Tải bản đầy đủ (.doc) (185 trang)

Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.01 KB, 185 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ LAN

chất lợng lao động của đội ngũ trí thức
giáo dục ®¹i häc ViƯT NAM hiƯn nay
Chun ngành

: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Mã số

: 62 22 85 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngêi híng dÉn khoa häc: GS.TS hoµng chÝ b¶o

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án

Trần Thị Lan


MỤC LỤC


Trang
1

MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN

1.1. Những cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến luận án
1.2. Những cơng trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến luận án
1.3. Những giá trị, hạn chế của các cơng trình nghiên cứu liên quan
đến luận án và những vấn đề luận án tiếp tục làm sáng tỏ
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA TRÍ
THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

2.1. Quan niệm về trí thức, trí thức giáo dục đại học và lao động của
trí thức giáo dục đại học
2.2. Tính đặc thù của lao động trí thức giáo dục đại học Việt Nam
trong bối cảnh hiện nay
2.3. Quan niệm về chất lượng lao động và chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học
2.4. Tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

6
6
17
20
23
23
35

48
59

Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay
3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với chất lượng lao động của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay

69
69
94

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
LAO ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ
trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN


114
114
125
148
149
151


CBGD
CNH, HĐH
ĐH
GDĐH
GS
NCKH
Nxb
PGS
TB
Ths
TS

:
:
:
:
:
:
:
:
:

:
:

Cán bộ giảng dạy
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại học
Giáo dục đại học
Giáo sư
Nghiên cứu khoa học
Nhà xuất bản
Phó giáo sư
Trung bình
Thạc sĩ
Tiến sĩ


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Đánh giá của sinh viên về chất lượng một số hoạt động
kiêm nhiệm của đội ngũ trí thức GDĐH
Bảng 3.2: Mức độ hài lịng của trí thức GDĐH đối với kết quả lao
động của bản thân
Bảng 3.3: Mức độ hài lòng của sinh viên về một số lĩnh vực hoạt
động của đội ngũ trí thức GDĐH
Bảng 3.4: Các kỹ năng và phẩm chất cá nhân, phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực sinh viên đạt được trong thời gian học
tập tại trường đại học

80
85

86

89

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Trang
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Việt Nam năm 2012 - 2013
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu chức danh phân theo ngành của trí thức giáo dục

71

đại học Việt Nam ở một số trường đại học tiêu biểu năm
2010 - 2011
Biểu đồ 3.3: Cơ cấu chức danh GS, PGS theo vùng, miền của trí thức

101

giáo dục đại học Việt Nam ở một số trường đại học tiêu
biểu năm 2010 - 2011

102


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã khơng những xác định vị trí của con
người ở hàng đầu trong lực lượng sản xuất mà còn định hình ngày càng rõ

hơn vai trị đặc biệt quan trọng của nguồn lực trí tuệ đối với việc phát triển
nội lực của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam đang ở thời kỳ bước ngoặt của phát triển với việc đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Bối cảnh của thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đồng thời cũng đặt nước
ta trước nhiều nguy cơ, thách thức nghiệt ngã trên tiến trình hội nhập, trong
đó, sự lạc hậu, tụt hậu về trí tuệ là điều đáng sợ nhất.
Với tư cách là cái nôi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, GDĐH
Việt Nam có trọng trách to lớn trong quá trình tạo lập, phát triển tiềm lực trí
tuệ cho dân tộc. Điều này lý giải tại sao giờ đây, khắc phục điểm nghẽn về
nguồn nhân lực trình độ cao thơng qua việc cải biến chất lượng lao động của
đội ngũ trí thức GDĐH được đặt ra như một giải pháp chiến lược cho sự phát
triển, chấn hưng dân tộc mà Việt Nam phải hết sức quan tâm. Đó là kết quả
trực tiếp của sự gia tăng nguồn lực trí tuệ được Việt Nam cũng như các quốc
gia đặc biệt chú trọng trước tính cạnh tranh trong nền kinh tế dựa trên sức
mạnh của tri thức, khoa học và công nghệ.
Vấn đề hệ trọng này cịn được cắt nghĩa từ chính những yếu kém kéo
dài, chậm được khắc phục trong chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của
GDĐH ở nước ta. Càng đi sâu vào hội nhập, chất lượng đào tạo nguồn nhân
lực ở Việt Nam càng bị chi phối bởi qui luật cạnh tranh và những tác động
tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường. Đáng lo ngại là tình trạng bất cập về
trình độ, năng lực và những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, lao
động hình thức, thiếu tận tâm, tận lực của khơng ít trí thức nhà giáo trước trọng
trách vinh quang của sự nghiệp “trồng người”. Đặc biệt là những thách thức


2
được đặt ra từ chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo đại học chưa đáp ứng tốt
yêu cầu thị trường lao động trong nước và quốc tế. Điều đó xa lạ với bản chất
lao động khoa học sư phạm sáng tạo và phẩm chất cao qúi của nhà giáo, nếu

