đáng phải bàn v.v
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, những bất cập của giáo dục bậc đại
học, của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã tác động tiêu cực tới
NNLCLC trong tương lai - những học viên, sinh viên đang trong quá trình tiếp thu
và tích lũy tri thức. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đồng thời phát
huy vai trò của trí thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC là một nhu cầu
cấp bách hiện nay.
Từ những lí do trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học, chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
và thực trạng của đội ngũ trong đào tạo NNLCLC, luận án đề xuất một số quan
điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
- Trình bày lí luận chung về trí thức giáo dục đại học và NNLCLC ở Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
3
- Phân tích thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
trong đào tạo NNLCLC, thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay;
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu đào tạo
NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức giáo dục đại học
và NNLCLC.
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như:
phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử; đối chiếu và so sánh, nghiên cứu tài liệu và
điều tra xã hội học
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học (tập trung
vào vai trò của đội ngũ giảng viên) trong đào tạo NNLCLC và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy vai trò đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.

Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu đội ngũ trí thức giáo dục đại học đang làm việc, nghiên
cứu tại các trường đại học ở Việt Nam (tập trung vào đội ngũ giảng viên), từ năm
1996 đến nay.
Luận án tập trung khảo sát, điều tra (500 phiếu) tại hai trung tâm giáo dục
đại học lớn nhất Việt Nam là ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh.
Lí do tác giả lấy hai trường đại học đại diện trên để khảo sát vì: ĐHQG Hà Nội là
trung tâm đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; kết hợp chặt
chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng, giữa khoa học
tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn, giữa khoa học và công nghệ để đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài và thực hiện một số nhiệm vụ
nghiên cứu trọng điểm về khoa học cơ bản, công nghệ cao và kinh tế - xã hội
mũi nhọn, đại diện cho miền bắc Việt Nam; cung cấp các luận cứ, kết quả nghiên
4
cứu KH&CN tầm cỡ quốc gia và tiếp cận chuẩn quốc tế cho phát triển kinh tế -
xã hội đất nước.
ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học
và nghiên cứu KH&CN đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao lớn nhất ở khu
vực phía Nam. Là nơi đào tạo, cung cấp NNLCLC trong những lĩnh vực có ưu
thế nổi trội, phát huy thế mạnh của địa bàn khu vực phía Nam và vị trí cửa ngõ
Đông Nam Á. Đây là trung tâm đào tạo làm nồng cốt cùng với ĐHQG Hà Nội
cho hệ thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học trong đào tạo NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học trong đào tạo NNLCLC ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm căn cứ lí luận

và thực tiễn trong đề xuất chính sách đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài của
đất nước.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về trí
thức, nguồn nhân lực và cho những nghiên cứu quan tâm đến chủ đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 9 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Công trình nghiên cứu ở trong nước
1.1.1.1. Về trí thức
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, vấn đề bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực con người, đặc biệt nguồn lực trí tuệ - “hiền tài là nguyên khí quốc gia”
là rất cần thiết, là nhiệm vụ chiến lược quan trọng đặt ra đối với toàn bộ hệ thống
chính trị và nhân dân ta. Từ năm 1996 đến nay, những công trình thuộc nhóm vấn
đề này được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Trong đó, đáng chú ý là một số
công trình tiêu biểu sau:
Phạm Tất Dong (chủ biên), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tầng lớp trí
thức. Những định hướng chính sách, thuộc chương trình KHXH.03 (Giai đoạn
1996 - 2000) [28]. Đề tài đã làm rõ những vấn đề đặt ra của đội ngũ trí thức Việt
Nam với tư cách là nguồn lực quan trọng, cơ bản để đào tạo nguồn nhân lực; vị trí,
vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, thực trạng đội
ngũ trí thức và chính sách của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Trên cơ sở đó, Đảng
và Nhà nước có chiến lược phát triển đối với đội ngũ trí thức Việt Nam để họ xứng
đáng với vai trò là lực lượng nòng cốt, bộ phận tinh túy của nguồn nhân lực.
Phan Thanh Khôi (2001), Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về

trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2 [76]. Dựa trên sự phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về trí thức, tác giả đã rút ra những bài học kinh nghiệm đối với công cuộc
đổi mới ở Việt Nam. Trong bài viết, tác giả đã làm rõ vai trò quan trong của đội ngũ
trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; trong việc xây dựng luận
cứ khoa học bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật; đào tạo nguồn nhân lực; góp
phần vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, tác giả cũng
đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong bối
cảnh nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH.
Trong số rất nhiều bài viết về trí thức, PGS.TS Phan Thanh Khôi có bài viết
đánh dấu tầm quan trọng, ý nghĩa lý luận và tư tưởng sâu sắc không chỉ đối với đội
6
ngũ trí thức Việt Nam, mà còn chỉ ra trách nhiệm cao cả đặt lên vai người trí thức
trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở nước ta. Đóng góp của
đội ngũ trí thức vào chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Lý luận
Chính trị, số 3/2008 [80]. Qua bài viết, tác giả chỉ ra vai trò quan trọng của đội ngũ
trí thức trong việc xây dựng luận cứ khoa học; bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp
luật; đào tạo nguồn nhân lực; góp phần đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Những thuộc tính cơ bản của trí thức còn được tác giả Phan Thanh Khôi đề
cập và phân tích trên các khía cạnh: trí thức là người lao động trí óc, phức tạp, sản
xuất giá trị tinh thần là chủ yếu; nội dung lao động của trí thức mang tính sáng tạo
khoa học; tri thức và học vấn của trí thức cao hơn hẳn mặt bằng dân trí; hình thức
lao động của trí thức có tính đặc thù cao như: mang tính cá nhân rõ nét, hoạt động
trong không gian mở, thời gian linh hoạt, đòi hỏi lý trí cao, đặc điểm tâm lý lối sống
cũng có tính khác biệt: nhạy cảm nhưng dễ dị ứng, kiêu hãnh nhưng dễ tự kiêu và
có những nhược điểm nhất định trong cuốn sách "Đội ngũ trí thức Việt Nam,
quan niệm, thực trạng, phát huy vai trò và xu hướng biến đổi", Tài liệu tham khảo,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008 [79].
Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước, Nxb CTQG, Hà Nội [65]. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của
trí thức từ lịch sử đến hiện tại; phân tích thực trạng, một số vấn đề đang đặt ra đối

với đội ngũ trí thức Việt Nam trong thế kỷ XXI; phương hướng phát triển của đội
ngũ trí thức Việt Nam trong tình hình mới.
Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb CTQG, Hà Nội [136]. Thông qua việc
làm rõ quan niệm về trí thức, trí thức nữ, những phẩm chất trí tuệ và các yếu tố tác
động đến sự phát triển trí tuệ, tác giả đi sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm, vai
trò của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy
nguồn lực trí thức nữ Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Ngô Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội [120]. Công trình đã phân tích
rõ khái niệm trí thức KHXH&NV; vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước; quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
7
Nguyễn Công Trí (2007), Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về thực hiện
chính sách đối với trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5 [148]. Tác giả đã phân tích quan điểm của V.I.Lênin
về thực hiện chính sách đối với trí thức trong cách mạng XHCN; những luận điểm
về nhận thức và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đội ngũ trí thức.
Đỗ Thị Thạch (2008), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 6 [137]. Dựa vào việc phân tích
vai trò của trí thức đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nước, tác giả
đã đưa ra mục tiêu phát triển đối với đội ngũ trí thức Việt Nam và một số giải pháp
để thực hiện được mục tiêu này.
Lê Văn Dũng (2008), Phát huy vai trò lực lượng trí thức quân đội trong
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Tạp chí Cộng sản, số 794 [36]. Bài viết đã đánh giá
thực trạng về số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ trí thức quân đội nhân dân
Việt Nam và vai trò của họ trong nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học
quân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, bài viết đã đưa
ra ba phương hướng thiết thực nhằm xây dựng đội ngũ trí thức quân đội ngang

