Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (tóm tắt + toàn văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.1 KB, 28 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN TH THANH H
Đội ngũ trí thức giáo dục Đại học Việt Nam
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lợng cao
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chuyờn ngnh: Ch ngha xó hi khoa hc
Mó s : 62 22 85 01
TểM TT LUN N TIN S TRIT HC
H NI - 2014
Cụng trỡnh c hon thnh ti
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Đỗ Thị Thạch

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một trong những vấn đề cốt lõi trong
chiến lược phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Ngày nay, hầu như bất cứ quốc gia
nào trên thế giới cũng đều nhận thức rõ chất lượng nguồn lực con người là nhân tố
quyết định cho sự phát triển. Giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục đại học được
coi là chiến lược quan trọng hàng đầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng


cao, bởi nó góp phần làm tăng giá trị toàn diện của con người về các mặt: đức, trí,
thể, mỹ, đặc biệt là năng lực nghề nghiệp. Giáo dục đại học không chỉ tích luỹ tri
thức mà còn tạo ra tri thức mới, trang bị kỹ năng cần thiết giúp cho mỗi cá nhân phát
hiện và làm giàu thêm sự hiểu biết để tự phát triển và khẳng định mình trong cuộc
sống.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Quá trình này chỉ đạt được kết quả khi chúng ta kết hợp tốt sức mạnh của mọi nguồn
lực, trong đó nội lực là quyết định. Do vậy, yêu cầu về NNLCLC đang đặt ra đối với
hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống giáo dục đại học nói riêng, trong đó đội ngũ
trí thức các nhà giáo đại học giữ vai trò trọng yếu.
Trí thức giáo dục đại học (bao gồm các nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý,
các chuyên gia đang trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu ở bậc đại học) là bộ phận quan
trọng của đội ngũ trí thức giáo dục và đào tạo, giữ vai trò quyết định nhất trong đào
tạo NNLCLC, thực hiện chuyển giao và đổi mới công nghệ, bảo tồn và phát triển
những giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu có hiệu quả những giá trị văn hoá tiên tiến trên
thế giới.
Thực tế gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế đã chứng minh cho sức mạnh
và đóng góp to lớn của trí thức Việt Nam vào quá trình phát triển đất nước, trong đó
có đội ngũ trí thức giáo dục đại học. Bằng lao động sáng tạo của mình, trí thức giáo
dục đại học đã góp phần đào tạo những lớp người lao động mới (học viên, sinh viên)
hữu ích cho sự phát triển xã hội. Đó là NNLCLC đã, đang và sẽ làm chủ công nghệ
tiên tiến, từng bước sáng tạo những công nghệ mới, hiện đại, phù hợp với con người,
với điều kiện và môi trường Việt Nam.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của NNLCLC trong bối cảnh đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam chưa đáp ứng kịp thời,
đội ngũ trí thức giáo dục đại học chưa thực sự phát huy hết tính tích cực của mình:
tình trạng thừa về số lượng, yếu về chất lượng, thiếu hụt đội ngũ trí thức có trình độ
chuyên môn cao, năng lực sư phạm giỏi và phẩm chất chính trị vững vàng đang diễn
ra; mất cân đối về cơ cấu ngành nghề đào tạo… chưa hội tụ đủ những tiêu chí để đáp
ứng kịp thời yêu cầu đổi mới của đất nước v.v

Trước yêu cầu phát triển của đất nước, những bất cập của giáo dục bậc đại học,
của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã tác động tiêu cực tới NNLCLC
1
trong tương lai - những học viên, sinh viên đang trong quá trình tiếp thu và tích lũy tri
thức. Do đó, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đồng thời phát huy vai trò của trí
thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC là một nhu cầu cấp bách hiện nay.
Từ những lí do trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề: “Đội ngũ trí thức giáo dục
đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lí luận về vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và
thực trạng của đội ngũ trong đào tạo NNLCLC, luận án đề xuất một số quan điểm cơ
bản và giải pháp chủ yếu góp phần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
- Trình bày lí luận chung về trí thức giáo dục đại học và NNLCLC ở Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
- Phân tích thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
trong đào tạo NNLCLC, thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra hiện nay;
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu đào tạo
NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức giáo dục đại học và
NNLCLC.

- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử;
đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như:
phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử; đối chiếu và so sánh, nghiên cứu tài liệu và
điều tra xã hội học
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vai trò của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học (tập trung vào vai trò của đội ngũ giảng viên) trong đào tạo NNLCLC và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Phạm vi nghiên cứu:
2
Luận án nghiên cứu đội ngũ trí thức giáo dục đại học đang làm việc, nghiên
cứu tại các trường đại học ở Việt Nam (tập trung vào đội ngũ giảng viên), từ năm
1996 đến nay.
Luận án tập trung khảo sát, điều tra (500 phiếu) tại hai trung tâm giáo dục đại
học lớn nhất Việt Nam là ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh. Lí do
tác giả lấy hai trường đại học đại diện trên để khảo sát vì: Đây là hai trung tâm đại
học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo
với nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng để đào tạo NNLCLC, bồi dưỡng
nhân tài, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học trong đào tạo NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học trong đào tạo NNLCLC ở Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp thêm căn cứ lí luận và
thực tiễn trong đề xuất chính sách đào tạo, sử dụng, bồi dưỡng nhân tài của đất nước.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về trí thức,
nguồn nhân lực và cho những nghiên cứu quan tâm đến chủ đề này.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 9 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Công trình nghiên cứu ở trong nước
1.1.1.1. Về trí thức
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nhằm thúc
đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, vấn đề bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực con người, đặc biệt nguồn lực trí tuệ - “hiền tài là nguyên khí quốc gia” là rất cần
thiết, là nhiệm vụ chiến lược quan trọng đặt ra đối với toàn bộ hệ thống chính trị và
nhân dân ta. Từ năm 1996 đến nay, những công trình thuộc nhóm vấn đề này được
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Trong đó, đáng chú ý là một số công trình tiêu
biểu sau:
Phạm Tất Dong (chủ biên), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tầng lớp trí
thức. Những định hướng chính sách, thuộc chương trình KHXH.03 (Giai đoạn 1996 -
3
2000). Đề tài đã làm rõ những vấn đề đặt ra của đội ngũ trí thức Việt Nam với tư cách
là nguồn lực quan trọng, cơ bản để đào tạo nguồn nhân lực; vị trí, vai trò của đội ngũ
trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH.Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước có
chiến lược phát triển đối với đội ngũ trí thức Việt Nam
Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb CTQG, Hà Nội. Thông qua việc làm rõ
quan niệm về trí thức, trí thức nữ, những phẩm chất trí tuệ và các yếu tố tác động đến
sự phát triển trí tuệ, tác giả đi sâu phân tích sự hình thành, đặc điểm, vai trò của
nguồn lực trí thức nữ Việt Nam, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực
trí thức nữ Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Phan Thanh Khôi (2008) "Đội ngũ trí thức Việt Nam, quan niệm, thực trạng,
phát huy vai trò và xu hướng biến đổi", Tài liệu tham khảo, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Những thuộc tính cơ bản của trí thức còn
được tác giả đề cập và phân tích trên các khía cạnh: trí thức là người lao động trí óc,
phức tạp, sản xuất giá trị tinh thần là chủ yếu; nội dung lao động của trí thức mang
tính sáng tạo khoa học; tri thức và học vấn của trí thức cao hơn hẳn mặt bằng dân trí;
hình thức lao động của trí thức có tính đặc thù cao như: mang tính cá nhân rõ nét,
hoạt động trong không gian mở, thời gian linh hoạt, đòi hỏi lý trí cao, đặc điểm tâm
lý lối sống cũng có tính khác biệt: nhạy cảm nhưng dễ dị ứng, kiêu hãnh nhưng dễ tự
kiêu và có những nhược điểm nhất định
Nguyễn An Ninh (2008), Phát huy tiềm năng của trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong công cuộc đổi mới đất nước. Tác giả đã nêu một số quan điểm mới về
tiềm năng, tiềm năng của trí thức KHXH&NV; đồng thời cũng làm rõ những tiềm
năng to lớn của đội ngũ này đối với sự phát triển xã hội. Từ đó, tác giả trình bày một
số giải pháp nhằm phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức KHXH&NV trong giai
đoạn hiện nay.
Đàm Đức Vượng, Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
Mã số: KX.04.16/06 -10. Bên cạnh những vấn đề cơ bản về trí thức, đề tài đi sâu làm
rõ thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam.Từ đó, đề tài đề xuất một số giải pháp về
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, góp phần quan trọng và có tính quyết
định để thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đến năm 2020.
Nguyễn Khánh Bật - Trần Thị Huyền (đồng chủ biên) 2012, Xây dựng đội ngũ
trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về trí
thức, vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Từ đó, các
tác giả đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn
2010 - 2020.
Nguyễn Thị Thơm (2012), Tạo động lực và môi trường để phát huy tính sáng
tạo của đội ngũ trí thức, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 11. Ngoài việc phân tích
những đặc điểm cơ bản nhất của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra năm vấn đề chủ
4
yếu nhằm tạo động lực và môi trường để phát huy tính sáng tạo của đội ngũ trí thức -