không kịp thời khắc phục chắc chắn sẽ để lại “di chứng” cho nguồn lực con
người không chỉ hiện hữu ở thực tại mà còn trong tương lai.
Để vượt qua lực cản và thách thức này cần đến những giải pháp đồng
bộ, nhất là những giải pháp mang tính đột phá nhằm cải biến hiện trạng đã nêu.
Chính yêu cầu tìm kiếm chìa khố cho sự phát triển nguồn nhân lực đã đưa vấn
đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH trở thành mối quan tâm
thường trực, hàng đầu của các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như tồn xã hội
trong q trình thực hiện cuộc cách mạng về giáo dục. Mặt khác, đó cũng là điều
kiện đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của cơ sở đào tạo đại học Việt
Nam trong bối cảnh cạnh tranh, hội nhập quốc tế, trước những kỳ vọng của xã
hội vào sự cách tân từ các chủ thể giáo dục, từ chương trình, phương pháp giáo
dục đại học mà mục đích cao nhất là cải biến chất lượng nguồn nhân lực được
đào tạo. Đây là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là cơng việc khó khăn, phức tạp, tốn
kém nhiều công sức, thời gian, tâm lực, trí lực và tiền bạc.
Trên một bình diện cao hơn, thuộc về trách nhiệm, lương tâm xã hội,
quan tâm đến chất lượng lao động của trí thức GDĐH là chăm lo cho sự
nghiệp đào tạo nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Để đảm bảo độ tin cậy cho chiến
lược phát triển, bền vững của quốc gia cần thiết phải tìm ra khâu đột phá từ
tiềm lực của con người trên cái giá đỡ vật chất của sự phát triển kinh tế. Cơ sở
để tạo nên nguồn lực trí tuệ khơng thể nằm ngồi GDĐH mà mấu chốt là ở
chất lượng lao động của đội ngũ trí thức nhà giáo.
Chỉ với cái nhìn biện chứng như vậy mới thấy hết tầm quan trọng và
tính bức thiết vì sao phải đổi mới GDĐH, bắt đầu từ những cải biến trong chất
lượng lao động của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như các thế hệ giảng viên đại
học. Luận giải, khảo sát vấn đề này để tìm giải pháp phát triển khơng chỉ có ý
nghĩa lý luận mà cịn góp phần thực hiện chủ trương kiểm định chất lượng các


3
trường đại học theo hệ tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm “đổi mới

căn bản, toàn diện nền giáo dục” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8
khóa XI của Đảng.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Chất lượng lao
động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Xác định một quan niệm có tính hệ thống về chất lượng lao động của
trí thức GDĐH để xây dựng luận cứ khoa học đánh giá thực trạng vấn đề này
ở Việt Nam, qua đó đề ra những giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích nêu trên, ngồi việc tổng quan tình hình nghiên cứu
có liên quan đến vấn đề trí thức, trí thức GDĐH, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt
Nam từ quan niệm chung đến việc chỉ ra những đặc điểm lao động, tiêu chí
đánh giá và tính tất yếu nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH
Việt Nam và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng lao động
của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phát
triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về chất lượng lao động của đội ngũ trí thức
GDĐH ở Việt Nam trong điều kiện của đổi mới, của đẩy mạnh CNH, HĐH



4
đất nước, với tác động của xu thế hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ
của kinh tế tri thức.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH có nội dung rất rộng.
Tuy nhiên, luận án chỉ giới hạn nghiên cứu trên ba phương diện chủ yếu:
giảng dạy; NCKH; quản lý giáo dục của đội ngũ trí thức GDĐH ở các trường
Đại học công lập của Việt Nam.
- Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng chất lượng lao động của đội
ngũ trí thức GDĐH Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013 và xây dựng giải pháp
nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ đó cho những năm tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức GDĐH; về vấn đề lao động
và động lực lao động nói chung.
Luận án cịn kế thừa hợp lý những kết quả nghiên cứu có liên quan đến
luận án của các tác giả trong và ngoài nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời chú trọng sử dụng
phương pháp logic - lịch sử cùng các phương pháp có tính liên ngành như phân
tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh, khái quát hố.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề chất lượng lao động của
trí thức GDĐH dưới góc độ triết học - chính trị - xã hội - giáo dục.
- Luận án xây dựng tiêu chí đánh giá đối với chất lượng lao động của
trí thức GDĐH trong hoạt động nghề nghiệp.

- Luận án đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt Nam trong điều kiện của đổi mới,


5
của đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước tác động của xu thế hội nhập, tồn cầu
hóa và phát triển kinh tế tri thức.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần phát triển hướng nghiên cứu mới về lý luận và
thực tiễn đối với vấn đề chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH Việt
Nam từ sự kết hợp cách tiếp cận triết học - chính trị - xã hội và giáo dục.
- Luận án góp phần củng cố vững chắc luận cứ khoa học làm cơ sở cho
việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cơng tác trí
thức GDĐH trong điều kiện mới.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến trí thức, trí thức GDĐH.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Trước xu thế hội nhập, tồn cầu hố và những tác động sâu sắc của
kinh tế tri thức, vai trò của GDĐH trong xã hội ngày càng được nâng cao, mối
quan tâm đến chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH vì thế cũng trở
nên có sức hút mạnh mẽ đối với nhiều chủ thể. Liên quan đến vấn đề chất
lượng lao động của trí thức GDĐH ở những khía cạnh và góc độ tiếp cận khác
nhau, có nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước.

1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC CĨ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu bàn luận trực tiếp đến trí thức
Một là, những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu đã được in thành sách:
- GS, TS Phạm Tất Dong (chủ biên): “Định hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” [42]. Cơng trình đã có
những luận giải xác đáng về vai trị của trí thức trong phát triển lực lượng sản
xuất, trong sáng tạo văn hóa, phát huy bản sắc dân tộc, trong lãnh đạo, quản lý
và điều hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Với thái độ tơn trọng trí thức,
GS, TS Phạm Tất Dong khẳng định, trong nền kinh tế thị trường, “sản phẩm
lao động của trí thức là một loại hàng hóa đặc biệt, nó có thể mất đi hoặc bị
chiếm đoạt mà khơng ai biết, song nó cũng có thể được lưu thơng và trả giá
xứng đáng như bao thứ hàng quý hiếm khác” [42, tr.330]. Đây chính là khởi
nguồn cho sự đổi mới tư duy khi xem tiền lương và các loại phụ cấp của trí
thức như những chính sách đầu tư có lợi nhất để mua lại “chất xám” - một
loại sản phẩm đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
- TS Nguyễn Đắc Hưng: “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước” [72] và “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” [73]. Hai cuốn
sách làm rõ quan niệm về trí thức; vị trí, vai trị của trí thức; những phương
hướng chủ yếu để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ở nước ta đáp ứng


