Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG ĐỌC HIỂU BÀI THƠ TRE VIỆT NAM CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN THUẬN CHÂU SƠN LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.06 KB, 56 trang )

DANH MỤC CHÚ GIẢI CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
SGK: sách giáo khoa
PP: phương pháp
PPDH: phương pháp dạy học
PPDHTC: phương pháp dạy học tích cực
HS: học sinh
GV: giáo viên
HSTH: học sinh tiểu học
VBVH: văn bản văn học
NCGD: nghiên cứu giáo dục















MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1


2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích nghiên cứu 5
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 5
5. Giả thuyết khoa học 5
6. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
7. Phương pháp nghiên cứu 6
8. Đóng góp của khóa luận 6
9. Cấu trúc của khóa luận 7
B. PHẦN NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 8
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 8
1.1.1. Phương pháp tích cực 8
1.1.2. Đọc – hiểu 14
1.2. Cơ sở lí luận 15
1.2.1. Cơ sở khoa học của việc dạy tập đọc ở tiểu học 15
1.2.2. Đặc điểm phân môn Tập đọc lớp 4 17
Tiểu kết chương 1 22
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN 24
2.1. Khảo sát thực trạng ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy học
phân môn Tập đọc, Tiếng Việt 4 24
2.1.1. Mục đích khảo sát 24
2.1.2. Đối tượng, thời gian, địa bàn khảo sát 24
2.1.3. Nội dung khảo sát 25
2.2. Kết quả khảo sát 25
2.2.1. Chương trình phân môn tập đọc lớp 4 25
2.2.2. Thực trạng dạy học tập đọc lớp 4 - Trường Tiểu Học Thị Trấn Thuận Châu –
Sơn La 29
2.2.3. Thực trạng học bài thơ “Tre Việt Nam” của HS 31
2.3. Một số vấn đề đặt ra từ khảo sát 35
Tiểu kết chương 2 35

CHƢƠNG 3: ỨNG DỤNG PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU BÀI THƠ “TRE VIỆT NAM” TIẾNG VIỆT 4
36
3.1. Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào trong đọc - hiểu bài thơ
“Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy 36
3.1.1. Phương pháp luyện đọc theo mẫu 36
3.1.2. Phương pháp đọc diễn cảm 36
3.1.3. Phương pháp giao tiếp (PP đàm thoại) 37
3.1.4. Phương pháp dạy học nêu vấn đề 37
3.1.5. Phương pháp thảo luận nhóm 38
3.2. Thiết kế mẫu bài thơ “Tre Việt Nam” (SGK TV4 tập 1, tr41) 38
3.2.1. Thuyết minh về thiết kế giáo án “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy Tiếng
Việt lớp 4 38
3.2.2. Thiết kế giáo án mẫu (phần phụ lục 1) 40
Tiểu kết chương 3 40
C. PHẦN KẾT LUẬN 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43



1
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Với quá trình triển khai thay đổi chương trình và gách giáo khoa
(SGK) Tiếng Việt tiểu học, việc ứng dụng phương pháp dạy học tích cực lấy hoc
sinh là trung tâm nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể người học
trong giờ học Tiếng Việt đã mang tới những triển vọng khả quan. Bước chuyển
của quá trình dạy học Tiếng Việt theo quan điểm tích cực đã tạo ra những thay
đổi quan trọng về nhận thức và hành động tại các trường tiểu học. Thế nên học

sinh ngồi trên ghế nhà trường hôm nay có điều kiện tiếp nhận cách thức dạy học
tiên tiến, từ đó các em có khả năng tích lũy hiểu biết và trau dồi kiến thức, thái
độ, cảm xúc để hoàn thiện nhân cách theo mục tiêu đào tạo đã đề ra.
1.2. Phân môn Tập đọc được dạy lồng ghép trong môn Tiếng Việt với đặc
thù vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực hành củng cố kiến thức, hình
thành kĩ năng, là một môn học rất hấp dẫn, lý thú, bổ ích, có khả năng giúp học
sinh phát triển toàn diện về trí tuệ, nhân cách và tâm hồn. Phân môn Tập đọc ở
tiểu học có nhiệm vụ quan trọng là rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc và nhận
biết nội dung văn bản, tác phẩm văn học cũng như vận dụng những kiến thức đã
học vào cuộc sống từ đó giúp các em hoàn thiện nhân cách bản thân.
Tuy nhiên, có một thực tế dễ nhận thấy để thực hiện nhiệm vụ còn gặp rất
nhiều khó khăn đó là những vướng mắc, lúng túng trong quá trình đổi mới
phương thức dạy học do sự níu kéo của những thói quen cũ đã làm hạn chế một
phần vai trò chủ thể tích cực của học sinh để biến quá trình đào tạo thành tự đào
tạo. Từ đó dẫn tới học sinh kém hào hứng học văn bản tập đọc nói chung và thơ
văn nói riêng cũng như vậy, chất lượng dạy học thơ văn trong Tiếng Việt có
phần giảm sút, các em học với tâm thế bị cưỡng ép, mang tính bắt buộc, đối phó.
Tình hình trên đang thu hút sự chú ý của dư luận xã hội. Làm thế nào để nâng
cao chất lượng đọc hiểu các văn bản văn học qua những tiết học tập đọc là vấn
đề cần đặc biệt quan tâm. Nhất là, đối với học sinh miền núi như Trường Tiểu
Học Thị Trấn Thuận châu – Sơn La còn có nhiều con em dân tộc thiểu số. Do đó
việc dạy và học tập đọc gặp rất nhiều khó khăn.

2
Vì vậy, việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học (PPDH) bộ môn có vai
trò rất quan trọng, quyết định đối với việc tạo hứng thú cho học sinh trong
học tập, nâng cao chất lượng dạy học. Chúng tôi cho rằng việc ứng dụng các
phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC) vào dạy học Tiếng Việt nói chung,
thơ văn nói riêng chính là một trong những giải pháp nhằm đổi mới PPDH
đáp ứng yêu cầu trên.