lực lượng tinh túy của NNLCLC.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2013), Trí thức và trách nhiệm xã hội, Tạp chí Cộng
sản, số 853. Bài viết chia làm ba phần lớn, thứ nhất, tác giả phân tích vai trò lao động
trí óc của trí thức trong lịch sử nhân loại tiến bộ; thứ hai, phân tích trách nhiệm của trí
thức trong mọi thời đại; thứ ba, phân tích vai trò và trách nhiệm xã hội của trí thức
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Cuối cùng tác giả kết luận: Trí
thức chỉ có thể thực hiện được trách nhiệm xã hội của mình, nếu như họ ý thức rõ
được trách nhiệm đó.
1.1.1.2. Về giáo dục đại học và trí thức giáo dục đại học
Lâm Quang Thiệp xuất bản hai cuốn sách cùng tên: “Giáo dục học đại học”,
Hà Nội, 1997 của Vụ Đại học - trường Cán bộ quản lý Giáo dục và Đào tạo (quyển I:
các tài liệu chính) và “Giáo dục học đại học”, Hà Nội, 2003 của Khoa Sư phạm
thuộc ĐHQG Hà Nội đã giới thiệu nhiều chuyên đề bàn luận trực tiếp đến hoạt động
tổ chức đào tạo, quản lý chất lượng cho giáo dục đại học. Với chuyên đề “Về hệ
thống đảm bảo chất lượng cho giáo dục đại học Việt Nam”, tác giả bước đầu xây
dựng quan niệm về chất lượng giáo dục đại học và thẳng thắn thừa nhận: hệ thống
giáo dục đại học Việt Nam chưa “cảm nhận” hết được sự thúc ép mạnh mẽ của nền
kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập, quốc tế hóa giáo dục đại học, quốc tế hóa thị
trường sức lao động, những đòi hỏi về nguồn nhân lực của Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Hoàng Chí Bảo (2006), Bản chất của hoạt động sáng tạo trong nghiên cứu
Khoa học (tài liệu tham khảo), Hà Nội. Tác giả nhấn mạnh, giáo dục đại học gắn liền
giảng dạy với nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất. Đội ngũ nhà giáo và các nhà
khoa học có quan hệ hợp tác, gắn bó với nhau thường xuyên, lâu dài. Vì vậy, lao
động của trí thức giáo dục đại học thể hiện rõ tính sáng tạo với những sắc thái biểu
hiện phong phú, đa dạng và phức tạp của nó.
Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Phương Nga đã thực hiện đề tài trọng điểm cấp
ĐHQG Hà Nội mã số QGTĐ.02.06: Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt
động giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học của giảng viên trong Đại học Quốc
gia. Đề tài nghiên cứu xem xét, phân tích các kinh nghiệm về đánh giá chất lượng

giảng dạy, nghiên cứu khoa học của một số trường đại học trên thế giới. Trên cơ sở
phân tích hiện trạng của hai hoạt động cơ bản này ở ĐHQG Hà Nội, đề tài xây dựng
các tiêu chí đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên có
tính đến xu thế hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học.
Phòng Phát triển con người khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân
hàng Thế giới với Báo cáo “Giáo dục đại học và kỹ năng cho tăng trưởng”, tháng
6/2008. Báo cáo tập trung nghiên cứu lĩnh vực giáo dục đại học trong mối liên hệ với
trị trường lao động ở Việt Nam. Rất nhiều nội dung quan trọng về chất lượng của
giáo dục đại học được luận giải, khảo sát và chứng minh. Đáng chú ý là vấn đề hiệu
5
quả đào tạo; chương trình học, phương pháp sư phạm; chất lượng đội ngũ giảng dạy;
năng lực nghiên cứu của đội ngũ giảng viên; sự hài lòng của sinh viên; khả năng,
mức độ cung cấp thỏa đáng các kỹ năng cần thiết của giáo dục đại học Việt Nam cho
nguồn nhân lực.
Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Hà Nội. Tiếp cận đặc điểm của giáo dục
đại học trong điều kiện kinh tế thị trường, tác giả cho rằng, sản phẩm giáo dục đại
học là loại sản phẩm dịch vụ, nhưng nó không thích hợp với việc mua - bán hàng
hóa.
Trần Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc đổi mới
giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là phát triển đội ngũ giảng dạy,
nghiên cứu chuyên ngành trong các trường đại học, cuốn sách là tài liệu chuyên khảo
cho giáo dục bậc đại học. Với 12 chương, tác giả đi từ lịch sử vấn đề cho tới những
nội dung cụ thể về: chương trình giáo dục đại học, cách đánh giá và quản lý chất
lượng trong giáo dục đại học, khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
trong giáo dục đại học nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học
giai đoạn 2010 - 2012, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Công trình nghiên cứu đi sâu phân
tích thực trạng của hệ thống giáo dục đại học hiện nay, chương trình hành động

của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học giai đoạn
2010 - 2012.
Nguyễn Văn Sơn (2010), Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã làm rõ tính
đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong tầng lớp trí thức Việt Nam. Tác
giả tập trung phân tích thực trạng về cơ cấu chất lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại
học theo các phương thức hoạt động chủ yếu, theo nhóm ngành khoa học lớn, theo sự
phân bố vùng lãnh thổ, theo các trường và chủ thể quản lý, về trình độ, phẩm chất,
năng lực của đội ngũ. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ
này cơ cấu hợp lý và chất lượng cao nhằm đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2012), Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực, nhân tài - một số kinh nghiệm của thế giới. Cuốn sách là một công trình nghiên
cứu lớn đã trình bày tổng quan về phát triển giáo dục và đào tạo một số nước trên thế
giới; xu hướng nổi bật của nền giáo dục đại học thế kỷ XXI. Vấn đề phát triển giáo
dục và đào tạo ở một số nước trên thế giới: chiến lược phát triển giáo dục Nga thế kỷ
XXI, đại học Đức, cải cách chương trình giảng dạy ở Nga, Trung Quốc, Anh; Chính
sách giáo dục Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan…; hệ thống giáo dục Hoa Kỳ, thế kỷ đại
học châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…).
6
Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng
đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả phân tích một cách
có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy: vai trò, phẩm chất đạo đức, chuyên
môn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy của người thầy giáo; đánh giá thực trạng
của đội ngũ giảng viên đại học về số lượng, chất lượng, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, khía cạnh thu nhập và vị thế của họ trong xã hội.
1.1.1.3. Về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao
Đỗ Minh Cương (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Với quan điểm xem nhà giáo đại học là nhân tố quan
trọng và có ý nghĩa quyết định nhất đến chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta,
tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của trí thức giáo dục đại học, đánh giá thực trạng