7
yêu cầu của thời đại. Trên cơ sở khẳng định nội hàm rất rộng của khái niệm
trí thức, tác giả đã chỉ rõ: trí thức là những người khơng chỉ có trình độ học
vấn cao mà điều quan trọng nhất là họ thực sự lao động bằng trí tuệ có tính
sáng tạo, có những cống hiến nhất định hữu ích cho xã hội và phải được xã
hội kiểm định chất lượng thông qua hoạt động thực tiễn [72, tr.16-17]. Đây
là sự đổi mới tư duy về trí thức, từ chỗ coi trọng trình độ chun mơn được

đào tạo đến chỗ thừa nhận và đòi hỏi năng lực lao động thực tế thông qua sự
kiểm định khách quan của xã hội.
- PGS, TS Nguyễn An Ninh: “Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học
xã hội và nhân văn trong cơng cuộc đổi mới đất nước” [109]. Từ những kiến
giải về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn hiện
nay, tác giả đã đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm phát huy tiềm năng của
đội ngũ này góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- GS, TS Nguyễn Văn Khánh - chủ biên của hai cơng trình: “Xây dựng
và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước”
[74]; “Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển vọng” [75].
Giá trị của hai cơng trình nghiên cứu thể hiện tập trung ở những luận chứng
khoa học về vấn đề trí thức, nguồn lực trí tuệ với cách tiếp cận liên ngành. Đội
ngũ trí thức được tác giả quan niệm là tầng lớp tinh hoa của nguồn lực trí tuệ
Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực này,
tác giả đã đưa ra hệ thống giải pháp có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng
và phát huy vai trị của nguồn lực trí tuệ đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của sự
nghiệp chấn hưng đất nước.
- PGS, TS Nguyễn Khánh Bật, Th.s Trần Thị Huyền (đồng chủ biên),
“Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH theo tư tưởng Hồ
Chí Minh” [18]. Đây là cơng trình nghiên cứu mang tính chun sâu về trí thức
dưới góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã khái quát những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, làm rõ sự vận dụng sáng tạo của
Đảng và Nhà nước ta trong cơng tác xây dựng trí thức đồng thời đánh giá


8
những đóng góp, hạn chế của đội ngũ này trong cách mạng Việt Nam, trên có
sở đó, đi sâu phân tích những giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta
thời kỳ 2011- 2020 đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hai là, các đề tài khoa học nghiên cứu về trí thức:

- GS, TS Phạm Tất Dong với Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX
04 - 06: "Luận cứ khoa học cho các chính sách nhằm phát huy năng lực sáng
tạo của giới trí thức và sinh viên” [40] đã chú trọng phân tích làm rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn và pháp lý của việc hoạch định chính sách, giải pháp hướng
vào việc khơi dậy, khai thác, sử dụng năng lực sáng tạo của giới trí thức và
sinh viên trong hoạt động giáo dục và đào tạo.
- PGS, TS Đàm Đức Vượng, PGS, TS Nguyễn Viết Thông: “Xây dựng
đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011- 2020” [161]. Đây là cơng trình
nghiên cứu cơng phu và có hệ thống về trí thức. Trên cơ sở đánh giá tổng thể
về thực trạng đội ngũ trí thức Việt Nam, đề tài đi sâu phân tích, kiến nghị
những giải pháp nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ trong thời kỳ
đổi mới toàn diện đất nước. Đề tài đã làm rõ thêm nội hàm của khái niệm trí
thức trên bình diện rộng. Khơng những chỉ ra tính chất lao động trí óc cùng
với những u cầu về sự hiểu biết, trình độ, khát vọng dân chủ, cơng bằng, tự
do và kết quả sáng tạo trong việc truyền bá, phổ biến, ứng dụng vào đời sống
xã hội của trí thức, các tác giả đề tài còn xác định rõ thiên chức, phẩm chất,
tính cách của người trí thức Việt Nam.
Ba là, các luận án nghiên cứu về trí thức đã bảo vệ thành công trong
những năm gần đây:
- PGS, TS Phan Thanh Khơi: “Động lực của trí thức trong lao động sáng
tạo ở nước ta hiện nay” [77]. Trên cơ sở nhận diện lực lượng trí thức với tư cách
là “tầng lớp xã hội đặc biệt”, tác giả luận giải tính chất lao động của người trí
thức đồng thời cũng tập trung làm rõ động lực lao động sáng tạo và những giải
pháp chủ yếu phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay.
- PGS, TS Đỗ Thị Thạch: “Trí thức nữ Việt Nam trong cơng cuộc đổi
mới hiện nay - tiềm năng và phương hướng xây dựng” [133]. Đây là công