tầm với đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng,
thực hiện nghiêm túc công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, phát
huy năng lực sáng tạo của đội ngũ trong giảng dạy, nghiên cứu, ứng dụng trong
khoa học quân sự nhằm xứng đáng là người trí thức Quân đội nhân dân Việt Nam
“vừa hồng vừa chuyên”.
Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước [106]. Tác giả đã nêu một số quan
điểm mới về tiềm năng, tiềm năng của trí thức KHXH&NV; đồng thời cũng làm rõ
những tiềm năng to lớn của đội ngũ này đối với sự phát triển xã hội. Từ đó, tác giả
trình bày một số giải pháp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức
KHXH&NV trong giai đoạn hiện nay.
Bùi Khắc Việt, Trí thức trẻ và sinh viên (trong nhánh đề tài Đề tài KX.03- 09
(đã in sách) [159]. Công trình đề cập đến trí thức trẻ trong các trường đại học, cao
đẳng và sinh viên với tư cách là nguồn lực quan trọng bổ sung cho đội ngũ trí thức
nói chung và trí thức nhà giáo ở các trường đại học nói riêng. Đề tài phân tích
8
những mặt tích cực, đồng thời nêu lên một số hạn chế, bất cập, nhất là về chất
lượng của đội ngũ trí thức trẻ so với yêu cầu phát triển KT-XH ở Việt Nam.
Đàm Đức Vượng, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
Mã số: KX.04.16/06-10 [162]. Bên cạnh những vấn đề cơ bản về trí thức, đề tài đi
sâu làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được
quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch và được đào tạo bài bản, chưa có sự kết
hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức, thiếu
sự cộng lực để cùng thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Từ đó, đề tài đề xuất
một số giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, góp phần quan
trọng và có tính quyết định để thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam đến năm 2020.
Nguyễn Khánh Bật - Trần Thị Huyền (đồng chủ biên) 2012, Xây dựng đội
ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb CTQG, Hà Nội [10]. Cuốn sách khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí

Minh về trí thức, vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình CNH, HĐH ở Việt
Nam. Từ đó, các tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ trí
thức trong giai đoạn 2010 - 2020.
Nguyễn Thị Thơm (2012), Tạo động lực và môi trường để phát huy tính
sáng tạo của đội ngũ trí thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11 [144]. Ngoài việc
phân tích những đặc điểm cơ bản nhất của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra năm
vấn đề chủ yếu nhằm tạo động lực và môi trường để phát huy tính sáng tạo của đội
ngũ trí thức - lực lượng tinh túy của NNLCLC.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), Trí thức và trách nhiệm xã hội, Tạp chí Cộng
sản, số 853 [26]. Bài viết chia làm ba phần lớn, thứ nhất, tác giả phân tích vai trò
lao động trí óc của trí thức trong lịch sử nhân loại tiến bộ; thứ hai, phân tích trách
nhiệm của trí thức trong mọi thời đại; thứ ba, phân tích vai trò và trách nhiệm xã hội
của trí thức Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Cuối cùng tác giả
kết luận: Trí thức chỉ có thể thực hiện được trách nhiệm xã hội của mình, nếu như
họ ý thức rõ được trách nhiệm đó.
1.1.1.2. Về giáo dục đại học và trí thức giáo dục đại học
Phạm Văn Thanh (2001), Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, chuyên
9
ngành CNXH khoa học [140]. Công trình nghiên cứu những nét cơ bản về đội ngũ
trí thức khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học; đề xuất phương hướng và
những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-Lênin, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục đại học và sau đại học phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN.
Lâm Quang Thiệp xuất bản hai cuốn sách cùng tên: “Giáo dục học đại học”,
Hà Nội, 1997 của Vụ Đại học - trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo (quyển
I: các tài liệu chính) [141] và “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 của Khoa Sư
phạm thuộc ĐHQG Hà Nội [142] đã giới thiệu nhiều chuyên đề bàn luận trực tiếp
đến hoạt động tổ chức đào tạo, quản lý chất lượng cho giáo dục đại học. Với chuyên đề
“Về hệ thống đảm bảo chất lượng cho giáo dục đại học Việt Nam”, tác giả bước đầu

xây dựng quan niệm về chất lượng giáo dục đại học và thẳng thắn thừa nhận: hệ thống
giáo dục đại học Việt Nam chưa “cảm nhận” hết được sự thúc ép mạnh mẽ của nền kinh
tế thị trường, của xu thế hội nhập, quốc tế hóa giáo dục đại học, quốc tế hóa thị trường
sức lao động, những đòi hỏi về nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH; bản thân các trường chưa trực tiếp đứng trước thách thức “sống
còn” của việc lỗ lãi, phá sản; việc thực hiện vai trò của giáo dục đại học trong chuẩn bị
nguồn nhân lực cao cấp cho mọi hoạt động KT-XH chưa đạt được hiệu quả mang
tính bền vững. Thực tiễn ấy đặt ra nhu cầu khách quan phải phát huy mọi nguồn lực
đang trực tiếp tham gia vào giáo dục đại học, trong đó không thể không kể đến việc
nâng cao chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học thông qua hệ thống quản lý
và đảm bảo chất lượng mới.
Hoàng Chí Bảo (2006), Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu
Khoa học (tài liệu tham khảo), Hà Nội [5]. Tác giả nhấn mạnh, giáo dục đại học gắn liền
giảng dạy với nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà
khoa học có quan hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xuyên, lâu dài. Hình thức lao
động của họ có nhiều nét tương đồng về bản chất. Đó là sự phát hiện, sự sinh thành
giá trị mới thông qua những cách tân, tìm tòi hướng tiếp cận và phương pháp giảng
dạy, nghiên cứu mới. Vì vậy, lao động của trí thức giáo dục đại học thể hiện rõ tính sáng
tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.
Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Phương Nga đã thực hiện đề tài trọng điểm
cấp ĐHQG Hà Nội mã số QGTĐ.02.06: Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh
10
giá hoạt động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Đại
học Quốc gia [25]. Đề tài nghiên cứu xem xét, phân tích các kinh nghiệm về đánh
giá chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học của một số trường đại học trên thế
giới. Trên cơ sở phân tích hiện trạng của hai hoạt động cơ bản này ở ĐHQG Hà
Nội, đề tài xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
học của giảng viên có tính đến xu thế hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học. Đây là
nghiên cứu về lĩnh vực đo lường và đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm
vụ của đội ngũ nhà giáo do các chuyên gia và cán bộ quản lý giáo dục thực hiện nên

kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở cách tiếp cận theo
hướng đánh giá tổng thể chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học cho
tác giả luận án.
Hoàng Tụy (2006), Giải pháp nào cho giáo dục đại học?
(http://www vast.ac.vn/HVGD/ThamLuan/giaiphapnao_htuy.htm) [199]. Ông cho
rằng: Hiện đại hoá giáo dục đại học thực chất là cuộc cải cách toàn diện từ mục
tiêu, đến nội dung, phương pháp và tổ chức, quản lý, để hướng tới một nền đại học
tương đồng với thế giới theo xu thế chung đã nói ở trên. Những đặc điểm chủ yếu
của xu thế đại học này là: 1. Nhấn mạnh năng lực sáng tạo trong mọi khâu đào tạo;
đặc biệt coi trọng nghiên cứu khoa học; 2. Bảo đảm cho mọi công dân quyền bình
đẳng về cơ hội học tập và thành công trong học vấn; đó là một xu thế tất yếu. Đây
là cơ hội tốt để chúng ta có thể tranh thủ hợp tác, học hỏi kinh nghiệm của các nước
có nền giáo dục và công nghệ đào tạo tiên tiến, đẩy mạnh công cuộc cải cách giáo
dục hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
Phòng Phát triển con người khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân
hàng Thế giới với Báo cáo “Giáo dục đại học và kỹ năng cho tăng trưởng”, tháng
6/2008 [107]. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực giáo dục đại học trong mối
liên hệ với trị trường lao động ở Việt Nam. Rất nhiều nội dung quan trọng về chất
lượng của giáo dục đại học được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý là
vấn đề hiệu quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng đội
ngũ giảng dạy; năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên; sự hài lòng của sinh
viên; khả năng, mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của giáo dục đại
học Việt Nam cho nguồn nhân lực, cho gia tăng năng suất lao động và thúc đẩy
năng lực sáng tạo của người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao
11
từ thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Giá trị thực tiễn của Báo cáo còn thể
hiện ở những khuyến nghị đổi mới hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đến năm
2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Kết quả nghiên cứu của Báo cáo có ý nghĩa quan
trọng đối với tác giả luận án trong việc kế thừa cách tiếp cận về chất lượng giáo dục
đại học thông qua những số liệu minh chứng về hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu

khoa học của đội ngũ trí thức nhà giáo đại học ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội [20]. Tiếp cận đặc điểm của giáo
dục đại học trong điều kiện kinh tế thị trường, tác giả cho rằng, sản phẩm giáo dục đại học
là loại sản phẩm dịch vụ, nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng hóa.
Khi so sánh với các loại dịch vụ khác thì sản phẩm dịch vụ giáo dục đại học có tính đặc
thù - đó là những người công dân có ích với chính mình có trách nhiệm với gia
đình, xã hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hóa có
ngoại biên thuận.
Trần Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội [51]. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc đổi
mới giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là phát triển đội ngũ giảng dạy,
nghiên cứu chuyên ngành trong các trường đại học, cuốn sách là tài liệu chuyên khảo
cho giáo dục bậc đại học. Với 12 chương, tác giả đi từ lịch sử vấn đề cho tới những
nội dung cụ thể về: chương trình giáo dục đại học, cách đánh giá và quản lý chất
lượng trong giáo dục đại học, khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
trong giáo dục đại học nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng.
Nguyễn Thị Phương Mai (2009), Suy nghĩ về định hướng phát triển giáo
dục đại học Việt Nam đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Cộng sản, số 805 (11/2009) [95]. Tác
giả đã bàn về: Tạo sự bình đẳng hơn nữa và mở rộng cơ hội tiếp cận với giáo dục
đại học trong cộng đồng. Trao quyền tự chủ thực sự cho cơ sở giáo dục đại học,
đảm bảo tính đa dạng và linh hoạt trong hoạt động giáo dục đại học. Giáo dục đại
học mang tính chuyên nghiệp cao kết hợp với sự tích cực của giáo dục và người
học. Sự tương đồng với nền giáo dục khu vực và thế giới trong xu thế toàn cầu.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học
giai đoạn 2010 - 2012, Nxb Giáo dục, Hà Nội [17]. Công trình nghiên cứu đi sâu
phân tích thực trạng của hệ thống giáo dục đại học hiện nay, chương trình hành
12
động của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn
2010 - 2012. Nghị quyết của Ban Cán sự Đảng bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới

quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 đã chỉ ra hạn chế trong chất lượng giáo
dục đại học và khẳng định sự cần thiết phải có giải pháp đổi mới quản lý toàn diện, có
tính đột phá để nâng cao được chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
Nghị quyết nhấn mạnh, phải đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo
dục đại học…
Nguyễn Văn Sơn (2010), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội [125]. Cuốn sách đã làm
rõ tính đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong tầng lớp trí thức Việt
Nam. Tác giả tập trung phân tích thực trạng về cơ cấu chất lượng đội ngũ trí thức
giáo dục đại học theo các phương thức hoạt động chủ yếu, theo nhóm ngành khoa
học lớn, theo sự phân bố vùng lãnh thổ, theo các trường và chủ thể quản lý, về trình
độ, phẩm chất, năng lực của đội ngũ. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm
xây dựng đội ngũ này cơ cấu hợp lý và chất lượng cao nhằm đáp ứng sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta.
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2010), Kinh nghiệm một số nước về
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí
thức, Nxb CTQG, Hà Nội [155]. Các tác giả đã phân tích chính sách phát triển giáo
dục và đào tạo, KH&CN với xây dựng đội ngũ trí thức của từng nước, từ đó rút ra
các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (tháng 7 năm
2011), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-
2020 [18]. Báo cáo đã tập trung làm rõ các nội dung quan trọng sau: Một là, hiện
trạng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam với những thành tựu cơ bản, những hạn
chế chủ yếu và nguyên nhân của nó. Hai là, phương hướng phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam đến năm 2020 và những vấn đề đặt ra. Ba là, các giải pháp chủ yếu
thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Bốn là, tổ
chức thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Trần Quốc Toản (2011), Phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế [127]. Nội dung cuốn sách đã nghiên cứu và làm rõ bản
chất của giáo dục, hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế; luận giải cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn sự tác động của cơ chế thị

13
trường đối với giáo dục - đào tạo; nghiên cứu thực trạng phát triển giáo dục - đào
tạo của Việt Nam trong quá trình đổi mới ở nước ta, chuyển đổi sang cơ chế thị
trường; kinh nghiệm quốc tế về phát triển giáo dục đào tạo… Trên cơ sở nghiên cứu
lí luận và thực tiễn, cuốn sách đề xuất hệ thống đồng bộ các định hướng, nội dung
và giải pháp mới, nhận thức, tư duy mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên và đội ngũ quản lý giáo dục ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường.
Nhà xuất bản Lao động (2011) đã tổ chức sưu tầm biên soạn cuốn sách Giáo
dục Đào tạo Việt Nam - thời hội nhập [110] nhằm góp phần thúc đẩy xây dựng
nguồn nhân lực hiện tại cũng như tương lai cho nước nhà. Qua tập sách này, chúng
ta nhận thấy hàng loạt các cải cách trong phương pháp giảng dạy, cùng với việc rèn
luyện đạo đức theo gương Hồ Chí Minh. Cuốn sách còn đề cập tới tâm lý giáo dục
và kinh nghiệm phát triển ngành giáo dục của một số nước tiên tiến trên thế giới.
Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực, nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới [126]. Cuốn sách là một công trình
nghiên cứu lớn đã trình bày tổng quan về phát triển giáo dục và đào tạo một số
nước trên thế giới; xu hướng nổi bật của nền giáo dục đại học thế kỷ XXI; khả
năng cạnh tranh, quản lý giáo dục đại học, tài chính cho giáo dục đại học và bàn về
văn hoá dạy học… Vấn đề phát triển giáo dục và đào tạo ở một số nước trên thế
giới: chiến lược phát triển giáo dục Nga thế kỷ XXI, đại học Đức, cải cách chương
trình giảng dạy ở Nga, Trung Quốc, Anh; Chính sách giáo dục Thuỵ Điển, Na Uy,
Phần Lan…; hệ thống giáo dục Hoa Kỳ, thế kỷ đại học châu Á (Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore…). Cuốn sách còn cung cấp danh mục 217 công trình nghiên cứu
về giáo dục và đào tạo của nhiều nước trên thế giới nhằm phục vụ lãnh đạo và bạn
đọc nghiên cứu về giáo dục về chủ chương, chính sách và bài học kinh nghiệm thế
giới để vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng
đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội [54]. Tác giả phân tích
một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy, bao gồm: vai trò, phẩm
chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy của người thầy