nguồn nhân lực giáo dục đại học, qua đó luận chứng một số giải pháp xây dựng phát
triển đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả đi sâu bàn về phạm trù nguồn lực trí tuệ và nội
hàm của nguồn lực trí tuệ ở Việt Nam; tầm quan trọng của việc phát huy nguồn lực
trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Tác giả làm rõ thực trạng của nguồn lực trí
tuệ Việt Nam (điểm mạnh, mặt hạn chế), từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để
xây dựng nguồn lực trí tuệ Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Đây là
công trình chuyên khảo, chuyên sâu về nguồn lực trí tuệ ở nước ta, là tài liệu bổ ích
để tác giả nghiên cứu cho các nội dung trong luận án của mình.
Viện CNXH khoa học (2010), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp cơ sở năm 2010, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức. Đề tài đã
tập trung làm rõ lý luận về NNLCLC và CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức; đồng
thời tìm hiểu kinh nghiệm thế giới về phát triển NNLCLC và thực trạng NNLCLC
của Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, đề tài chỉ ra xu hướng
phát triển NNLCLC, đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển nguồn lực này đáp
ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức của Việt Nam.
Đặng Hữu Toàn (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - một đột
phá chiến lược trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020, Tạp chí Triết học, số 8 (255)/2012. Trong bài viết, tác giả nêu rõ: Phát triển
NNLCLC là định hướng mang tầm chiến lược; là khâu đột phá quyết định; là yếu tố
hàng đầu để đẩy nhanh sự phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; là lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất trong phát triển KT -XH nhanh và bền vững; là đột phá
chiến lược trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh
tế đất nước.
Những công trình, bài viết tiêu biểu về trí thức, trí thức giáo dục đại học,
nguồn nhân lực và NNLCLC ở trong nước mà tác giả đã tổng quan ở trên là tài liệu
tham khảo rất có ý nghĩa đối với luận án. Ở những góc độ tiếp cận khác nhau, một
mặt, các học giả khẳng định vai trò của trí thức Việt Nam trong lịch sử, mặt khác đã

7
chỉ ra sứ mệnh của người trí thức nói chung và trí thức giáo dục đại học trong sự
nghiệp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế.
1.1.2. Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
1.1.2.1. Công trình nghiên cứu về trí thức
Nhà xuất bản Trí thức ra cuốn sách “Tập tiểu luận về trí thức Nga” (4/2009)
do hai dịch giả Việt Nam là La Thành và Phạm Nguyên Trung dịch. Đây là công
trình tập hợp các bài viết của các học giả - trí thức của nước Nga trước Cách mạng
Tháng Mười, của nước Nga thuộc Liên Xô cũ và nước Nga thời kỳ “hậu Xô viết”.
Chính kiến của họ rất đa dạng, đôi khi đối chọi nhau, nhưng đều trong tinh thần học
thuật nghiêm túc và với ý thức trách nhiệm xã hội hết sức đáng trân trọng.
Khi nói đến nhiệm vụ của người trí thức với chức năng đào tạo trong quá trình
phát triển của đất nước, các cựu tổng thống của Hoa Kỳ, như John. Kenơdi, G. Bush
đều nhấn mạnh: Trường đại học là nguồn lực đảm bảo sức mạnh và khả năng sống
còn của đất nước. Nguyên Thủ tướng Quốc Vụ viện nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Trung Hoa - Lý Bằng cũng đã từng nhấn mạnh chức năng đào tạo và xác định
vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức trong sự phát triển KT- XH của đất nước. Ông cho
rằng, ra sức phát triển giáo dục là con đường tất yếu để nâng cao trình độ người lao
động và chấn hưng nền kinh tế v.v
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức, nhiều
nhà khoa học quốc tế còn quan tâm nghiên cứu về vấn đề con người, nhân tài, nguồn
nhân lực, NNLCLC. Tiêu biểu như công trình của: Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diện
(chủ biên) (1996), Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, kế sách trăm năm chấn
hưng đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cuốn sách có ý nghĩa tham khảo đối với
Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Nội dung cuốn sách nói về tư tưởng nhân tài của
Đặng Tiểu Bình - nhà lãnh đạo kiệt xuất của công cuộc cải cách, mở cửa, xây dựng
hiện đại hóa XHCN của Trung Quốc.
1.1.2.2. Công trình nghiên cứu về giáo dục đại học
Để bắt kịp với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, xu hướng biến đổi mạnh mẽ của giáo dục đại học trên phạm vi toàn thế giới,

UNESCO đã tổ chức Hội nghị thế giới đầu tiên về giáo dục đại học phục vụ hoạt
động tập trung trí tuệ của nhân loại suy nghĩ về một nền giáo dục cho thế kỷ XXI (tổ
chức vào 10/1998 tại Paris), với khẩu hiệu “Highter Education in the Twenty - first
Century, Vision and Action” (Giáo dục đại học thế kỷ XXI, Tầm nhìn - Hành động).
Đây là công trình nghiên cứu quốc tế quan trọng, các tác giả và những người nghiên
cứu về giáo dục đại học thấy được sứ mệnh cao cả của hệ thống giáo dục đại học nói
chung và đội ngũ trí thức giáo dục đại học nói riêng, đó là phải gìn giữ, củng cố và
phát triển “sự nghiệp trồng người” một cách có trách nhiệm.
J.Vial - nhà giáo dục Pháp, trong cuốn "Lịch sử và thời sự về các phương pháp
sư phạm", (1993) đã kiến tạo một quan điểm mới về đặc điểm lao động của trí thức
8
nhà giáo ở bậc đại học. J.Vial khẳng định: Người dạy không chỉ làm tốt chức năng
kép của mình là biết cách truyền đạt cái người học cần mà còn biết tổ chức quá trình
nhận thức cho người học có thể tích cực, chủ động chiếm lĩnh nội dung học. Để thực
hiện vai trò "trọng tài, cố vấn" trong quá trình dạy học, người giảng viên đại học cần
phải có phẩm chất của nhà sư phạm và nhà khoa học. Từ lập luận của J.Vial, có thể
xem đây là đặc thù lao động xét về chức năng, nhiệm vụ nghề nghiệp của trí thức
giáo dục đại học.
J.A Centra với các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: "Tự đánh giá của
giảng viên đại học: Một so sánh với đánh giá của sinh viên", Tạp chí Đánh giá Giáo
dục, số 13 năm 1973; Xác định hiệu quả công tác của giáo viên, Nxb JOSEY-BASS
năm 1998, San Francisco - London. J.A Centra cho rằng, bất cứ người giảng viên nào
cũng cần thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu như giảng dạy, NCKH,
dịch vụ chuyên môn phục vụ cộng đồng.
Văn phòng Hội đồng giáo dục, Bộ Giáo dục Thái Lan (2008), Chiến lược và lộ
trình cải cách giáo dục đại học Thailand (TS. Hoàng Ngọc Vinh dịch). Tài liệu gồm
sáu phần, trong đó, đáng chú ý là những vấn đề nổi cộm của giáo dục đại học Thái
Lan. Từ đó, Chiến lược đưa ra sáu cải cách cơ bản (cả phạm vi quốc gia và cơ sở
giáo dục đại học). Có thể nói, kinh nghiệm cải cách giáo dục của Thái Lan giúp
chúng ta nhìn lại cách làm của mình để từ đó đúc kết, phát triển và sáng tạo trong