9
trình nghiên cứu chun sâu về lực lượng trí thức nữ. Tác giả đã có những

đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn khi kiến giải tiềm năng cũng như vai
trị to lớn của lực lượng trí thức nữ Việt Nam đối với sự phát triển của đời
sống xã hội. Xuất phát từ thái độ tôn trọng, tin cậy vào khả năng đóng góp
của lực lượng này, tác giả đã đề xuất những phương hướng cơ bản nhằm phát
huy tiềm năng, vai trị của lực lượng trí thức nữ trong sự nghiệp cách mạng
nước ta, đặc biệt là trong q trình đổi mới tồn diện của đất nước.
- TS Nguyễn Cơng Trí: “Trí thức Việt Nam trong phát triển kinh tế tri
thức” [146]. Từ cách tiếp cận tổng hợp, luận án chỉ ra những đặc trưng, tiêu
chí cơ bản để xác định trí thức, vai trị của đội ngũ này trong điều kiện phát
triển kinh tế tri thức. Luận án xác định, trí thức là người lao động trí óc và
thường có trình độ học vấn cao, được đào tạo hoặc tự đào tạo. Tuy nhiên, “giá trị
quan trọng nhất của người trí thức chân chính đó là chân lý và lẽ phải; trí thức là
người tự tin và ngay thẳng, có lịng tự trọng, khả năng hành xử đúng mực và
thích ứng cao với các biến đổi của môi trường tự nhiên, xã hội” [146, tr.30].
Bốn là, những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu về trí thức được cơng
bố trên các tạp chí trong những năm gần đây:
Bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, yêu cầu đổi mới tư
duy về vấn đề trí thức đã được đặt ra trong mối quan tâm của không ít nhà
khoa học. Tiếp tục làm rõ bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin và sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quan điểm về trí thức là
hướng nghiên cứu lý luận quan trọng. Một số bài báo đăng trên các tạp chí
trong thời gian qua đã đề cập tới vấn đề này, tiêu biểu như: “Đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”của PGS, TS Phan
Thanh Khơi [78]; “Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức” của
PGS, TS Phan Thanh Khơi [79]; “Suy ngẫm và nhận thức về vấn đề trí thức”,
Tạp chí Lý luận chính trị, 2008, số 9 của PGS, TS Nguyễn Đức Bách [17].
Ngoài ra cần phải nhấn mạnh rằng, trong những năm gần đây, trên đà phát
triển cả về số lượng, chất lượng của trí thức Việt Nam, những khía cạnh mới
về chức năng, nhiệm vụ, chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, giải pháp phát huy



10
vai trị của đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng địi hỏi, u cầu của q trình CNH,
HĐH, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức cũng đã được đặt ra và nghiên cứu
một cách nghiêm túc. Có thể kể đến một số bài viết có giá trị khoa học như:
“Mấy vấn đề cần đổi mới tạo động lực và điều kiện để trí thức nước ta phát
huy tài năng trí tuệ” của Nguyễn Đức Bách [16]; “Tổng quan về đội ngũ trí
thức nước ta hiện nay” [81] và “Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học
xã hội” [82] của PGS, TS Phan Thanh Khơi.
Những cơng trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp cơ sở lý luận, thực
tiễn quan trọng để tác giả luận chứng về trí thức, về vai trị của đội ngũ trí
thức trong điều kiện đổi mới, hội nhập, phát triển kinh tế tri thức và CNH,
HĐH đất nước.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu về trí thức giáo dục đại học,
đặc điểm và chất lượng lao động của trí thức giáo dục đại học
Một là, những cơng trình nghiên cứu khái qt về trí thức GDĐH:
Thông qua việc làm sáng tỏ khái niệm, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm
vụ nhà giáo; khảo sát thực trạng cơ cấu, chất lượng của trí thức GDĐH, nhiều
cơng trình nghiên cứu đã đề xuất giải pháp để xây dựng, phát triển đội ngũ
này ở bậc đại học. Có thể kể đến những cơng trình tiêu biểu sau:
- TS Phạm Văn Thanh: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” [131]. Tác giả chỉ rõ, đội
ngũ giảng viên giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở Việt Nam vừa là nhà giáo
dục, vừa là nhà khoa học, vừa là nhà chính trị. Vai trị của đội ngũ đó được
tác giả đề cập và phân tích ở nhiều bình diện từ chức năng đào tạo cán bộ,
phát triển lực lượng trí thức mới cho đất nước đến việc đảm trách nhiệm vụ
NCKH và tham gia các công tác khác ở hệ thống những trường đại học, cao
đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng và xu
hướng biến đổi của đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin ở nước ta, tác giả
đã đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ này thành lực
lượng lớn mạnh, đóng góp ngày càng nhiều trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.



11
- TS Đỗ Minh Cương - Nguyễn Thị Doan“Phát triển nguồn nhân lực
giáo dục đại học Việt Nam” [38]. Với quan điểm xem nhà giáo đại học là
nhân tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực ở nước ta, tác giả đã đi sâu phân tích vai trị của trí thức
GDĐH, qua đó luận chứng một số giải pháp xây dựng, phát triển nguồn nhân
lực GDĐH trước yêu cầu hội nhập quốc tế.
- PGS, TS Nguyễn Văn Sơn: “Trí thức Giáo dục Đại học Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [126]. Theo tác giả, đội ngũ trí
thức GDĐH Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản: là lực lượng trực tiếp tham
gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân;
đối tượng tác động chủ yếu của người trí thức GDĐH là những sinh viên, học
viên cao học và nghiên cứu sinh; mục đích lao động nhằm đào tạo ra những
người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt; trí thức GDĐH vừa là nhà
giáo vừa là nhà khoa học, nhà chính trị. Từ việc đánh giá thực trạng về cơ
cấu, chất lượng của trí thức GDĐH, tác giả đưa ra phương hướng, giải pháp
cơ bản để phát triển đội ngũ trí thức GDĐH đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Đổi mới quản lý hệ thống GDĐH giai đoạn
2010 - 2012” [26]. Cơng trình nghiên cứu đã giới thiệu Nghị quyết của Ban
cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý GDĐH giai đoạn
2010 - 2012. Nghị quyết đã nghiêm túc chỉ ra hạn chế trong chất lượng
GDĐH và khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định
chất lượng GDĐH; hình thành ở các cơ sở GDĐH tổ chức chuyên trách về
hướng dẫn, bảo vệ và khai thác sở hữu trí tuệ của giảng viên; tơn vinh và tạo
điều kiện ngày càng tốt hơn để nhà giáo ở bậc đại học phát huy tính tích cực
trong NCKH. Có thể khẳng định, đây là cơ sở pháp lý quan trọng có ý nghĩa
định hướng cho tác giả luận án trong việc xây dựng giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng lao động của trí thức GDĐH Việt Nam hiện nay.
Xuất phát từ quan điểm coi trí thức GDĐH là nhân tố quyết định nhất
đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung


12
luận giải vị trí, vai trị của trí thức GDĐH đồng thời tìm ra hệ thống giải pháp cơ
bản tạo động lực lao động cho đội ngũ nhà giáo ở bậc đại học. Liên quan đến
vấn đề đó, những năm gần đây, có một số cơng trình khoa học, đáng chú ý là:
- PGS, TS Bùi Khắc Việt (chủ nhiệm): “Trí thức trẻ và sinh viên”
[160]. Tác giả đã trực tiếp khẳng định vai trị của đội ngũ trí thức trẻ và sinh
viên ở các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở đánh giá thành tựu, hạn chế,
bất cập, nhất là về chất lượng của lực lượng đó trước yêu cầu, đòi hỏi của thực
tiễn phát triển kinh tế - xã hội, tác giả đi đến khẳng định việc phát triển đội ngũ
trí thức trẻ và sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng là việc làm cần thiết.
- Ngồi những cơng trình nêu trên, có thể kể đến một số bài nghiên cứu
của các học giả đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tiêu biểu như: Nguyễn Văn
Duệ: “Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học - thực trạng và kiến nghị” [43];
Nguyễn Duy Yên: “Đổi mới giáo dục trước hết phải đổi mới từ những người
làm giáo dục” [176]; Đinh Thị Minh Tuyết: “Xây dựng và phát triển đội ngũ
giảng viên đại học” [153]. Nhìn chung, các tác giả nêu trên đều có chung
quan điểm khi xem nhà giáo ở bậc đại học là lực lượng nòng cốt xây dựng
cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị tri thức và
phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo cho người
học. Các tác giả nhận định, để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cần tập
trung đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo hướng chuẩn
hoá và hiện đại hoá; việc bố trí, sử dụng nhà giáo phải hợp lý, coi trọng năng
lực sáng tạo thực sự về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời phải tạo lập hệ thống
động lực cho đội ngũ nhà giáo.
Hai là, những cơng trình nghiên cứu bước đầu bàn luận trực tiếp về

đặc điểm lao động của trí thức GDĐH:
- Tác giả Đỗ Văn Phức với bài viết “Đặc điểm lao động của giáo viên
đại học và dạy nghề” [117] chủ yếu nhấn mạnh đến các đặc điểm về tính chất
lao động và những đặc thù nghề nghiệp của trí thức GDĐH. Tác giả nhận
định, lao động của đội ngũ giảng viên là loại lao động sáng tạo, lao động trí
óc, có cả một số yếu tố độc hại và những căng thẳng đặc thù.


13
- Xác định tính chất lao động của trí thức GDĐH, PGS, TS Nguyễn Thị
Mỹ Lộc và TS Đặng Xuân Hải với chuyên đề “Người dạy ở bậc đại học và
giao tiếp sư phạm”, “Phương pháp dạy học ở bậc đại học” trong tài liệu bồi
dưỡng “Giáo dục học đại học” đã đưa ra quan niệm: “Ở đại học, sự sáng tạo
sư phạm đi liền với sự sáng tạo khoa học” [53, tr.217]. Do đó, hoạt động
giảng dạy đại học được thực hiện bởi những người gắn bó với NCKH. Ngoài
những phẩm chất và năng lực của các chuyên gia, họ phải có hai phẩm chất
năng lực có ý nghĩa nhất đối với lao động chuyên môn là năng lực sư phạm
và năng lực NCKH. Rèn luyện kỹ năng của một nhà khoa học và nhà sư phạm
tâm huyết là yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng nghề nghiệp của đội ngũ
giảng viên đại học.
- PGS, TS Phạm Hồng Quang - tác giả cuốn sách “Môi trường giáo dục”
[119] đưa ra quan niệm về đặc điểm lao động của trí thức GDĐH. Tác giả
khẳng định, đối tượng lao động sư phạm là nhân cách học sinh đang phát
triển; để tác động đến đối tượng này, người giảng viên cần dùng cơng cụ là
chính nhân cách của mình; chức năng lao động sư phạm là tái sản xuất sức lao
động xã hội; lao động của người giảng viên là lao động trí óc chun nghiệp;
nó địi hỏi ở người giảng viên tính khoa học, nghệ thuật và sự sáng tạo. Tác
giả cho rằng, đặc điểm lao động sư phạm cũng qui định những yêu cầu cơ bản
về nhân cách người giảng viên nên nhà giáo dục phải có năng lực sư phạm và
tổ hợp các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp như: thế giới quan khoa học, lý

tưởng đào tạo thế hệ trẻ và lòng yêu người, yêu nghề.
- Khi luận giải “Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học” [9], GS, TS Hồng Chí Bảo nhấn mạnh: GDĐH gắn liền giảng dạy
với NCKH và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà khoa học có
quan hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xun, lâu dài. Hình thức lao động
của họ có nhiều nét tương đồng về bản chất. Đó là sự phát hiện, sự sinh thành
giá trị mới thông qua những cách tân, tìm tịi hướng tiếp cận và phương pháp
giảng dạy, nghiên cứu mới. Vì vậy, lao động của trí thức GDĐH thể hiện rõ tính
sáng tạo với những sắc thái biểu hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.