1.3. Trong phân môn Tập đọc, tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp quê hương, đất
nước là một kiểu loại văn bản chính. Có thể nói, đây là loại văn bản “khó đọc”
nhất trong tất cả các kiểu loại văn bản bởi đặc trưng nắm bắt thế giới môt cách
đặc biệt, bởi kiểu cấu trúc theo một logic, đúng hơn là theo logic cảm xúc. Cũng
không ít người cho rằng việc đọc và thưởng thức những tác phẩm ca ngợi quê
hương, đất nước nói chung, thơ ca ngợi về quê hương đất nước là lĩnh vực của
những gì thiêng liêng, huyền bí chỉ những cá nhân mang phẩm chất “thiên phú”
mới có thể bước chân vào. Không cực đoan như thế nhưng số đông cho rằng tác
phẩm ca ngợi quê hương, đất nước “khó đọc”, “kén” người đọc hơn nhưng tác
phẩm tự sự hay trữ tình. Học sinh (HS) trong nhà trường cũng vậy, thơ đối với
các em có vẻ ngắn hơn, dễ thuộc hơn tác phẩm tự sự nhưng cảm nhận, lý giải,
phân tích, bình giá những vẻ đẹp của nó thì bội phần khó khăn thử thách.
Chương trình và sách giáo khoa mới được xây dựng theo hướng tăng cường
khả năng hoạt động của người học. Vì vậy, việc ứng dụng các phương pháp day
học tích cực để dạy học Tiếng Việt nói chung, thơ ở Tiểu Học nói riêng là một
hình thức góp phần tạo điều kiện giúp HS phát huy vai trò chủ động, năng động
sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của một công dân trong thời kỳ hội nhập khu vực và
thế giới của đất nước.
1.4. Ở huyện Thuận Châu - Tỉnh Sơn La, do hoàn cảnh và điều kiện thực tế
ở một điạ phương vùng xâu, vùng xa phía tây bắc của Đất Nước, việc đổi mới
quan điểm dạy học Tiếng Việt nói riêng theo tinh thần phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Bản thân
chúng tôi cũng muốn tìm hiểu và góp phần vào việc cải thiện tình hình dạy học
Tiếng Việt tại Trường Tiểu Học Thị Trấn Thuận Châu - Sơn La.

3
Với các lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Ứng dụng phương pháp dạy
học tích cực trong đọc - hiểu bài thơ Tre Việt Nam cho học sinh lớp 4 Trường
Tiểu học thị trấn Thuận Châu - Sơn La”. Trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu đổi
mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học cho chính mình sau này, sau

nữa có thể góp một phần vào tháo gỡ những khó khăn, lúng túng của các bạn
sinh viên, đồng nghiệp. Từ đó HS trường Tiểu Học Thị Trấn Thuận Châu dễ
hiểu bài học hơn, tích cực, chủ động hơn trong hoc tập và dễ dàng đọc - hiểu bài
thơ “Tre Việt Nam” tiếng Việt 4.
2. Lịch sử vấn đề
Phương pháp dạy học tích cực là môt thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều
nước để chỉ phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính cực, chủ
động, sáng tạo của người học. PPDHTC hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích
cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người dạy. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên (GV)
phải nỗ lực nhiều so với dạy học theo phương pháp thụ động.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong nghị
quyết TW từ năm 1996, được thể chế hóa trong Luật Giáo Dục (12-1998), đặc
biệt là tái khẳng định trong điều 5, Luật Giáo Dục (2005): “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập
và ý chí vươn lên”. Như vậy có thể nói, vấn đề chủ yếu của đổi mới PPDH là
hướng tới các hoạt động học tập chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen thụ
động, giáo điều.
Việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy văn bản
thơ ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt Nam trong nhà trường có một
vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực dạy và học thơ trong giai đoạn
hiện nay. Nó có tác dụng phát huy tối đa khả năng của học sinh trong việc tư
chiếm lĩnh tri thức văn bản thơ ca ngợi quê hương, đất nước trên cơ sở gợi ý của
giáo viên.

4
Vấn đề vận dụng các biện pháp dạy học tích cực trong nhà trường nói
chung, bộ môn Tiếng Việt nói riêng được nói đến khá nhiều. Tiêu biểu có các tài

liệu, giáo trình như:
Chuyên luận: Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu Học (NXB GD, 2006)
đã nêu: Về bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách tiến hành các phương pháp,
đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai các phương pháp trên cơ sở khai
thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số
phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học [2. tr10]. Từ đó đưa ra các phương pháp dạy tập đọc như: Phương
pháp phân tích mẫu, phương pháp trực quan, phương pháp thực hành giao tiếp
[2. tr43]. Nhằm giúp cho quá trình dạy học tập đọc và đổi mới phương pháp dạy
học tập đọc đạt kết quả cao.
Chuyên luận: Dạy học tích cực và cách tiếp cận trong dạy học tiểu học
(Phó Đức Hòa, NXBĐHSP, 2011) cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học
tích cực để vận dụng vào dạy học phân môn Tập đọc đạt kết quả cao như: thảo
luận nhóm, dạy học nêu và giải quyết vấn đề, động não là những phương pháp
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
Giáo trình: Phương pháp dạy học tiếng iệt ở tiểu học (Lê Phương Nga- Đặng
Kim Nga, NXB GD, NXB ĐHSP, 2007), đã đưa ra các phương pháp phát huy tính
cực chủ động của HS như: Phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp luyện
theo mẫu, phương pháp giao tiếp và quy trình dạy phân môn Tập đọc.
Ngoài ra, không thể bỏ qua một nguồn tài liệu tham khảo quý báu đó là các
sáng kiến kinh nghiệm về dạy học Tiếng Việt theo hướng ứng dụng các phương
pháp dạy học tích cực được đúc kết từ phong trào thi đua “dạy tốt học tốt” trong
nhà trường thời gian qua. Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở lí luận và định
hướng quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài: Ứng dụng phương pháp dạy học
tích cực trong đọc – hiểu bài thơ “Tre Việt Nam” cho học sinh lớp 4 Trường
Tiểu học Thị Trấn Thuận Châu – Sơn La”.