giáo; đánh giá thực trạng của đội ngũ giảng viên đại học về số lượng, chất lượng, cơ
cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, khía cạnh thu nhập và vị thế của họ trong xã hội.
14
Đồng thời, tác giả phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy trong
việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay.
Ban Tổ chức Trung ương, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Cơ sở lý
luận và thực tiễn của Chiến lược quốc gia về nhân tài trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, mã số ĐTĐL. 2010G/47 [3], Hội thảo khoa
học: Công tác nhân tài ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội,
tháng 8/2011 [4]. Công trình nghiên cứu này là tập hợp những bài viết nghiên cứu
khoa học đầy tâm huyết của các nhà khoa học, các nhà quản lý. Kỷ yếu hội thảo tập
trung làm rõ một số khái niệm cơ bản về nhân tài, nguồn nhân lực CLC, về tình
hình công tác nhân tài ở nước ta hiện nay, về định hướng và giải pháp đối với công
tác nhân tài ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.1.1.3. Về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
Đỗ Minh Cương (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội [22]. Với quan điểm xem nhà giáo đại học là nhân tố quan
trọng và có ý nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta,
tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của trí thức giáo dục đại học, đánh giá thực trạng nguồn
nhân lực giáo dục đại học, qua đó luận chứng một số giải pháp xây dựng phát triển đội
ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội [81]. Tác giả đi sâu bàn về phạm trù nguồn lực trí tuệ và
nội hàm của nguồn lực trí tuệ ở Việt Nam; tầm quan trọng của việc phát huy nguồn
lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tác giả làm rõ thực trạng của nguồn
lực trí tuệ Việt Nam (điểm mạnh, mặt hạn chế), từ đó đề xuất những giải pháp chủ
yếu để xây dựng nguồn lực trí tuệ Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Đây là công trình chuyên khảo, chuyên sâu về nguồn lực trí tuệ ở nước ta, là tài liệu
bổ ích để tác giả nghiên cứu cho các nội dung trong luận án của mình.
Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên) (2004), Quản lý nguồn nhân

lực ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
[109]. Cuốn sách là tập hợp các bài nghiên cứu, bài viết, bài tham luận tại Hội thảo
của Đề tài KX.05.01 thuộc Chương trình KH&CN cấp Nhà nước KX.05 (giai đoạn
2001-2005), với các vấn đề lý luận, kinh nghiệm và những khuyến nghị chính yếu
15
trong quản lý nguồn nhân lực Việt Nam. Công trình có ý nghĩa quan trọng để Nhà
nước ta quản lý hiệu quả nguồn nhân lực Việt Nam, góp phần đẩy mạnh CNH,
HĐH và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, Nxb Thế giới, Hà Nội [135]. Nội dung cuốn sách trình bày những kinh
nghiệm trong phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng KH&CN sản xuất, kinh doanh,
quản lý của Mỹ và một số quốc gia châu Âu (Đức, Pháp, Anh), châu Á (Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Á khác). Từ đó, tác giả đã đưa ra
vấn đề: Việt Nam cần đổi mới các chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn
tài năng hiện có. Công trình nghiên cứu của tác giả có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối
với nước ta trong việc phát hiện, đào tạo, sử dụng tài năng KH&CN phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH và công cuộc đổi mới đất nước.
Vũ Minh Giang (2008), Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối
cảnh mở cửa và hội nhập, Tạp chí Cộng sản (5/11/2008) [53], cho rằng: Mở cửa và
hội nhập là một chủ trương lớn trong đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Đầu năm 2007, nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) và kèm theo đó là cam kết mở cửa thị trường dịch vụ (GATS),
trong đó có giáo dục đại học. Việc phát triển một nền giáo dục có yếu tố nước ngoài
đang dần trở thành xu thế tất yếu. Đây là cơ hội tốt để chúng ta có thể tranh thủ hợp
tác, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục và công nghệ đào tạo tiên
tiến, đẩy mạnh công cuộc cải cách giáo dục hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
Phạm Công Nhất (2008), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, số 786, 4/2008 [112]. Bài viết
đã đánh giá sơ lược về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam sau 20 năm
đổi mới. Đặc biệt, bài viết đã đưa ra 4 giải pháp để phát triển nguồn nhân lực Việt