14
- TS Nguyễn Bá Cần: “Hồn thiện chính sách phát triển Giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay” [31]. Tiếp cận đặc điểm của GDĐH trong điều kiện
kinh tế thị trường, tác giả đã cho rằng, là một loại sản phẩm dịch vụ, GDĐH
có đầy đủ tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
khác, nhưng nó khơng thích hợp với việc mua - bán hàng hóa. Khi so sánh với
các loại dịch vụ khác thì “sản phẩm dịch vụ GDĐH cịn có tính đặc thù - đó
là những người cơng dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình,
xã hội và quốc gia. Những sản phẩm như vậy được gọi là loại hàng hố có
ngoại biên thuận” [31, tr.22].
- TS Ngơ Văn Hà: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây
dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay” [66]. Trên cơ sở phân tích nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo, tác giả đã nêu lên một số
luận đề về đặc điểm lao động của giảng viên: công tác giảng dạy là loại lao
động đặc thù; “người giảng viên đại học phải kết hợp trong bản thân mình
những phẩm chất năng lực của một nhà khoa học và một nhà giáo dục - dạy
học; nhiệm vụ của họ không chỉ là đào tạo nhân lực có trình độ cao cho đất
nước mà cịn là chỗ dựa về khoa học cho các viện nghiên cứu và các cơ sở sản
xuất kinh doanh” [66, tr.158]. Đạo đức cách mạng của người giảng viên là sự

say mê với công việc giảng dạy, nghiên cứu, trung thực trong khoa học, tìm
tịi sáng tạo, có khát vọng chinh phục đỉnh cao của tri thức.
Ba là, những cơng trình nghiên cứu bước đầu đề cập đến chất lượng
lao động của trí thức GDĐH:
- Năm 2006, GS, TS Nguyễn Đức Chính và PGS, TS Nguyễn Phương
Nga đã nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt
động giảng dạy đại học và NCKH của giảng viên trong Đại học Quốc gia”
[37]. Giá trị thực tiễn của đề tài thể hiện ở những khuyến nghị đổi mới các
tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và NCKH của giảng viên có tính đến xu
thế hội nhập tồn cầu trong GDĐH. Đây là nghiên cứu về lĩnh vực đo lường
và đánh giá hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo do
các chuyên gia, cán bộ quản lý giáo dục thực hiện nên kết quả nghiên cứu có


15
ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở cách tiếp cận theo hướng đánh giá tổng
thể chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH cho tác giả luận án.
- Năm 2008, Phòng Phát triển con người Khu vực Đơng Á và Thái Bình
Dương của Ngân hàng thế giới đã công bố Báo cáo“GDĐH và kỹ năng cho
tăng trưởng” [113]. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực GDĐH trong mối
liên hệ với trị trường lao động ở Việt Nam. Nhiều nội dung quan trọng về chất
lượng của GDĐH đã được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý là
vấn đề hiệu quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng
đội ngũ giảng dạy; năng lực nghiên cứu của giảng viên; sự hài lòng của sinh
viên; khả năng, mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của GDĐH
Việt Nam cho nguồn nhân lực, cho gia tăng năng suất lao động và thúc đẩy
năng lực sáng tạo của người lao động trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng
cao từ thị trường trong nước, khu vực và quốc tế. Kết quả nghiên cứu của Báo
cáo có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả luận án trong việc kế thừa những số
liệu minh chứng về hiệu quả giảng dạy, NCKH của đội ngũ trí thức GDĐH.

- Năm 2010, Luận án tiến sĩ: “Đánh giá giảng viên đại học theo hướng
chuẩn hoá trong giai đoạn hiện nay” của Trần Xuân Bách [15] được bảo vệ
thành cơng. Ở góc độ quản lý giáo dục, tác giả có thể kế thừa, tiếp thu kết quả
của cơng trình nghiên cứu trên một số bình diện như quan niệm về giảng viên
đại học, cơ sở lý luận về các phương thức đánh giá giảng viên. Tác giả đã xác
định, đánh giá giảng viên là q trình mơ tả, thu thập, xử lí, phân tích một
cách tồn diện hệ thống những thông tin về người giảng viên, để rồi phán
đoán giá trị lao động thực thụ của họ.
- PGS, TS Trần Quốc Toản (chủ biên): “Phát triển giáo dục trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” [145]. Giá trị nổi bật của cơng
trình nghiên cứu là những luận cứ khoa học về mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo với thị trường trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là
những khảo sát, đánh giá, luận giải về chất lượng nguồn nhân lực, sự đáp ứng
của giáo dục đào tạo nói chung, GDĐH nói riêng đối với nhu cầu xã hội trước
tác động của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.


16
Ngồi ra cịn nhiều bài viết độc lập của các nhà khoa học nghiên cứu
về chất lượng GDĐH nói chung, chất lượng lao động của đội ngũ giảng viên
nói riêng, tiêu biểu như:
- Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Phương Nga: “Nghiên cứu xây dựng bộ
tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo đại học” [35]. Bài viết đã xác định
những tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động chun mơn của trí thức
GDĐH, trong đó đặc biệt chú ý tới dấu hiệu về khả năng và mức độ thỏa mãn,
đáp ứng u cầu cơng việc của trí thức nhà giáo.
- Phan Văn Kha: “Ứng dụng mơ hình quản lý chất lượng ISO 9000
trong quản lý đào tạo sau đại học ở Việt Nam”. Bài viết được trình bày trong
cuốn sách “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI - kinh nghiệm
của các quốc gia” [76]. Thông qua việc nghiên cứu những quan niệm khác
nhau về chất lượng trong các lĩnh vực, tác giả đã đưa ra quan niệm về chất