5

3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hướng vào mục đích tìm tòi và khẳng định vai trò, tác
dụng của các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy phân môn Tập
đọc lớp 4 nói chung và bài thơ “Tre Việt Nam” nói riêng. Từ đó nhằm đề xuất
một số biện pháp ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu
quả dạy học đọc hiểu văn bản nói chung bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn
Duy nói riêng cho học sinh lớp 4.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Do khả năng và điều kiện hạn chế, chúng tôi chỉ nghiên cứu ứng dụng các
phương pháp dạy học đọc – hiểu bài thơ “Tre Việt Nam” trong Tiếng Việt lớp 4
ở Trường Tiểu Học Thị Trấn Thuận Châu – Sơn La.
4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài hướng tới đối tượng nghiên cứu như sau:
Thực tế dạy đọc – hiểu ở trường tiểu học Thị Trấn Thuận Châu – Sơn La.
Vấn đề ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong đọc – hiểu giảng dạy
phân môn Tập đọc Tiếng Việt 4 nói chung và bài thơ “Tre Việt Nam” nói riêng.
Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực nhằm hướng tới việc tích cực hoạt
động học tập của học sinh trong đọc – hiểu văn bản, tác phẩm “Tre Việt Nam”
của Nguyễn Duy (Tiếng Việt – Lớp 4)
5. Giả thuyết khoa học
Việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học đọc – hiểu
bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy ở Tiểu học bên cạnh những thành
công, vẫn còn những bất cập. Nếu giáo viên biết tổ chức tốt các hoạt động dạy
học tập đọc cho HS lớp 4 trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về đặc điểm tâm
lí đối tượng HS để lựa chọn các PPDH phát huy được tính tích cực của HS thì sẽ
giúp HS biết đọc hiểu tác phẩm văn học nói chung và bài thơ “Tre Việt Nam”
nói riêng có hiệu quả hơn, giúp các em có được bạn đọc tích cực, sáng tạo.




6
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những kiến thức lý luận về các phương pháp dạy học tích cực và
việc ứng dụng các phương pháp đó trong giờ đọc – hiểu văn bản tác phẩm.
Tìm hiểu tình hình thực hiện dạy học Tiếng Việt trên cơ sở áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực trong dạy tập đọc tại Trường Tiểu học Thị Trấn
Thuận Châu, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.
Xây dựng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa hiệu quả
giảng dạy trong giờ đọc – hiểu bài thơ “Tre Việt Nam” (Tiếng Việt – lớp 4),
cũng như trong các văn bản tác phẩm thơ ca ngợi quê hương, đất nước trong
chương trình Tiếng Việt ở tiểu học.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Các tài liệu về thơ ca ngợi quê hương, đất nước, con người hiện đại, tài liệu
về phương pháp giáo dục học, các tài liệu về chương trình, sách giáo khoa, việc
đổi mới phương pháp dạy học trong những năm gần đây…được chúng tôi tập
trung nghiên cứu, làm tiền đề cho việc thực hiện đề tài và quá trình dạy học thơ
ca ngợi về quê hương, đất nước, con người Việt Nam hiện đại.
7.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
Tham gia dự giờ, quan sát, tìm hiểu nắm bắt tình hình dạy học thơ ca ngợi
quê hương, đất nước, con người Việt Nam ở trường tiểu học, bao gồm các hoạt
động như dạy học, chất lượng dạy học các phương pháp dạy học, từ đó rút ra
những nhận định về thực trạng cũng như phương hướng phát triển dạy học thơ
ca ngợi quê hương, đất nước, con người ở trường tiểu học hiện nay.
7.3. Thiết kế mẫu
Soạn giáo án bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy nhằm ứng dụng các
biện pháp đã đề xuất.
8. Đóng góp của khóa luận
8.1. Về lí luận

Tìm hiểu những lí luận dạy học về các phương pháp dạy học tích cực trong
dạy học phân môn Tập đọc - Tiếng Việt nói chung, đặc điểm thơ ca ngợi quê

7
hương, đất nước, con người hiện đại nói riêng tại trường tiểu học. Tìm tòi những
phương pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu khi vận dụng vào dạy học đọc
hiểu văn bản “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy ở lớp 4.
8.2. Về thực tiễn
Góp phần khắc phục thiếu sót, nhược điểm thường gặp trong dạy học là chưa
chú ý đúng mức hoặc còn lung túng trong việc ứng dụng các phương pháp dạy học
văn bản thơ ca ngợi quê hương, đất nước, con người Việt Nam. Thúc đẩy tối đa khả
năng tích cực chủ động của học sinh trong giờ đoc – hiểu thơ ca ngợi quê hương,
đất nước, con người Việt Nam, tránh lối dạy thụ động một chiều theo kiểu giảng
giải – ghi nhớ, đọc – chép còn ảnh hưởng tại các Trường Tiểu Học, đặc biệt ở các
vùng miền núi như Trường Tiểu học Thuận Châu - Sơn La.
9. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần phụ lục đề
tài gồm ba chương:
Chương 1, Cơ sở lí luận.
Chương 2, Cở sở thực tiễn.
Chương 3, Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong giờ đọc – hiểu
bài thơ “Tre Việt Nam” Tiếng Việt 4.














8
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Phƣơng pháp tích cực
1.1.1.1. Phương pháp là một phạm trù hết sức quan trọng, nó tồn tại gắn bó
với mọi hoạt động của con người. A.N Krưlốp đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
phương pháp: “Đối với con tàu khoa học. Phương pháp vừa là chiếc la bàn, vừa
là chiếc bánh lái, nó chỉ phương hướng và cách thức hoạt động”. Về phương
diện triết học, phương pháp được hiểu là cách thức, con đường, phương tiện để
đạt tới mục đích nhất định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định.
Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để đạt tới mục đích nhất
định, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định.
Trên cơ sở phương pháp chung, người ta đã xây dựng khái niệm phương
pháp dạy học. Theo các nhà giáo dục học trên thế giới và các nhà giáo dục học
Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau về phương
pháp dạy học như:
1.1.1.2. PPDH là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết các
nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học.
PPDH là tổng hợp các cách thức làm việc phối hợp thống nhất của thầy và
trò (trong đó, thầy đóng vai trò chủ đạo, trò đóng vai trò tích cực, chủ động)
nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
PPDH là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phố hợp thong nhất
dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục

đích dạy học.
Tóm lại PPDH là những cách thức làm việc giữa giáo viên và học sinh,
nhờ đó mà học sinh nắm vững được kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành thế
giới quan và năng lực.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng tất cả các tác giả đều thừa nhận
rằng phương pháp dạy học có những dấu hiệu sau:

9
+ Phản ánh sự vận động của quá trình nhận thức của học sinh nhằm đạt
được mục đích đề ra.
+ Phản ánh sự vận động của nội dung học vấn đã được nhà trường quy định.
+ Phản ánh cách thức trao đổi thông tin giữa thầy và trò.
+ Phản ánh cách thức điều khiển hoạt động nhận thức, kích thích và xây
dựng động cơ, tổ chức hoạt động nhận thức và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
1.1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực là thuật ngữ rút gọn để chỉ các
phương pháp nhằm đề cao vai trò tự giác, tích cực, độc lập nhận thức của người
học dưới vai trò tổ chức, định hướng của người dạy. Như vậy, phương pháp dạy
học tích cực theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
Thuật ngữ này được sử dụng một số năm gần đây ở nhiều nước trên thế
giới. Tích cực trong PPDHTC được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, trái
nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng trái nghĩa với tiêu cực.
Phương pháp dạy học tích cực (Active Teaching anh Learning) hướng tới
tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung phát huy tính
tích cực vào người học chứ không chỉ tập trung hoạt động tích cực của người
dạy. Với PPDHTC, người dạy đóng vai trò chủ đạo - người học đóng vai trò chủ
động chiếm lĩnh tri thức.
Như chúng ta đã biết, muốn đổi mới cách học, trước tiên phải đổi mới cách
dạy. Trong quá trình dạy học, cách thức con đường dạy chỉ đạo cách thức con
đường học. Người học muốn chủ động sáng tạo trong học tập sẽ đòi hỏi bản thân

người dạy luôn động não, tích cực tổ chức các hoạt động, đưa người học vào các
tình huống sư phạm khác nhau và để tự các em giải quyết những tình huống đó.
Trong việc đổi mới PPDH phải luôn có sự hợp tác của người dạy và người
học, sự phối hợp hoạt động dạy và hoạt động học. Theo quan điểm này,
PPDHTC đề cập đến Dạy và Học tích cực. Như vậy, thuật ngữ này hàm chứa cả
phương pháp dạy và phương pháp học.
PPDHTC là một xu thế đổi mới PPDH trong các loại hình nhà trường hiện
nay. Ở đây, người học được chiếm lĩnh tri thức thông qua các hoạt động dưới

10
vai trò tổ chức, chỉ đạo, định hướng của người dạy. Nó đi ngược lại với xu thế
dạy học truyền thống lâu nay: Thầy đọc – Trò chép; hay nói cách khác, người
học bị động trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo.
a. Đặc điểm của phương pháp dạy học tích cực
- PPDHTC là hệ thống phương pháp trong đó có phương pháp tự học là
trung tâm chỉ đạo, có tác dụng gắn bó các phương pháp khác thành một hệ thống
nhất toàn vẹn.
- PPDHTC có tác dụng tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học.
Người học được đặt vào tình huống có vấn đề trong đó có mâu thuẫn nhận thức
giữa cái đã biết và cái phải tìm, tức là trong trạng thái có nhu cầu bức thiết cần
giải quyết bằng được mâu thuẫn đó. Qua việc giải quyết vấn đề, người học lĩnh
hội kiến thức một cách tự giác và tích cực, trong đó có niềm vui của sự nhận
thức sáng tạo.
- PPDHTC có những nét cơ bản của sự tìm tòi khoa học mà trong đó tư duy
sáng tạo vừa là phương tiện vừa là mục đích của quá trình dạy học.
- PPDHTC có yêu cầu cao đối với người dạy và người học.
- PPDH tích cực giúp học sinh nắm chắc kiến thức, nhớ lâu, đảm bảo sự cá
thể hóa, tập trung vào người học.
- PPDHTCcó thể áp dụng rộng rãi cho nhiều môn học, nhiều dạng bài học ở
nhiều mức độ khác nhau.

b. Bản chất của phương pháp dạy học tích cực
Bản chất của PPDHTC là biến quá trình đạo tạo thành quá trình tự đào tạo,
quá trình truyền thụ kiến thức của thầy thành quá trình tự học của học sinh. Giáo
viên tạo nên những tình huống có vấn đề để học sinh chấp nhận các tình huống
đó là cần thiết đối với các em, học sinh tự tìm tòi, nghiên cứu, chủ động hợp tác
dưới sự tổ chức, điều khiển, cố vấn của thầy để tìm ra kiến thức mới.
c. Những dấu hiệu đặc trưng của PPDH tích cực
Có thể nêu ra 4 dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau đây, đủ để phân biệt với các
phương pháp thụ động.

11
c1. Khi sử dụng PPDHTC, người học là khách thể của hoạt động dạy nhưng
là chủ thể của hoạt động học. Họ được tích cực tham gia vào các hoạt động học
tập dưới vai trò tổ chức của người dạy. Ở người học được đặt vào trong các tình
huống có vấn đề, tự mình khám phá tri thức, được trực tiếp quan sát, thảo luận,
làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề theo suy nghĩ của bản thân, động não tư duy
các phương án giải quyết khác nhau trong một thời gian nhất định… từ đó,
không những nắm được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà còn nắm được cách thức và
con đường đi tới tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đó.
c2. Rèn luyện phương pháp tự học là mục tiêu, nhiệm vụ là cách thức, con
đường của PPDHTC. Không đi theo con đường của cách dạy học truyền thống,
mang tính nhồi nhét tri thức cho người học, mà tiếp cận với cách dạy học hiện
đại, tự bản thân người học tìm kiếm, khám phá tri thức thông qua các kênh
thông tin đa dạng hóa khác nhau.
Trong sự bùng nổ thông tin của khoa học công nghệ và khoa học xã hội, xu
thế dạy học truyền thống mang tính áp đặt tri thức từ phía người dạy không còn
phát huy hiệu quả tích cực, thì phương pháp dạy học tích cực được coi là
phương pháp dạy học cơ bản. Người học là một kênh tự thông báo các thông tin
khác nhau, thu nạp từ nhiều nguồn và bước đầu tự xử lí, chọn lọc các đơn vị tri
thức, nhằm phục vụ cho mục đích của bản thân.