Nam, trong đó nhấn mạnh đến giải pháp cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc
dân theo hướng hiện đại.
Viện CNXH khoa học (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp cơ sở năm 2010, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức [157]. Đề
tài đã tập trung làm rõ lý luận về NNLCLC và CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức;
đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm thế giới về phát triển NNLCLC và thực trạng
16
NNLCLC của Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, đề tài chỉ ra
xu hướng phát triển NNLCLC, đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển nguồn
lực này đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức của Việt
Nam.
Nguyễn Văn Khánh (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - lịch sử, hiện trạng
và triển vọng [74]. Cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu của tập thể các nhà
khoa học đầu ngành của Đại học KHXH&NV - ĐHQG Hà Nội, do GS.TS Nguyễn
Văn Khánh chủ biên. Cuốn sách tập trung vào việc đánh giá nguồn lực trí tuệ Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử, phân tích quá trình xây dựng nguồn lực trí tuệ,
những yếu tố thúc đẩy, cản trở việc phát huy nguồn lực này. Cuốn sách đã trình bày
những vấn đề chung về trí tuệ, nguồn lực trí tuệ; kinh nghiệm xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ của Việt Nam và một số nước trên thế giới; thực trạng nguồn lực
trí tuệ của Việt Nam trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; xây dựng và phát huy
nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Đặng Hữu Toàn (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - một đột
phá chiến lược trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020, Tạp chí Triết học, số 8 (255) [128]. Trong bài viết, tác giả nêu rõ: Phát triển
NNLCLC là định hướng mang tầm chiến lược; là khâu đột phá quyết định; là yếu tố
hàng đầu để đẩy nhanh sự phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; là lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất trong phát triển KT -XH nhanh và bền vững; là đột phá
chiến lược trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và thực hiện tái cơ cấu lại nền
kinh tế đất nước.

Những công trình, bài viết tiêu biểu về trí thức, trí thức giáo dục đại học,
nguồn nhân lực và NNLCLC ở trong nước mà tác giả đã tổng quan ở trên là tài liệu
tham khảo rất có ý nghĩa đối với luận án. Ở những góc độ tiếp cận khác nhau, một
mặt, các học giả khẳng định vai trò của trí thức Việt Nam trong lịch sử, mặt khác đã
chỉ ra sứ mệnh của người trí thức nói chung và trí thức giáo dục đại học trong sự
nghiệp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế,
là thông điệp để khuyến nghị với Đảng và Nhà nước đề ra những chính sách tốt
17
nhất, tạo động lực cho trí thức của mọi lĩnh vực phát huy vai trò, trách nhiệm trước
nhân dân và dân tộc.
1.1.2. Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
1.1.2.1. Công trình nghiên cứu về trí thức
Nhà xuất bản Trí thức ra cuốn sách “Tập tiểu luận về trí thức Nga”
(4/2009) do hai dịch giả Việt Nam là La Thành và Phạm Nguyên Trung dịch
[111]. Đây là công trình tập hợp các bài viết của các học giả - trí thức của nước
Nga trước Cách mạng Tháng Mười, của nước Nga thuộc Liên Xô cũ và nước Nga
thời kỳ “hậu Xô viết”. Chính kiến của họ rất đa dạng, đôi khi đối chọi nhau,
nhưng đều trong tinh thần học thuật nghiêm túc và với ý thức trách nhiệm xã hội
hết sức đáng trân trọng. Những người dịch trung thành ý tưởng và cách diễn đạt
của các tác giả nhằm đưa đến cho bạn đọc bức tranh trung thực về tình cảnh của
giới trí thức Nga từ cuối thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX. Họ viết về chính họ,
trong khung cảnh lịch sử và hoàn cảnh xã hội của nước Nga. Những trăn trở, dồn
nén và phản ứng (tích cực cũng như tiêu cực) của họ trước thời cuộc đáng để
chúng ta quan tâm khi soi vào thực trạng tầng lớp trí thức Việt Nam. Ivanov -
Razumnik và Likhachev nhấn mạnh phạm trù đạo đức trong định nghĩa trí thức,
trong khi các tác giả khác hiểu giới trí thức như một tầng lớp xã hội với một số
đặc thù nhất định bao gồm cả tốt và xấu về mặt đạo đức.
Khi nói đến nhiệm vụ của người trí thức với chức năng đào tạo trong quá
trình phát triển của đất nước, các cựu tổng thống của Hoa Kỳ, như John. Kenơdi, G.
Bush đều nhấn mạnh: Trường đại học là nguồn lực đảm bảo sức mạnh và khả năng