điều kiện của Việt Nam.
1.1.2.3. Công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực, nguồn nhân
lực chất lượng cao
Một số đóng góp trong việc tổng kết kinh nghiệm phát triển kinh tế các nước
Đông Nam Á, lý giải thành công của các nước NICS chủ yếu thông qua con đường
giáo dục và đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao được trình bày trong một số bài viết
của Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, Sarath Rajapatirana (2002), Bài học kinh nghiệm
của các quốc gia Đông Nam Á - Lý giải và ý nghĩa đối với Việt Nam. Lưu Kim Hâm
(2003), Trung Quốc trước thách thức của thế kỷ XXI, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
(tài liệu dịch)… Các tác giả chỉ ra rằng, một đặc trưng cơ bản trong phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở các nước Đông Nam Á là việc xây dựng hệ thống giáo dục
đại học chất lượng cao. Trong đó, Singapore là một trong những nước Đông Á điển
hình và hiện nay là một trong những trung tâm đào tạo uy tín của thế giới.
Bên cạnh kinh nghiệm “tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài” hay thực hiện
chiến lược “nhân tài kiến quốc” của Trung Quốc trong công cuộc cải cách đất nước
từ nawm1978 đến nay, phải chăng đó chính là nguyên nhân thành công của Trung
Quốc trở thành trụ cột mới của nền kinh tế thế giới.
Có thể nói, những nghiên cứu chuyên sâu của các học giả nước ngoài về trí
thức, giáo dục đại học và về những đặc điểm lao động của đội ngũ này cho thấy sự
quan tâm và đánh giá cao vai trò, tầm quan trọng của lực lượng không nhỏ -
9
NNLCLC đã, đang, và sẽ đóng góp vào quá trình đào tạo thêm những nguồn nhân
lực mới có chất lượng trong tương lai.
1.2. Những giá trị khoa học của các công trình tổng quan và những vấn đề
luận án cần làm rõ
1.2.1. Những giá trị khoa học của các công trình tổng quan
Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài
luận án, tác giả khái quát một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa một số cách tiếp cận về
trí thức nói chung và trí thức giáo dục đại học nói riêng trên nhiều bình diện đa dạng

và phong phú: từ việc nhận thức, suy ngẫm về vấn đề trí thức, cho đến đánh giá vai
trò của đội ngũ trí thức trong KHXH&NV và trí thức lĩnh vực khoa học khác… các
công trình còn bàn về vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết chính sách, tạo động lực và phát huy tiềm năng trí
tuệ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, với phạm vi nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, các tác giả đã làm
rõ vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển xã hội. Đặc biệt, những năm gần
đây, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN, của KTTT, đặt ra thách
thức đối với Việt Nam về NNLCLC, phục vụ sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế,
các công trình đã nghiên cứu sâu, rộng về khái niệm, đặc điểm, tiêu chí đánh giá và
vai trò của NNLCLC. Qua đó, các công trình đánh giá những thành tựu, chỉ ra những
hạn chế, yếu kém của NNLCLC ở Việt Nam, đòi hỏi có sự vào cuộc và trách nhiệm
của các cấp, bộ, ngành, trong đó vai trò chủ đạo là giáo dục bậc đại học, góp phần
đào tạo và bồi dưỡng một cách hiệu quả lực lượng trí tuệ lớn mạnh này.
Thứ ba, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học đầy đủ và hệ thống dưới góc độ chính trị - xã hội thuộc chuyên
ngành CNXH khoa học, chưa đi sâu làm rõ nhằm khẳng định việc phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo NNLCLC là một yêu
cầu bức thiết để đưa Việt Nam vững bước trên con đường xây dựng CNXH.
Giá trị của các công trình nghiên cứu nêu trên là hệ thống tài liệu tham khảo
quý báu giúp tác giả kế thừa có chọn lọc, góp phần gợi mở, định hướng những vấn đề
khoa học và một số hướng tiếp cận mới cho tác giả, đặt ra những vấn đề cần tiếp tục
làm rõ.
1.2.2. Những vấn đề cơ bản luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ
Một là, khái quát cơ sở lí luận về trí thức giáo dục đại học, đặc biệt là phân tích
những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức giáo dục đại học để thấy rõ hơn tính chất
lao động sáng tạo và những đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục đại học so với trí
thức ở những lĩnh vực khoa học khác.
10
Hai là, khái quát về NNLCLC và vai trò của NNLCLC ở Việt Nam trong thời

kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; chỉ ra những nhu cầu bức thiết trong
đào tạo, bồi dưỡng và phát triển NNLCLC của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học với đào
tạo NNLCLC ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
- Vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo chuyên môn, kỹ
năng lao động cho NNLCLC;
- Vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong trang bị cho NNLCLC
phương pháp nghiên cứu, phương pháp làm việc;
- Vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong bồi dưỡng lý tưởng sống,
nhân cách làm người cho NNLCLC; tạo động lực cho họ vươn lên trong học tập,
trong quá trình chuẩn bị lập nghiệp.
Bốn là, từ những hạn chế và vấn đề đang đặt ra trong việc thực hiện vai trò của
đội ngũ trí thức giáo dục đại học, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
trí thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ
đạt được những kết quả tích cực.
Kết luận chương 1
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học và nguồn nhân lực chất lượng
cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.1.1. Quan niệm về trí thức giáo dục đại học
2.1.1.1. Khái niệm trí thức giáo dục đại học
Trên cơ sở tìm hiểu các công trình nghiên cứu với ba hướng tiếp cận: Thứ
nhất, quan niệm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức; Thứ hai, quan niệm của Hồ
Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về trí thức; Thứ ba, quan niệm về trí thức của
một số nhà khoa học, tác giả luận án nhất quán với quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về trí thức: Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao
về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và

làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
- Trí thức giáo dục đại học là một bộ phận đặc thù của đội ngũ trí thức giáo dục
và đào tạo. Đó là những cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý trực
tiếp trong hệ thống giáo dục bậc đại học, nhằm đào tạo, bồi dưỡng và phát triển
nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước.
11
- Trí thức giáo dục đại học là những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào
tạo ở bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Trí thức giáo dục đại học thực hiện đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ trí thức
mới nhằm đảm bảo cho sự vận động và phát triển của đội ngũ trí thức.
- Trí thức giáo dục đại học đại biểu cho hầu hết các ngành khoa học hiện có
của quốc gia.
- Đối tượng tác động chủ yếu của trí thức giáo dục đại học là những sinh viên,
học viên cao học và nghiên cứu sinh. Trong luận án, tác giả quan niệm đây là nguồn
nhân lực chất lượng cao hiện tại và tương lai.
- Nhiệm vụ của trí thức giáo dục đại học là bằng lao động sáng tạo của mình
bằng phẩm chất và năng lực của nhà giáo, tác động vào các đối tượng học viên,
sinh viên nhằm đào tạo ra những người lao động có trình độ cao, có phẩm chất đạo
đức tốt… đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực chất lượng cao cho
đất nước.
- Sản phẩm lao động sáng tạo của người trí thức giáo dục đại học là nhân cách,
năng lực và phẩm chất, là trí tuệ của những học viên, sinh viên - những trí thức trẻ
trong tương lai.
- Lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức giáo dục đại học liên quan trực tiếp
đến con người, đến việc khai thác và phát huy năng lực nội sinh của từng cá nhân
trong việc tiếp thu tri thức, tiếp cận chân lý và khả năng tự học, tự nghiên cứu cũng
như trong việc xây dựng và phát triển nhân cách cá nhân.
Tóm lại, theo tác giả, trí thức giáo dục đại học là đội ngũ trí thức làm công
tác giáo dục và đào tạo ở bậc đại học, tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực trình độ cao, nhằm giúp người học nắm vững kiến thức chuyên