Chúng ta thử tưởng tượng xem, từ 2 đến 3 năm, lượng thông tin khoa học
công nghệ tăng lên hai lần, còn 3 – 4 năm, thông tin khoa học xã hội tăng hai
lần. Như vậy, khoảng ba năm, thông tin về khoa học nói chung tăng gấp hai lần.
Không phải ngẩu nhiên, xu hướng một số nước tiên tiến trên thế giới giảm bậc
đào tạo đại học xuống còn ba năm hoặc hơn một chút (thời gian đào tạo tại một
số trường đại học ở Vương quốc Anh là ba năm). Những người được đào tạo –
sản phẩm của giáo dục sẽ đáp ứng phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học là tạo cho người học động cơ
hứng thú học tập, rèn kĩ năng, thói quen ý chí tự học để từ đó khơi dậy nội lực
vốn có trong mỗi người, chất lượng và hiệu quả học tập sẽ được nâng cao.

12
c3. Dưới góc độ lí thuyết của lí luận dạy học, nguyên tắc đảm bảo tính vừa
sức chung và tính vừa sức riêng luôn được thực hiện trong quá trình dạy học.
Theo nguyên tắc dạy học này, tri thức truyền tải phải nằm trong vùng ngưỡng
phát triển trí tuệ của người học, tức không quá thấp và không quá cao. Trong khi
đó trình độ nhận thức trong một lớp là không đồng đều cũng như tư duy luôn có
sự khác biệt, do vậy khi áp dung PPDHTC tính đến sự phân hóa về cường độ,
tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập với các bài học được thiết kế thành một
chuỗi các thao tác độc lập.
Các bài tập, các tình huống được thiết kế trong bài học phải tuân theo
nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức chung và riêng. Tính vừa sức chung đối với số
đông người học (đại trà), còn tính vùa sức riêng đối với cá nhân học sinh.
Áp dụng PPDHTC ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc
sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu
cầu cá thể hóa hoạt động học tập của người học.
Tuy vậy, trong quá trình dạy học, hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, hoạt
động sáng tạo và thái độ cũng như chuẩn mực hành vi đều được hình thành bằng
các hoạt động độc lập, cá nhân. Giảng đường và lớp học là môi trường giao tiếp
sư phạm, giao tiếp giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau, tạo

nên mối quan hệ tương tác trong quá trình chiếm lĩnh nội dung bài học.Thông
qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, các giờ xeminer trên giảng đường… ý
kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ thể hiện trình độ nhận
thức của từng người, từ đó người học tự nâng trình độ của bản thân lên mức độ
cao hơn. Như vậy, thông qua việc học tập của từng cá nhân trong một tập thể, sự
phối hợp học tập hợp tác cho thấy, bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh
nghiệm của mỗi người học, của cả lớp chứ không phải chỉ dựa trên nguồn tri
thức của người dạy và các tài liệu học tập có liên quan.
Trong các loại hình nhà trường hiện nay, phương pháp học tập hợp tác
được tổ chức theo nhóm đôi, nhóm nhỏ (4 – 6 người), nhóm lớn hơn (8 – 10
người), theo lớp, các giờ xeminer, hoặc trường. Học tập hợp tác làm tăng hiệu
quả và chất lượng của giờ học, đặc biệt khi giải quyết các vấn đề phức tạp, khó

13
hiểu. Lúc này thực sự xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các thành viên trong
nhóm để hoàn thành yêu cầu, nhiệm vụ chung đề ra.
Trong hoạt động nhóm các thành viên phải ý thức không nên ỷ lại; tính
cách năng lực tổ chức dần được bộc lộ, tình cản bạn bè, tinh thần hỗ trợ được
phát huy… chính mô hình hợp tác này sẽ giúp cho các thành viên làm quen dần
với sự phân công hợp tác trong xã hội.
Đất nước ta đang hội nhậpmột cách mạnh mẽ vào nền kinh tế thị trường, có
sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực với các nước trên thế giới, vì vậy năng lực hợp tác
phải trở thành nhiện vụ trong giáo dục nhà trường, chuẩn bị bước đường tương
lai cho người học.
c4. Vấn đề kiểm tra - đánh giá là một khâu không thể thiếu của quá trình
dạy học. Nó giúp cho người dạy điều chỉnh quá trình dạy, còn người học tự điều
chỉnh quá trình học của bản thân; từ đó mở ra một chu kỳ dạy học tiếp theo.
Trong quá trình dạy học, kiểm tra là phương tiện đánh giá. Theo quan điểm
dạy học truyền thống, người dạy giữ độc quyền đánh giá người học. Điều này
dẫn đến, nhiều khi các em không hiểu tại sao mình được điểm số như vậy. Ý

nghĩa giáo dục trong đánh giá bị giảm sút đáng kể.
Theo lí thuyết của PPDHTC, người dạy tổ chức hướng dẫn cho người học
phát triển các kĩ năng tự đánh giá; tự điều chỉnh hoạt động học. Ở đây, người
dạy cần tạo điều kiện thuận lợi để người học được tham gia tương tác, đánh giá
lẫn nhau. Tự đánh giá đúng bản thân để từ đó điều chỉnh hành vi, hoạt động của
mình là yếu tố cần thiết trong cuộc sồng. Phẩm chất này của mỗi người sẽ dần
được hình thành thông qua việc dạy và học tích cực trong nhà trường.
Theo định hướng của PPDHTC, nhằm đào tạo những con người năng động,
sáng tạo, dễ hòa nhập và thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra – đánh
giá không dừng lại ở mức độ, yêu cầu tái hiện các tri thức đã học (tư duy tái hiện
là tư duy mang tính thụ động, không tích cực) mà phải kích thích tài năng tìn
kiếm của người học các thách thức thông qua các bài toán nhận thức, những tình
huống có vấn đề, những yêu cầu mang tính sáng tạo điển hình…