sống còn của đất nước. Nguyên Thủ tướng Quốc Vụ viện nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Trung Hoa - Lý Bằng cũng đã từng nhấn mạnh chức năng đào tạo và xác
định vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức trong sự phát triển KT- XH của đất nước.
Ông cho rằng, ra sức phát triển giáo dục là con đường tất yếu để nâng cao trình độ
người lao động và chấn hưng nền kinh tế v.v
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức, nhiều
nhà khoa học quốc tế còn quan tâm nghiên cứu về vấn đề con người, nhân tài,
nguồn nhân lực, NNLCLC. Tiêu biểu như công trình của: Thẩm Vinh Hoa - Ngô
Quốc Diện (chủ biên) (1996), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế sách trăm
năm chấn hưng đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội [61]. Đây là cuốn sách có ý nghĩa
18
tham khảo đối với Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Nội dung cuốn sách nói về
tư tưởng nhân tài của Đặng Tiểu Bình - nhà lãnh đạo kiệt xuất của công cuộc cải
cách, mở cửa, xây dựng hiện đại hóa XHCN của Trung Quốc. Tư tưởng Đặng Tiểu
Bình về nhân tài là sự kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Mao
Trạch Đông, là bộ phận cấu thành kho tàng lí luận của Trung Quốc trên con đường
xây dựng CNXH.
1.1.2.2. Công trình nghiên cứu về giáo dục đại học
Để bắt kịp với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, xu hướng biến đổi mạnh mẽ của giáo dục đại học trên phạm vi toàn
thế giới, UNESCO đã tổ chức Hội nghị thế giới đầu tiên về giáo dục đại học
phục vụ hoạt động tập trung trí tuệ của nhân loại suy nghĩ về một nền giáo dục
cho thế kỷ XXI (tổ chức vào 10/1998 tại Paris), với khẩu hiệu “Highter
Education in the Twenty - first Century, Vision and Action” (Giáo dục đại học
thế kỷ XXI, Tầm nhìn - Hành động) [151]. Đây là công trình nghiên cứu quốc tế
quan trọng, các tác giả và những người nghiên cứu về giáo dục đại học thấy
được sứ mệnh cao cả của hệ thống giáo dục đại học nói chung và đội ngũ trí thức
giáo dục đại học nói riêng, đó là phải gìn giữ, củng cố và phát triển “sự nghiệp
trồng người” một cách có trách nhiệm.
Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn thế giới về giáo dục đại học với nhận

định: sứ mạng cốt lõi của các hệ thống giáo dục đại học là giáo dục những người tốt
nghiệp có chất lượng cao và những công dân có trách nhiệm, cung cấp cơ hội cho
học tập đại học và học tập suốt đời; đội ngũ giáo viên cần tăng cường chức năng
phê phán và nhìn về tương lai, đồng thời cần có đầy đủ trách nhiệm giải trình đối
với xã hội. Tuyên ngôn xác định, chất lượng trong giáo dục đại học là khái niệm đa
chiều, trong đó bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nó, gồm giảng dạy,
chương trình đào tạo, NCKH, đội ngũ giảng viên và sinh viên, cấu trúc hạ tầng và
môi trường giáo dục.
J.Vial - nhà giáo dục Pháp, trong cuốn "Lịch sử và thời sự về các phương
pháp sư phạm", (1993) [70] đã kiến tạo một quan điểm mới về đặc điểm lao động
của trí thức nhà giáo ở bậc đại học. J.Vial khẳng định: Người dạy không chỉ làm tốt
chức năng kép của mình là biết cách truyền đạt cái người học cần mà còn biết tổ
19

×