lượng GDĐH là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng và được đánh giá qua
mức độ trùng khớp với mục tiêu định sẵn.
- Tiếp cận và phản ánh vấn đề chất lượng GDĐH cịn có thể kể đến bài
viết “Hệ thống đảm bảo chất lượng trong trường đại học theo quan điểm của
mạng lưới các trường đại học khu vực Đông Nam Á” của Tạ Thị Thu Hiền
[70]. Tác giả trực tiếp bàn luận đến qui trình đánh giá, tiêu chí kiểm định chất
lượng đào tạo của các trường đại học, trong đó nhấn mạnh đến lĩnh vực giảng
dạy chuyên môn, NCKH, quản lý đào tạo của giảng viên, chất lượng của yếu tố
đầu vào - sinh viên và chất lượng yếu tố đầu ra - nguồn nhân lực được đào tạo.
- Lê Hữu Ái, Lâm Bá Hòa: “Giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng” [3]. Trong bài viết, hai tác giả
đã tập trung phân tích những bất cập, yếu kém của GDĐH ở nước ta hiện nay,
đặc biệt là khía cạnh chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Trên cơ sở đó, bài
viết luận chứng một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của GDĐH trong phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay.
- Phạm Ngọc Trung: “Chất lượng giáo dục trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay” [147]. Với quan niệm, chất lượng GDĐH là “tổng thể hệ


17
thống của trình độ chun mơn, phẩm chất đạo đức, khả năng hội nhập và
việc làm ổn định của sinh viên khi tốt nghiệp” [147, tr.38], tác giả đã phân
tích những nhân tố tác động đến chất lượng giáo dục trong các trường đại học
ở nước ta hiện nay, đó là đội ngũ nhà giáo, người học, cơ sở vật chất kỹ thuật
và cơng tác quản lý.
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

Xưa nay, vấn đề trí thức vốn dĩ đã trở thành đối tượng nghiên cứu quan
trọng của nhiều nhà khoa học. Những phương diện khác nhau của vấn đề này
như: khái niệm trí thức; vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của trí thức; thực

trạng về số lượng, cơ cấu, chất lượng cùng hàng loạt các vấn đề về phương
hướng, giải pháp phát triển đội ngũ trí thức đã được luận giải ở nhiều giác độ,
tiêu biểu là:
- Thẩm Vinh Hoa - Ngơ Quốc Diệu (chủ biên): “Tơn trọng trí thức, tôn
trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” do Nguyễn Như Diệm
dịch [71]. Cơng trình này đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng trong tư
tưởng của Đặng Tiểu Bình về trí thức. Những quan điểm có ý nghĩa chỉ dẫn
của Đặng Tiểu Bình đối với vấn đề nhân tài, đường lối tổ chức, xây dựng,
phát triển đội ngũ trí thức, nhất là những tư tưởng về công tác bồi dưỡng, đào
tạo, sử dụng, đãi ngộ nhân tài được tác giả Thẩm Vinh Hoa và Ngô Quốc
Diệu luận giải kỹ lưỡng. Từ đó, cuốn sách cũng bước đầu làm rõ sự vận dụng
tư tưởng Đặng Tiểu Bình trong chiến lược xây dựng nhân tài, phát triển đội
ngũ trí thức ở Trung quốc những năm qua.
Ở hầu hết các quốc gia, trí thức GDĐH được nhà nước rất coi trọng. Do
vậy, nhiều chủ thể nghiên cứu thường nhận thấy sự cần thiết phải quan tâm
đến trí thức nhà giáo, nhất là đội ngũ giảng viên.
- J.Vial - nhà giáo dục Pháp, trong cuốn “Lịch sử và Thời sự về các
phương pháp sư phạm” [156] đã kiến tạo một quan điểm mới về đặc điểm lao
động của trí thức nhà giáo ở bậc đại học. J.Vial khẳng định: Người dạy khơng
chỉ làm tốt chức năng kép của mình là biết cách truyền đạt cái người học cần


18
mà cịn biết tổ chức q trình nhận thức cho người học có thể tích cực, chủ
động chiếm lĩnh nội dung học. Để thực hiện vai trò “trọng tài, cố vấn” trong
q trình dạy học, người giảng viên phải có phẩm chất đồng thời của nhà sư
phạm và nhà khoa học. Từ lập luận của J.Vial, có thể xem đây là đặc thù lao
động ở bình diện chức năng, nhiệm vụ nghề nghiệp của trí thức GDĐH.
- J.A Centra với các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Tự đánh giá
của giảng viên đại học: Một so sánh với đánh giá của sinh viên” [32]; Xác

định hiệu quả công tác của giáo viên [33]. J.A Centra cho rằng, bất cứ người
giảng viên nào cũng cần thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu
như giảng dạy, NCKH, dịch vụ chun mơn phục vụ cộng đồng. Vì vậy, cần
tập trung đánh giá chất lượng hay hiệu quả công tác của nhà giáo đại học theo
ba lĩnh vực hoạt động chính đã nêu.
- Ph.N.Gơnơbơlin: “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên” [65].
Khi bàn về tính đặc thù của công tác dạy học, tác giả cho rằng, hai mặt cơ bản
trong hoạt động sư phạm là “giảng dạy và giáo dục. Hai mặt hoạt động sư
phạm này liên hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và là một quá trình
thống nhất. Điều được tác giả nhấn mạnh là sự thay đổi vai trò, nhiệm vụ của
nhà giáo trong thời đại mới gắn liền với sự bùng nổ tri thức: “nhà giáo không
phải là người phán truyền chân lý mà là người lãnh đạo và tổ chức khéo léo
công việc của học sinh ở trên lớp” [65, tr.76]. Để đáp ứng sự biến đổi ấy, bản
thân mỗi nhà giáo phải phát huy tính tích cực giảng dạy như một thuộc tính
quan trọng. Xác định những phẩm chất tâm lý của người giáo viên, tác giả đã
chú ý đặc biệt tới dấu hiệu về khả năng sáng tạo. Đó là đặc trưng phổ biến của
lao động sư phạm mà nếu thiếu nó, giảng dạy chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến
thức một chiều, rất dễ sa vào rập khuôn, máy móc và nhàm chán.
- Franz Emanuel Weinert trong tác phẩm “Sự phát triển nhận thức học
tập và giảng dạy” [164] đã tập trung luận giải các đặc điểm của người giảng
viên tích cực. Nội dung quan trọng trong tác phẩm của Franz Emanuel
Weinert là việc xác định tiêu chí của một trí thức nhà giáo với hoạt động
chun mơn giỏi. Theo tác giả, đó là người “thể hiện hành động sư phạm