14
Ngày nay, với sự hỗ trợ của các phương tiện dạy học hiện đại cũng như các
phương thức đánh giá mới đang ngày được cập nhật và sử dụng, nhà sư phạm có
nhiều lựa chọn các cách đánh giá khác nhau nhằm mang lại thông tin phản hồi
tích cực từ phía người học. Có thể kể tên một trong các cách đánh giá mới hiện
nay mà chúng tôi đang nghiên cứu và thực nghiệm triển khai, đó là việc đánh giá
kết quả học tập của người học bằng trắc nghiệm khách quan có sử dụng các
phần mềm công cụ.
Có thể nói, từ PPDH truyền thống, mang tính thụ động, áp đặt tri thức với
người học chuyển dịch sang PPDH tích cực mang tính chủ động, độc lập và sáng
tạo của người học là cuộc cách mạng và một bước tiến dài trong lịch sử giáo dục
nước nhà. Nó hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi mạnh mẽ của xã hội, nhằm
giúp đào tạo các sản phẩm của giáo dục (tri thức con người) thích ứng được với
hoàn cảnh và cuộc sống của xã hội hiện hành.
1.1.2. Đọc – hiểu
1.1.2.1. Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí

hiệu và chữ viết, dùng đầu óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc
và sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.
Lưu ý: - Đối với người đọc phải đọc đúng (chuẩn về mặt chính âm, ngắt
nghỉ đúng chỗ, đúng các hệ thống trong văn bản, đọc đúng giọng điệu).
- Đọc diễn cảm: Sử dụng ngữ điệu trong khi đọc (tiết tấu, cao độ, điều
chỉnh âm lượng).
1.1.2.2. Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng,
đối tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội
dung và có thể vận dụng vào đời sống.
Cụ thể: Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi: cái gì? Như thế nào? Làm như
thế nào?
Trong các văn bản, tác phẩm văn chương, chúng ta cần phải hiểu:
- Nội dung của văn bản.
- Mối quan hệ ý nghĩa của văn bản do tác giả tổ chức và xây dựng.

15
- Cần khẳng định được mục đích, ý đồ, nội dung hiện thực, tiền giả định, sự
khái quát hóa của tác giả trong văn bản.
- Đánh giá được tư tưởng của tác giả.
- Phải hòa đồng thông tin và tư tưởng của tác giả với tri thức và kinh
nghiệm phù hợp của người đọc.
1.1.2.3. Đọc - hiểu văn bản là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải
thích, phân tích, khái quát, biện luận đúng sai về logic, tức là kết hợp với năng
lực, tư duy và biểu đạt.
Đọc hiểu là khái niệm bao trùm có nội dung quan trọng trong quá trình dạy
thơ văn, nó là một khái niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động học,
đọc hiểu cũng chỉ năng lực của người đọc.
Có hai loại hình đọc - hiểu:
- Đọc thành tiếng: tức là hoạt động đọc sử dụng thị giác để tác động lên văn
bản từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, đồng thời sử dụng tri óc để phân tích, tư

duy, ghi nhớ. Sau đó sử dụng cơ quan phát âm để phát ra thành tiếng nhằm
hướng tới một đối tượng nghe nào đó.
- Đọc thầm: tức là hoạt động đọc sử dụng thị giác để tác động lên văn
bản từ trên xuống dươi, từ trái qua phải, đồng thời sử dụng trí óc để phân tích, tư
duy, ghi nhớ.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Cơ sở khoa học của việc dạy tập đọc ở tiểu học
1.2.1.1. Cơ sở tâm lí với việc dạy học tập đọc
Dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh dựa trên cơ sở tâm lí
học cho rằng nhân cách của con người được hình thành thông qua các hoạt động
chủ động và sáng tạo, thông qua các hoạt động có ý thức. Theo X.L Rubinstêin
(1902-1960) “con người chỉ thực sự nắm vững cái mà chính bản thân dành được
bằng lao động của mình”, học sinh tiểu học (HSTH) sẽ thông hiểu và ghi nhớ
những gì đã trải qua trong quá trình hoạt động nhận thức của bản thân bằng cách
này hay cách khác, con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi đứng trước một
khó khăn về nhận thức cần phải khắc phục, một tình huống gợi vấn đề.

16
Khi bước lên lớp 4, phân môn Tập đọc với yêu cầu đọc - hiểu cao hơn. Do
đó, HS sẽ gặp không ít khó khăn khi học tập vì vậy đổi mới phương pháp dạy
học phù hợp với tâm lí học sinh là điều rất cần thiết nhằm mang lại kết quả cao
trong dạy và học phân môn Tập đọc.
1.2.1.2. Cơ sở giáo dục tiểu học với việc dạy học tập đọc
Theo điều 23 - Luật GD năm 1998: Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ

năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục tiểu học; có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những
hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những
kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu
biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Theo điều 24 luật GD năm 1998: Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh.
Dạy – học, phát huy tính tích cực của HSTH phù hợp với nguyên tắc phát
huy tính tích cực và tự giác trong giáo dục, vì nó gợi được động cơ học tập của
chủ thể, phát huy nội lực bên trong, giúp cho người học có năng lực phát hiện và
giải quyết vấn đề, làm cho việc giải quyết vấn đề không chỉ nằm trong phạm trù

17
phương pháp dạy học mà còn mang sắc thái phạm trù mục tiêu, góp phần phát
triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
1.2.1.3. Cơ sở ngôn ngữ và văn học với việc dạy tập đọc
Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy tập đọc, ngôn ngữ đã chỉ rõ những
nội dung cụ thể về các vấn đề của ngôn ngữ chữ viết, chính âm, chính tả, nhĩa
của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ điệu, nhịp điệu, tình cảm ngôn ngữ. Đó là vấn đề
gắn bó với việc dạy và học tập của thầy và trò bậc tiểu học. Văn học nghệ thuật
là tinh hoa của ngôn ngữ, là tình cảm đạo đức lí tưởng tình yêu, nó có được nhờ
cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm phong phú và sâu
xắc. Dạy tập đọc cho học sinh tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng tiếng,