môn, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, có khả năng phát hiện, giải quyết vấn đề
một cách độc lập.
2.1.1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Đặc điểm hình thành và phát triển của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học Việt Nam
Đánh dấu mốc son lịch sử về sự ra đời của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Việt Nam, tháng 3 năm 1075 khoá thi Nho học đầu tiên nước ta được tổ chức, được
gọi là khoá thi tuyển Minh kinh bác học và Nho học tam trường. Từ khoa thi đầu tiên
năm Ất Mão (1075) đến khoa thi cuối cùng năm Kỷ Mùi (1919), các triều đại đã tổ
chức được 187 khoa thi, lấy được 2898 người đậu tiến sĩ và hàng chục người đậu cử
nhân. Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng duy trì các khoa thi Nho học Điều đó đã
chứng tỏ truyền thống khoa bảng của nền giáo dục Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, đào tạo cán bộ có trình độ cao. Ngày khai
giảng đầu tiên, Việt Nam đã có 3 trường đại học: Y dược, Văn khoa và Xã hội. Bước
12
đầu chúng ta đã tập hợp được đội ngũ giảng viên đại học là người Việt Nam. Phần
lớn trong số đó là những trí thức yêu nước, nhiệt tình và có uy tín khoa học như Tạ
Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Ngụy Như Kon Tum… là những trí thức
góp phần đặt những viên gạch đầu tiên cho nền giáo dục đại học Việt Nam.
Cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam vẫn học theo mô hình của Liên Xô trước đây với các cơ sở chuyên môn hoá cao
và chỉ tập trung vào một số ngành học. Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam chuyển
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN,
đổi mới và thay đổi căn bản nền giáo dục đại học. Từ đó, nền đại học mới, đa dạng,
đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của xã hội và của người học, động viên được nhiều
nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, tạo điều kiện phát triển quy mô giáo dục đại
học cả về số lượng và chất lượng.
Hiện nay, theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước có 421
trường đại học, cao đẳng, trong đó có 2 đại học quốc gia: ĐHQG Hà Nội và ĐHQG

Thành phố Hồ Chí Minh, 8 trường đại học vùng, 22 trường đại học, cao đẳng quân
sự, 6 trường đại học và Học viện công an, 104 trường đại học và học viện dân sự do
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ ngành quản lý; 21 trường đại học địa phương do
các tình, thành quản lý; 56 trường đại học dân lập và tư thục và 185 trường cao đẳng,
cùng với đó là lực lượng trí thức nhà giáo lớn mạnh 61.674 cán bộ, giảng viên (năm
2013). Có thể nói, cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức giáo dục đại
học cũng lớn mạnh không ngừng, đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực trình độ
cao cho sự phát triển quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử.
Một số đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
Thứ nhất, trí thức giáo dục đại học vừa là nhà giáo, vừa là nhà khoa học, đại
biểu cho hầu hết các ngành khoa học hiện có của quốc gia.
Thứ hai, trí thức giáo dục đại học là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
đạo đức và lối sống trong sáng.
Thứ ba, trí thức giáo dục đại học là người có bản lĩnh khoa học.
Thứ tư, trí thức giáo dục đại học là nhà giáo dục có năng lực sư phạm sâu sắc.
2.1.2. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận tinh túy của nguồn nhân lực.
Để có tăng trưởng nhanh và ở mức cao, mọi nền kinh tế trên thế giới đều phải dựa
vào ít nhất ba trụ cột cơ bản, đó là: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng
hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất
cho sự tăng trưởng bền vững là nguồn nhân lực chất lượng cao. Tức là những con
người phải được đầu tư phát triển, có kỹ năng, có kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm,
năng lực sáng tạo để trở thành “nguồn vốn” - vốn nhân lực.
Ở nước ta hiện nay, thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao chính thức được
nêu ở Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X: “Thông qua việc đổi
13
mới toàn diện giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng
nền giáo dục Việt Nam”.
Tác giả quan niệm, nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận tinh túy nhất
của nguồn nhân lực; là lao động có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cao, kỹ

năng lao động giỏi; có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi của khoa học
kỹ thuật; có sức khỏe và phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo tri
thức khoa học vào quá trình sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao.
Trong giai đoạn hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao có ý nghĩa to lớn đối
với sự phát triển quốc gia. Điều đó được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính, quyết định quá
trình tăng trưởng và phát triển KT-XH. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực
chất lượng cao với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật. Các nguồn
lực khác, là những yếu tố có hạn và chỉ được phát huy tác dụng khi kết hợp với
nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH - quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh; từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động được đào tạo với công nghệ tiên tiến, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động cao.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn và vượt qua
khoảng cách tụt hậu, trong phát triển của Việt Nam với các nước trong khu vực và
quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH nhằm phát
triển bền vững.
Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là nguồn nhân lực đặc biệt, vừa là cơ hội vừa là thách thức để Việt Nam “ra
biển lớn”. Từ đó, nước ta có thể khắc phục được những yếu kém về trình độ khoa
học - kỹ thuật thông qua con đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn
trong quan hệ đầu từ, trong vay vốn…
Có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận của nguồn nhân lực
được đào tạo, có trình độ chuyên môn cao, có thể thực hiện tốt các hoạt động lao
động phức tạp, để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Trước thực trạng thiếu và yếu
của nguồn nhân lực chất lượng cao Việt Nam hiện nay, đặt ra đối với giáo dục đại
học nói chung và đội ngũ trí thức giáo dục đại học nói riêng vai trò “rốt ráo” trong

đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một trong những yếu tố quyết
định sự thành công của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, là điều
kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, đưa Việt Nam phát triển bền vững.
14
2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
2.2.1. Trí thức giáo dục đại học góp phần chuẩn bị cho nguồn nhân lực
chất lượng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng, phương pháp nghiên cứu,
phương pháp làm việc
2.2.2. Trí thức giáo dục đại học bồi dưỡng lý tưởng sống, định hướng
chính trị, giáo dục đạo đức cách mạng cho nguồn nhân lực chất lượng cao
2.2.3. Trí thức giáo dục đại học là tấm gương sáng về trình độ, năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức, lối sống cho nguồn nhân lực chất lượng cao
Kết luận chương 2
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Những yếu tố tác động tới đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
3.1.1. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức
3.1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
3.1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1.4. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.1.5. Đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục đại học và đội ngũ trí thức
giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
3.2. Thực trạng đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao
3.2.1. Thực trạng về số lượng và cơ cấu của đội ngũ trí

thức giáo dục đại học
- Đội ngũ trí thức giáo dục đại học làm công tác giảng dạy, nghiên cứu ngày
càng tăng lên
- Cơ cấu trí thức giáo dục đại học Việt Nam có sự biến đổi ngày càng đa dạng,
phong phú
- Đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam có mặt ở hầu khắp các lĩnh vực,
các ngành khoa học, được phân bố như sau:
(1)Đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong lĩnh vực KHTN
(2) Đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong lĩnh vực khoa học Kỹ thuật
15
(3) Đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong lĩnh vực KHXH&NV
- Cơ cấu trí thức giáo dục đại học Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ và các
loại trường.
Đại học Quốc gia: Việt Nam có hai ĐHQG, nằm ở hai thành phố lớn là Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là hai đại học trọng điểm quốc gia, là hai trung
tâm đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài lớn nhất cả nước, xét về cả quy mô đào
tạo, số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên. Mỗi ĐHQG có các
trường đại học và khoa thành viên, phân chia theo lĩnh vực và ngành nghề đào tạo.
ĐHQG Hà Nội, gồm 10 trường và khoa trực thuộc, ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh,
gồm 7 trường, khoa trực thuộc.
Đại học vùng: Đây là một loại hình trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực, có
chức năng và nhiệm vụ tương tự như ĐHQG, tuy nhiên quy mô nhỏ hơn và phạm vi
hoạt động hẹp hơn. Đặc biệt, các đại học vùng phải gắn với hoạt động kinh tế, xã hội,
văn hóa của những khu vực nhất định, cung cấp lực lượng lao động ở tầm chiến lược
cho sự phát triển của vùng đó.
Ngoài hai loại hình trường đại học trên được phân bố tập trung ở Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Huế, thành phố Đà Nẵng, thành phố Thái
Nguyên, còn 369 trường đại học, cao đẳng khác, đều phân bố ở các tỉnh, thành phố,
thị xã trong cả nước, với đội ngũ trí thức giáo dục đại học còn mỏng, đặc biệt thiếu
hụt đội ngũ nhà giáo có trình độ cao, các chuyên gia.

- Cơ cấu đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam phân theo chủ thể quản lý.
Trí thức giáo dục đại học Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để tham gia
các hoạt động chuyên môn ở nhiều loại hình trường đại học, với các chủ thể quản lý
khác nhau: trường ĐH, CĐ công lập, trường ĐH, CĐ ngoài công lập (ĐH dân lập,
trường ĐH bán công, trường ĐH tư thục…).
Tính đến năm 2013, ở Việt Nam trong tổng số 207 trường đại học, có 153
trường đại học công lập, 54 trường đại học ngoài công lập. Với một số lượng lớn các
trường đại học công lập là một lực lượng trí thức không chỉ lớn về số lượng mà còn
mạnh về chất lượng. Các trường đại học công lập có vai trò nền tảng, quyết định
trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng tốt
yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2.2. Về chất lượng của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Chất lượng của đội ngũ trí thức giáo dục đại học là tập hợp những tiêu chí chỉ
khả năng về trình độ, năng lực, phẩm chất của người trí thức nhà giáo đối với việc
đáp ứng những yêu cầu mà giáo dục đại học đặt ra.
Thứ nhất, về trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học nói
chung và lực lượng giảng viên ở các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay
16
nói riêng được đánh giá là cao so với những bộ phận khác của đội ngũ trí thức trong
cả nước. Chỉ tính riêng đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở khối các trường đại học, có
61.674 người, trong đó 38.345 giảng viên có trình độ sau đại học (chiếm 62.17%).
Giảng viên có trình độ chuyên môn cao ở các trường đại học tuy nhiều, nhưng
phân bố không đồng đều. Lực lượng này chỉ tập trung ở hai đại học chủ lực là ĐHQG
Hà Nội và ĐHQG Thành Phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn một số trường đại học lớn có tỷ lệ giảng viên có trình độ trên đại
học khá cao như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Xây dựng Hà Nội Đại học Huế
Đại học Thái Nguyên. Trong khi đó, một số trường đại học và phần lớn các trường
cao đẳng, tỷ lệ giảng viên có trình độ trên đại học còn thấp, chưa đạt chuẩn quy định
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tập trung chủ yếu ở các trường khối Văn hóa, Nghệ

thuật (Nhạc viện Hà Nội, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Văn hóa Hà
Nội), hoặc một số trường cao đẳng, đại học ở vùng sâu, vùng xa…
Sự bất cập về trình độ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học còn được biểu hiện
ở tính thiếu liên tục trong chuyển giao giữa các thế hệ và sự chuẩn bị đội ngũ kế cận.
Trong thực tiễn, số lượng đội ngũ giảng viên có trình độ học vấn cao đã bị “già hóa.
Hậu quả của hiện tượng này là do việc kéo dài cơ chế quản lý theo biên chế, chậm trẻ
hóa đội ngũ trí thức giáo dục bậc đại học; chế độ định biên cứng nhắc, khó thực hiện
chế độ “sàng lọc” đội ngũ cán bộ được liên tục; một bộ phận cán bộ quản lý có năng
lực yếu kém, chưa thực sự năng động trong thực hiện chính sách tạm tuyển, chế độ
hợp đồng, tạo nguồn… để tạo ra một nguồn lực bổ sung giảng viên vững vàng một
cách kịp thời.
Trình độ ngoại ngữ và tin học hạn chế cũng là một trong những cản trở cho
người trí thức nhà giáo tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới, tăng
cường hợp tác và giao lưu quốc tế để nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và nghiên
cứu khoa học trong thời kỳ hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu
quả trong đạo tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, về năng lực của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
Năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học nước ta những năm qua có bước phát triển mới. Điều đó được minh chứng bằng
những bước trưởng thành về trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học phủ khắp các trường đại học trong cả nước, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của
một số trường đại học trọng điểm, tập trung ở hai trung tâm là Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh, và trải rộng ở tất cả các ngành, lĩnh vực khoa học, nhất là các ngành
khoa học, công nghệ mũi nhọn.
Thứ ba, về phẩm chất của trí thức giáo dục đại học
Trí thức giáo dục đại học phải có nhận thức chính trị cao, đủ trình độ ở mức
cần thiết để có khả năng xử lý được những tình huống chính trị trong giới hạn cho
phép. Giáo dục có tính chất toàn diện, bên cạnh “dạy chữ” nâng cao trình độ học vấn,
17
“dạy nghề” - nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thì điều rất quan