19
được đặc trưng bởi chất lượng khác nhau hướng vào việc định hướng, điều
khiển và hỗ trợ các học sinh theo mục tiêu” [163, tr.537]. Thơng qua tác
phẩm của mình, Franz Emanuel Weinert cũng đề cập đến hiệu quả và chất
lượng giảng dạy - một phương diện quan trọng cấu thành lao động của trí

thức GDĐH.
- UNESCO đã tổ chức những hoạt động tập trung trí tuệ nhân loại suy
nghĩ về một nền giáo dục cho thế kỷ XXI mà đỉnh cao là “Higher Education
in the Twenty - First Century - vision and Action” [178]. Hội nghị đã thông
qua Tuyên ngôn về GDĐH với việc xác định sứ mạng cốt lõi của hệ thống
GDĐH và chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên trong thế kỷ XXI.
Tuyên ngôn xác định, chất lượng trong GDĐH là một khái niệm đa chiều, bao
trùm mọi chức năng và hoạt động của nó: giảng dạy, chương trình đào tạo,
NCKH, đội ngũ giảng viên và sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường học
thuật, trong đó, nhân tố người dạy giữ vai trị quyết định nhất. Tun ngơn
cũng chỉ rõ cần có một chính sách mạnh mẽ về phát triển đội ngũ sao cho có
thể nâng cao kỹ năng của họ, khuyến khích khả năng sáng tạo, phát huy tính
tích cực, chủ động trong nghiên cứu và giảng dạy.
- J.M.Denomme và Medeleine Roy với cuốn sách “Tiến tới một phương
pháp sư phạm tương tác” [39]. Hai tác giả cho rằng, trong quá trình dạy học,
phương pháp sư phạm tích cực được coi như tồn bộ các can thiệp của người
dạy với mục đích giúp người học thực hiện quá trình chiếm lĩnh tri thức hay
kỹ năng, từ đó học cách tìm kiếm và xử lí thơng tin, tạo cho mình năng lực
tương ứng. Điều khẳng định này cho thấy người học vừa là đối tượng, vừa là
mục đích lao động của nhà giáo; kết quả lao động của trí thức GDĐH trong
hoạt động giảng dạy phải được biểu hiện ở việc hình thành phương pháp tự
học, tự nghiên cứu của sinh viên dưới vai trị hướng dẫn của trí thức nhà giáo.
Tổng hợp những cơng trình nghiên cứu nêu trên đã xác định một quan
điểm mới về lao động của trí thức nhà giáo bậc đại học. Theo đó, chất lượng
GDĐH cũng được hình dung là một khái niệm đa chiều bao trùm mọi chức
năng và hoạt động của nhà trường.


20
1.3. NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TIẾP TỤC
LÀM SÁNG TỎ

Có thể nói, một khối lượng tri thức phong phú với nhiều cơng trình
nghiên cứu cơng phu về trí thức cho thấy sức hấp dẫn hay tính đặc biệt quan
trọng của vấn đề này đối với sự phát triển của xã hội. Giá trị khoa học của một
khối lượng lớn những tài liệu, công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trí
thức, trí thức GDĐH đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu
chất lượng lao động của đội ngũ trí thức GDĐH ở nước ta hiện nay.
Từ tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến luận án, tác giả
xin đưa ra những đánh giá khái qt như sau:
Một là, các cơng trình nghiên cứu đã vạch ra một hệ thống các phương
pháp tiếp cận về trí thức và đội ngũ trí thức GDĐH. Đáng chú ý là những
quan điểm xem trí thức như một lực lượng xã hội, một nhóm xã hội - nghề
nghiệp được nhận diện và phân định bởi phương thức, tính chất lao động trí
óc, sáng tạo và phức tạp. Trong những năm gần đây, các cơng trình nghiên
cứu khi quan niệm về trí thức thường chú trọng nhấn mạnh tiêu chí trách
nhiệm và hiệu quả đóng góp cho sự phát triển xã hội từ hoạt động chuyên
môn đặc thù của từng chủ thể trí thức trong cơ cấu nghề nghiệp. Đây chính là
sự bổ sung vào cách tiếp cận mới về trí thức, nó được thai nghén và dần trở
thành hướng nghiên cứu trọng tâm trong quá trình đổi mới tư duy, nhất là
trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, những nghiên cứu lý luận về trí thức, trí thức giáo dục, trí thức
GDĐH là khá phong phú nhưng nghiên cứu về chất lượng lao động của trí
thức, trí thức GDĐH cịn ít. Chưa có cơng trình nghiên cứu chuyên khảo hay
các đề án, chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cũng chưa có luận
án, luận văn nào trực tiếp đi sâu luận giải một cách có hệ thống về vấn đề này.
Ba là, dưới các góc độ, bình diện, phạm vi nghiên cứu khác nhau,
những cơng trình nghiên cứu liên quan đến luận án đã giải quyết được một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về trí thức GDĐH. Ở chừng mực nhất định đã đề



×