từ, câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm, cảm
nhận được ý nghĩa tình cảm, có cảm xúc, biết tư duy, tưởng tượng, hình thành ý
thức tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp, nghĩa là học sinh biết chuẩn
ngôn ngữ và hiểu biết cảm thụ văn học. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật trong
lao động dạy học sáng tạo của người thầy tiểu học. Dạy tập đọc sẽ càng tinh tế,
càng sáng tạo, càng hiệu quả khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu
của ngôn ngữ văn học. Đây là cơ sở quan trọng để đổi mới, ứng dụng những
phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả cao trong dạy học.
Cơ sở của dạy học phân môn Tập đọc lớp 4 đó chính là việc đọc đúng chính
âm, trọng âm, ngữ điệu và đọc diễn cảm văn bản đọc. Đây cũng chính là cở sở
để ứng dụng phương pháp dạy học tích cực đạt hiệu quả cao.
1.2.2. Đặc điểm phân môn Tập đọc lớp 4
1.2.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu của phân môn Tập đọc lớp 4
a. Mục tiêu
Củng cố, phát triển kỹ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành từ lớp 1,
2, 3; tăng cường tốc độ đọc, biết đọc lướt để chọn thông tin nhanh; bước đầu
biết đọc diễn cảm.
Phát triển kỹ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: Nắm và vận dụng được một
số khái niệm như đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách… để hiểu ý nghĩa của
bài và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, thơ.

18
Ngoài ra dạy tập đọc là giáo dục học sinh lòng ham đọc sách. Thông qua
việc dạy tập đọc, làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc là có lợi
ích cho các em trong cả cuộc đời. Phân môn Tập đọc giúp các em có vốn kiến
thức về ngôn ngữ, đời sống kiến thức văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy,
giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ.
b. Nhiệm vụ
Hình thành năng lực đọc cho học sinh.
Giáo dục lòng ham đọc sách, phương pháp làm việc với sách cho học sinh.

Làm giàu kiến thức cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư
tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho các em.
c. Yêu cầu
- Đối với giáo viên phải biết đọc mẫu và hướng dẫn luyện đọc cho học sinh:
+ Đọc mẫu là một hoạt động đặc thù khi hướng dẫn học sinh đọc. Đọc mẫu
phải chính xác, rõ ràng, diễn cảm, có thêm điệu bộ cử chỉ, đảm bảo tập thể học
sinh đều được nghe.
+ Giáo viên tiểu học phải rèn kĩ năng đọc để có thể đọc thành thạo, đạt rình
độ chuẩn cho học sinh noi theo.
- Đối với học sinh:
+ Phải tập trung chú ý giáo viên đọc mẫu.
+ Thực hiện luyện đọc nghiêm túc theo hướng dẫn của GV theo các cấp độ:
đọc đúng, đọc diễn cảm.
1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động dạy học tập đọc lớp 4
a. Đọc thành tiếng
Đọc thành tiếng là hoạt động dùng mắt để nhận biết một văn bản viết và
đồng thời sử dụng cơ quan phát âm phát ra âm thanh để người khác nghe được.
Căn cứ vào yêu cầu chất lượng đọc, hình thức đọc thành tiếng trong nhà
trường được chia thành các mức độ sau:
- Luyện đọc đúng là đọc rõ tiếng, rõ lời, đúng chính âm; biết ngắt nghỉ hơi
đúng chỗ theo dấu câu và ý nghĩa văn bản; giọng đọc rõ ràng, lưu loát, đủ nghe.

19
- Đọc hiểu: Kĩ năng đọc hiểu được hình thành qua việc thực hiện một hệ
thống bài tập. Những bài tập này xác định mục đích của việc đọc, đồng thời
cũng là những phương tiện đạt được sự thông hiểu văn bản của HS. Từ hiểu
được văn bản sẽ giúp cho việc đọc diễn cảm của các em tốt hơn.
- Đọc diễn cảm là hình thức đọc thành tiếng không những đạt yêu cầu về
đọc đúng mà còn có yêu cầu về ngữ điệu, đọc truyền cảm và sự kết hợp giữa
ngữ điệu đọc với các yếu tố kèm theo ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,

ánh mắt diễn tả bài đọc và hướng tới người nghe.
Muốn đọc diễn cảm phải nắm được kĩ thuật đọc đúng đồng thời phải hiểu,
cảm thụ được văn bản đọc và biết hướng tới người nghe để giọng đọc trở nên
truyền cảm.
b. Đọc thầm – tiếp nhận văn bản
Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để nhận
biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để chuyển trực tiếp từ kí tự sang nghĩa
để hiểu.
Đọc thầm có ưu thế là nhanh hơn đọc thành tiếng và là hình thức đọc tốt
nhất để tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản do không phải chú ý đến việc
phát âm mà chỉ tập trung hiểu điều mình đọc.
c. Các hoạt động dạy và học tập đọc
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
a, Kiểm tra bài cũ
- GV nêu câu hỏi kiểm tra việc đọc
thành tiếng và hiểu nội dung bài đã
học.
b, Bài mới
Bước 1: Vào bài
- GV dùng tranh ảnh, câu hỏi hoặc
giới thiệu gây tò mò, hứng thú cho
HS tìm tòi lời giải đáp.
Bước 2: Đọc mẫu

- HS trả lời.





- HS quan sát tranh hoặc những gợi ý
để trả lời câu hỏi.



20
- GV đọc mẫu
Bước 3: Luyện đọc và tìm hiểu bài
- GV tổ chức cho HS luyện đọc
thành tiếng và đọc hiểu
- GV tổ chức cho HS thi đọc theo
tổ, cá nhân, thi đua đọc diễn cảm,
đọc thuộc lòng.
- GV yêu cầu cá nhân HS đọc đoạn
yêu thích và đưa ra nội dung đoạn
mà mình thích đó.
- Yêu cầu HS đọc thầm và đưa ra
nội dung bài học
Bước 4: Củng cố, dặn dò
- GV gọi 1, 2 HS đọc lại và nêu lại
nội dung bài học
- GV tổng kết bài học, yêu cầu HS
về nhà luyện đọc và chuẩn bị bài
tiếp theo.
- HS chú ý, theo dõi lắng nghe

- HS đọc cá nhân, cặp, nhóm, đọc
đồng thanh cả lớp sau đó trả lời câu
hỏi.
- HS thi đọc cá nhân, nhóm, tổ:

+ HS đọc diễn cảm
+ HS đọc thuộc lòng
- HS đọc và trả lời.