trọng là dạy cho sinh viên cách học để làm người, là xây dựng nhân cách cho sinh
viên,Nghị quyết Hội nghị Trung ương Tám khóa XI nhấn mạnh: “Đổi mới chương
trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy
người, dạy chữ và dạy nghề”.
3.2.3. Thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học trong đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao
3.2.3.1. Trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng lao động cho nguồn nhân lực
chất lượng cao
Trong 5 năm qua, đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc tham gia cùng hệ thống giáo dục đại học, đào
tạo gần 1 triệu cử nhân, gần 40 ngàn thạc sỹ và gần 10 ngàn tiến sỹ ở tất cả các lĩnh
vực khoa học, và có khoảng 300 ngàn sinh viên tốt nghiệp đại học, góp phần quan
trọng vào việc thực hiện Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục
vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH.
Qua thực tiễn khảo sát, lấy ý kiến từ chính đội ngũ trí thức nhà giáo về vai trò
của người giảng viên trong trường đại học, kết quả, 71,5% ý kiến cho rằng, giảng
viên là người truyền đạt kiến thức. Với vai trò đào tạo cho người học tri thức chuyên
môn, trí thức giáo dục đại học còn được đánh giá cao trong vai trò là người dạy chữ,
dạy nghề và dạy làm người.
Có thể nói, bên cạnh những đóng góp không nhỏ của đội ngũ trí thức giáo dục
đại học Việt Nam trong quá trình chuẩn bị tri thức chuyên môn, kỹ năng thực hành
nghề nghiệp cho nguồn nhân lực chất lượng cao, song quá trình ấy còn có nhiều bất
cập, yếu kém, dẫn đến những hạn chế, khiếm khuyết trực tiếp cho đào tạo nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
Một là, năng lực của đội ngũ trí thức giáo dục đại học còn hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu về trình độ để thực hiện tốt nhiệm vụ chuyển tải cho người học
kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp.
Hai là, trong quá trình giảng dạy, trí thức giáo dục đại học chưa thực sự đưa
ra những giải pháp căn bản nhằm thực hiện tốt mục tiêu, kế hoạch đào tạo, nội
dung phương pháp dạy học, dẫn đến tình trạng “dạy nhồi sọ” kiến thức, hoặc “

cưỡi ngựa xem hoa”, đưa ra những “mớ lý thuyết suông” không hiệu quả… (đã
phân tích ở 3.2.2).
Ba là, sự mất cân đối giữa cơ cấu về số lượng giảng viên và sinh viên, làm cho
tình trạng “chạy xô” của giảng viên với những thời “khóa biểu đặc kín”.
Bốn là, công tác kế cận đội ngũ còn gặp nhiều khó khăn, cho nên thiếu hụt một
lượng lớn chuyên gia trong đào tạo chuyên ngành.
3.2.3.2. Trang bị phương pháp nghiên cứu, phương pháp làm việc cho nguồn
nhân lực chất lượng cao
18
Về trang bị phương pháp nghiên cứu
Qua thực tế khảo sát của tác giả, để có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, trước hết cần có sự nhận thức đầy đủ của chính các thầy cô về vai trò của mình
trong việc trang bị tư duy, phương pháp và kỹ năng thực tiễn đối với người học.Đó
chính là công cụ, phương tiện để để nguồn nhân lực trong tương lai vững vàng, sẵn
sàng tham gia ở một môi trường lao động trình độ cao.
Trước thực trạng đáng báo động về những hạn chế của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học hiện nay đối với việc trang bị phương pháp, nhằm phát huy tính năng
động, tự chủ trong nghiên cứu,trong quá trình học tập của học viên, sinh viên là vô
cùng cần thiết.
Về trang bị phương pháp làm việc cho người học
Trang bị phương pháp làm việc là một nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đại học, ở
đó, nguồn nhân lực sẽ được trang bị kỹ năng thực hành nghề nghiệp thành thạo, có
thể thu thập và xử lý thông tin khoa học nhạy bén, thích nghi và làm chủ chuyên môn
trước những yêu cầu, đòi hỏi của nghề nghiệp đặt ra.
Hiện nay, việc đưa ra tiêu chí “chuẩn đầu ra” để đánh giá trình độ học viên,
sinh viên, đã chứng tỏ giáo dục đại học nhận thức được những đòi hỏi mới của thị
trường lao động đối với nguồn nhân lực đang được đào tạo. Đây cũng là yếu tố có tác
động không nhỏ đến việc thúc đẩy đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp
dạy học hiện nay ở hệ thống giáo dục nghề nghiệp, đại học và sau đại học. Nội dung
và phương pháp dạy học được đổi mới và có sự thống nhất, nhiệt tình tham gia của

giáo viên và học sinh mới có thể đáp ứng được yêu cầu về chuẩn đầu ra của các bậc
đại học.
Thực trạng trên đã có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực,
chất lượng đội ngũ công nhân lành nghề còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2.3.3. Bồi dưỡng lý tưởng sống, nhân cách làm người - tạo động lực cho
nguồn nhân lực chất lượng cao tự vươn lên trong học tập, trong lập thân, lập nghiệp
Trên tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam trong
thời kỳ mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Tám, Khóa XI của Đảng xác định:
"Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực
tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội".
Đặc thù sư phạm của trí thức giáo dục đại học không chỉ là khoa học mà còn là
nghề thuật trong sự nghiệp “trồng người”. Phần lớn trong số họ đều coi trọng gìn giữ
phẩm giá, danh dự của nhà giáo, xứng đáng “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng
cho học sinh noi theo”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, đội ngũ trí thức
nhà giáo với 70,1% ý kiến cho rằng, trí thức giáo dục đại học đóng vai trò là người
trang bị lý tưởng, niềm tin cho người học. Và, khi đánh giá trên thực tế, điều đó cũng
19
được thừa nhận bởi chính các chủ thể được giáo dục (học viên, sinh viên), với 72,2%
ý kiến rất hài lòng về vai trò bồi dưỡng lý tưởng, nhân cách của trí thức giáo dục đại
học Việt Nam trong thời gian qua.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, những tác động trái chiều của quá trình
toàn cầu hóa và nền kinh tế thị trường tới trí thức giáo dục đại học Việt Nam, đã làm
ảnh hưởng không nhỏ trong sự chuyển dịch một số thang bậc giá trị của trí thức nhà
giáo như.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên được lí giải từ nhiều góc độ. Thứ
nhất, do bản thân trí thức giáo dục đại học chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của
những phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp đối với giáo dục nhân cách cho

người học - một bộ phận của chất lượng lao động nhân lực cao. Thứ hai, công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhà giáo chưa được quan
tâm đúng mức. Thứ ba, mặt trái của cơ chế thị trường, với những biểu hiện tiêu cực
trong đời sống xã hội đã không tránh khỏi sự tác động vào môi trường giáo dục đại
học, làm xói mòn giá trị đạo đức, thanh danh của nhà giáo. Thứ tư, công tác thanh,
kiểm tra xử lý những vi phạm về đạo đức nhà giáo chưa triệt để và hiệu quả. Từ đó
khiến một bộ phận trí thức giáo dục đại học xem nhẹ việc gìn giữ uy tín, nhân phẩm
nhà giáo, ảnh hưởng lớn đến quan niệm về nghề nghiệp cao quý mà xưa nay được cả
xã hội tôn vinh.
3.3. Một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt
Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay
3.3.1. Sự bất cập về năng lực, trình độ của đội ngũ trí thức giáo dục đại học với
yêu cầu ngày càng cao trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
3.3.2. Mâu thuẫn giữa chất lượng sống của đội ngũ trí thức giáo dục đại học
với chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
3.3.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao về chất lượng đội ngũ trí thức
giáo dục đại học với sự yếu kém trong cơ chế kiểm tra, giám sát và đánh giá của các
cơ quan quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học
Kết luận chương 3
Chương 4
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
4.1. Một số quan điểm cơ bản
4.1.1. Phát huy vai trò đội ngũ trí thức giáo dục đại học phải gắn liền với việc
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức cả nước
20
4.1.2. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại học phải gắn liền với
việc xây dựng, phát triển và hiện đại hóa giáo dục bậc đại học