- HS nêu nội dung bài học.


- HS đọc và nêu nội dung bài học

- HS lắng nghe.

1.2.3. Vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học hiện nay
Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống phương pháp dạy học nhằm phát
huy cao độ tính tích cực hoạt động của học sinh trong quá trình học tập, vấn đề
này đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau trong lịch sử
phát triển của giáo dục và nhà trường, tư tưởng về dạy học tích cực đã được các
nhà giáo dục, nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo bàn đến từ rất lâu:
Ở nước ta, vấn đề phát huy tính tích cực của người học đã được đặt ra trong
nghành giáo dục từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Thời kì này trong các trường
sư phạm đã có khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
Những lần cải cách giáo dục tiếp theo, phát huy tính tích cực là một trong những
phương hướng cải cách nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo,
làm chủ bản thân và đất nước.

21
Tại nghị quyết IV của ban chấp hành TW khóa VII đã chỉ rõ: Đổi mới
phương pháp giảng dạy ở tất cả các cấp học, bậc học… Áp dụng các phương
pháp giáo dục hiên đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy, sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề.
Phạm Văn Đồng trong bài: “một phương pháp cực kỳ quý báu” đăng trên

báo nhân dân ngày 18/11/1994 viết: PP dạy học mà các đồng chí nêu ra, nói gọn
lại là lấy người học làm trung tâm. Người ta phải đặt ra những câu hỏi, đưa ra
câu chuyện có tính hấp dẫn, khiêu gợi, đòi hỏi người nghe, người đọc, dẫu là
người suy nghĩ kém cỏi cũng phải chịu khó suy nghĩ, tìm tòi… PPDH tích cực
này có khả năng phát triển được những năng lực đang ngủ yên ở mỗi con người.
Nguyễn Kỳ trong bài “biến quá trình dạy học thành quá trình tự học” đã
đưa ra những cơ sở lí luận về phương pháp dạy học tích cực. Tác giả cũng chỉ rõ
quá trình tự học là quá trình tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều chỉnh
dưới sự hướng dẫn, tổ chức, trọng tài của thầy. Trong bài “Phương Pháp giáo
dục tích cực” đăng trên tạp chí Nghiên Cứu Giáo Dục (NCGD) số 7/1993,
Nguyễn Kỳ chỉ rõ: Trẻ em là chủ thể học tích cực bằng hành động của chính
mình, lớp học là cộng đồng các chủ thể. Thầy giáo tự nguyện bỏ vai trò chủ thể,
trở thành người thiết kế, tổ chức, trọng tài, cố vấn.
Trần Bá Hoành với các bài: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”, đăng
trên tạp chí NCGD số 1/1994, bài “PP tích cực” đăng trên tạp chí NCGD số
3/1996, bài “phát triển trí sáng tạo của học sinh và vai trò của giáo viên” đăng
trên tạp chí NCGD số 9/1999 nêu rõ: Thế nào là dạy học lấy học sinh làm trung
tâm, thế nào hapsphuwowng pháp (PP) tích cực, thế nào là PP hợp tác. Tác giả
chỉ rõ những đặc trưng của PP tích cực.
PGS.TS Nguyễn Ngọc Bảo với cuốn sách “phát triển tính tích cực, tính tự
lực của học sinh trong quá trình dạy học” tác giả đã đưa ra quan niệm học là
hoạt động tích cực, tự lực là trung tâm của quá trình dạy học và đã nêu lên các
phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Từ đó cho thấy đổi mới phương pháp dạy học là điều tất yếu và cần thiết
trong thời kì đổi mới toàn diện đất nước ta hiện nay: “về bản chất, đổi mới

22
PPDH là đổi mới cách tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và
hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các
phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy

tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học” [2,10]. Người dạy có
vai trò quan trọng trong đổi mới PPDH là người hưỡng dẫn, điều khiển, chỉ đạo
các em còn người học đóng vai trò là trung tâm của quá trình dạy học. Do đó,
các em tự tìm tòi, khám phá, giải quyết vấn đề và chiếm lĩnh tri thức trên cơ sở
hưỡng dẫn điều khiển của GV.Vì vậy, giờ học mới đạt được kết quả cao phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong quá trình học tập.

Tiểu kết chƣơng 1

Nói đến PPDH là nói đến một bộ phận quan trong trong cấu trúc của quá
trình dạy học. Tuy không phải là lần đầu tiên xuất hiện trong lí luận dạy học
nhưng thuật ngữ PPDH tích cực đã và đang là vấn đề nóng được các nhà nghiên
cứu giáo dục quan tâm, bàn luận.
Từ đó người ta đã khái quát và chỉ ra được, PPDH tích cực là một thuật ngữ
rút gọn để chỉ các PP, nhằm phát huy tính tự giác, tích cực, chủ động độc lập của
người học, dưới vai trò tổ chức điều khiển của giáo viên.
Dựa trên những cơ sở lí luận đã cho thấy đổi mới PPDH nhằm phát huy tính
tích cực là một vấn đề vô cùng quan trọng trong công tác giáo dục. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục, nhân cách người học, nó làm cho
người học năng động trong học tập, sáng tạo, độc lập trong nhận thức, trong
tư suy, Với giáo viên cần phải nhận thức đúng định hướng về đổi mới PPDH,
trong thực tiễn muốn đổi mới PPDH có hiệu quả thì cả người dạy và người
học phải tích cực, chủ động trong mọi hoạt đông dạy và học. Bên cạnh đó, cơ
sở vật chất, phương tiện dạy học cần phải phù hợp, sự ủng hộ của các cấp
quản lý cũng là nhân tố góp phần quan trọng mang lại hiệu quả trong quá
trình đổi mới PPDH hiện nay.
Muốn hướng dẫn HS đọc - hiểu có hiệu quả, GV cần nắm được những đặc
điểm tâm lí của người học; có những hiểu biết về các PPDH tích cực, quy trình

×