4.1.3. Phát triển đội ngũ trí thức giáo dục đại học hiện nay phải gắn liền với
chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
giáo dục đại học Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức giáo dục đại
học trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về vị trí và vai trò của trí thức giáo dục đại
học trong đào NNLCLC của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội,
hệ thống giáo dục và đào tạo và toàn thể xã hội. Từ đó mới xác định tầm quan trọng
và vị thế xã hội của đội ngũ này trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, bản thân đội ngũ trí thức nhà giáo cũng cần được nhận thức đầy đủ về
vai trò, trách nhiệm của mình để có thể cống hiến tốt nhất, chất lượng nhất trong hoạt
động đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, đặc biệt là NNLCLC trong giai đoạn hiện
nay. Thực hiện giải pháp này, cần hướng nhận thức về vị trí, vai trò của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học trong đào tạo NNLCLC đối với sự tham gia của các cấp, ban,
ngành trong toàn xã hội, với những giải pháp cụ thể.
Thứ ba, thường xuyên có những cuộc hội thảo, nghiên cứu đánh giá chuyên
môn và đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.; giúp cho đội ngũ cán bộ có những nhận
thức mạch lạc trong tự đánh giá vai trò của hệ thống giáo dục đại học nói chung và
vai trò của lực lượng trí thức nhà giáo trong đào tạo NNLCLC.
Thứ tư, cần nâng cao nhận thức về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức
nhà giáo của mỗi nhà trường và của Nhà nước. Ngay từ khi bắt đầu tham gia vào hệ
thống giáo dục đại học, đội ngũ trí thức nhà giáo được cần cung cấp và truyền đạt về
vị trí, tầm quan trọng, vai trò chủ yếu của hệ thống giáo dục đại học và của trí thức
nhà giáo trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
4.2.2. Hoàn thiện chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng đội ngũ trí thức giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Chính sách tạo động lực cho đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam hiện

nay là tập hợp lớn các chính sách cụ thể, liên quan đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, đánh giá và đãi ngộ nhằm tạo điều kiện nâng cao chất lượng giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của trí thức nhà giáo. Mục đích của việc thực hiện có hiệu quả
cơ chế, chính sách tạo động lực cho đội ngũ trí thức giáo dục đại học sẽ phát huy tốt
vai trò trong đào tạo NNLCLC, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền lợi và
nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tự do sáng tạo và dân chủ trong nghề nghiệp của
đội ngũ trí thức nhà giáo.
21
4.2.2.1. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ trí
thức giáo dục đại học
4.2.2.2. Về chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ trí thức giáo dục đại học
4.2.2.3. Về chính sách trong sử dụng đội ngũ trí thức giáo dục đại học
4.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại học
Thực chất của việc đổi mới nội dung, chương trình giáo dục đại học là việc lựa
chọn hệ thống tri thức khoa học đưa vào giảng dạy trong trường đại học thời kỳ mới.
Đó là, đảm bảo nội dung giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, học
viên, sinh viên được tiếp nhận kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành một cách
hoàn chỉnh, có phương pháp, kỹ năng làm việc khoa học, có khả năng vận dụng tri
thức khoa học tiên tiến, hiện đại vào chuyên môn… nhằm làm tăng tính tích cực và
tính cơ động của cả người dạy và người học, từ đó làm tăng cơ hội học tập của học
viên, sinh viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nhân lực cho xã hội.
Cụ thể, “đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng
nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của
người học”, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI khẳng định.
4.2.4. Đổi mới phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của người học
Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá có hiệu quả cần phải tuân theo một số nguyên
tắc cơ bản như: (1) Phải kiểm tra đánh giá theo mục tiêu đào tạo của từng môn học,
đồng thời phải kiểm tra, đánh giá theo các bậc nhận thức, các bậc kĩ năng và các bậc
của năng lực tư duy mà môn học dự kiến người học phải đạt được sau khi học xong.

(2) Cần áp dụng nhiều hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau: thi viết,
thi vấn đáp, thi trắc nghiệm khách quan, đặc biệt ở đại học, cần chú trọng và ưu tiên
cho các hình thức: bài tập lớn, tiểu luận, tổng luận môn học. Việc kiểm tra phải được
tiến hành thường xuyên trong quá trình học tập. (3) Kết quả kiểm tra, đánh giá phải
được sử dụng để đánh giá chất lượng giảng dạy, chất lượng học tập và chất lượng đào
tạo (chương trình, nội dung, phương tiện và tổ chức đào tạo). (4) Cần tăng cường phân
cấp quản lý chất lượng rõ ràng, tránh tình trạng chồng chéo giữa các cơ quan quản lý.
4.2.5. Trí thức giáo dục đại học cần nỗ lực vươn lên đáp ứng yêu cầu đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhóm giải pháp này nhằm tạo động lực thúc đẩy đội ngũ trí thức giáo dục đại
học phải tự vươn lên để trau dồi phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp, phát huy
triệt để vai trò phát triển nguồn nhân lực đặc biệt là NNLCLC cho đất nước.
4.2.6. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục đại học
Một là, thành lập cơ sở giáo dục và đào tạo theo hình thức liên doanh, hợp
đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện các hoạt động giáo dục và đào tạo cho người
nước ngoài và người Việt Nam.
22
Hai là, thành lập viện, trung tâm nghiên cứu khoa học hoặc các dịch vụ liên
quan đến nghiên cứu trong cả ba lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ, tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn, thí điểm thành lập cơ sở đào tạo đại học có 100% vốn
đầu tư nước ngoài.
Ba là, tiếp tục thực hiện các chương trình, đề án giáo dục nhằm nâng cao mối
quan hệ hợp tác với các trường đại học trên thế giới, nâng cao trình độ đội ngũ trí
thức trong các lĩnh vực của giáo dục đại học, thu hút nhân tài từ nước ngoài về giảng
dạy trong các trường đại học, tránh tình trạng “chảy máu chất xám” trong hệ thống
giáo dục Việt Nam.
Bốn là, mở rộng và tiếp tục tăng lên về số lượng các ngành đào tạo có chương
trình liên kết nước ngoài nhằm đào tạo ngày càng nhiều đội ngũ nguồn nhân lực chất
lượng cao, đáp ứng không chỉ nhu cầu phát triển đất nước mà còn đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động quốc tế, có trình độ tương đương với các nước trên thế giới,

làm việc được với các chuyên gia thuộc tất cả các ngành nghề và được các nước trên
thế giới công nhận.
Kết luận chương 4
KẾT LUẬN
1. Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với bước ngoặt phát triển - thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Bối cảnh thế giới và thời đại đang mở ra
những triển vọng, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam, đồng thời cũng đặt nước ta trước
nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt là sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho quá trình hội nhập và phát triển.
Với vị trí là những người tham gia đào tạo ở bậc học cao nhất của hệ thống
giáo dục quốc dân, trí thức giáo dục đại học Việt Nam có trọng trách vô cùng to lớn
trong quá trình tạo lập và phát triển tiềm năng trí tuệ của dân tộc.
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN luôn đòi
hỏi phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát
triển nhanh và bền vững”. Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò của đội ngũ trí
thức giáo dục đại học trong sự nghiệp đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và phát triển nhân
tài, góp phần nâng cao mặt bằng dân trí quốc gia. Chính vì lẽ đó, tháng 11/2013,
Đảng ta đưa ra Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam, như một sự định hướng, chỉ đạo và kiên quyết “chấn hưng nền giáo dục” nước
nhà.
2. Nghiên cứu về đội ngũ trí thức giáo dục đại học và việc phát huy vai trò
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn hiện nay là vấn đề vừa
có ý nghĩa về mặt lí luận, nhằm củng cố vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức nhà giáo
trong sự phát triển chung của quốc gia, mặt khác, với ý nghĩa về mặt thực tiễn là cụ
thể hóa Nghị Quyết Đại hội XI của Đảng về “phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy
23

×