Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án đổi mới tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.83 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Dân chủ Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một hình thức chính trị -
nhà nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa
nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực. Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục
tiêu vừa là động lực cho sự phát triển của công cuộc đổi mới đất nước.
1.2. Trong bộ máy nhà nước ta, HĐND các cấp là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện
cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước
ta đã quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển HĐND, vì thế
HĐND đã làm được nhiều việc ích nước, lợi dân, đã thể hiện được vai trò
là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân để
xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, do HĐND ở nhiều cấp, chúng ta lại chưa quan tâm đúng
mức đến vấn đề xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong
hoạt động của HĐND, vì thế trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt
động của HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.3. Cải cách hành chính nhà nước đặt ra yêu cầu cấp thiết là cải cách
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ, phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa
các cấp chính quyền. Hiện nay, Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện
thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường với
mục đích qua thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và xem xét để có chủ trương
sửa đổi pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương, đảm bảo tính
thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà
nước từ trung ương đến địa phương.
1
1.4. Thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ ở Việt Nam, về cải cách hành chính nhà nước cho nên việc nghiên cứu


những vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐND trong điều kiện xây dựng,
hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết nhằm góp
phần tiếp tục hoàn thiện quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND, đáp
ứng những yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra cho công tác nghiên cứu lý
luận về tổ chức và hoạt động của HĐND ở Việt Nam.
Từ những lý do trên, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi
đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam" để
nghiên cứu trong luận án này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về yêu đổi
mới tổ chức và hoạt động HĐND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện nền
dân chủ ở Việt Nam nhằm đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra của việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trình bày một cách có hệ thống các vấn đề liên quan đến tổ chức và
hoạt động của HĐND nhằm xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam
trong các văn bản pháp luật, các công trình nghiên cứu và trong thực tiễn.
- Trình bày những quan điểm lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về xây
dựng chính quyền địa phương (trong đó tập trung vào việc đánh giá thí
điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường), rút ra những yếu tố hợp
lý góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở
Việt Nam.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là xác định những căn cứ lý luận và thực tiễn
làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của

HĐND trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam
hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động HĐND
trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của
HĐND ở nước ta trong thời gian qua và hiện nay.
- Xác định quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện nền
dân chủ ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử, phân tích, tổng hợp,
chứng minh, so sánh, thống kê, lôgic, nghiên cứu tài liệu, lý luận kết hợp với
thực tiễn…
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án sẽ đóng góp vào lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt động
HĐND ở nước ta hiện nay; đó là những nhận thức mới về dân chủ, dân chủ
trong tổ chức, hoạt động của HĐND. Phát hiện và giải quyết những mâu
thuẫn trong tổ chức và hoạt động của HĐND ở nước ta hiện nay, làm sáng tỏ
lý luận về sự phù hợp giữa tổ chức và hoạt động của HĐND với quá trình
xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam, từ đó đề xuất phương hướng
3
và giải pháp đổi mới tổ chức HĐND ở nước ta hiện nay. Như vậy, luận án sẽ
góp phần bổ sung và hoàn chỉnh cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở
Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

Về mặt lý luận: Sau khi nghiên cứu và bảo vệ thành công, luận án có
thể được sử dụng trong học tập, giảng dạy nhằm nâng cao nhận thức về tổ
chức, hoạt động của HĐND, về sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt
động HĐND trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước
ta hiện nay. Đồng thời, luận án còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các công trình nghiên cứu có liên quan.
Về mặt thực tiễn: Đưa ra phương hướng, giải pháp để Nhà nước ban
hành những quy định pháp luật tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của
HĐND ở nước ta hiện nay, nhằm xây dựng thiết chế HĐND có khả năng
đáp ứng những yêu cầu về xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta
hiện nay. Do vậy, kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được vận
dụng vào thực tiễn hoàn chỉnh những quy định pháp luật, nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của HĐND đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ ở nước ta hiện nay và những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận án
Với đối tượng, phạm vi nghiên cứu và mục đích, nhiệm vụ nghiên
cứu đặt ra như trình bày trên đây, luận án được kết cấu gồm: ngoài phần
mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm 4
chương, 12 tiết.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI
Vấn đề dân chủ và vai trò của HĐND trong việc bảo đảm quyền làm
chủ của người dân luôn được các nhà khoa học dành mối quan tâm đặc
biệt. Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân trong
điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam” chưa được
nghiên cứu trong một luận án tiến sĩ nào nhưng cũng có khá nhiều công
trình nghiên cứu liên quan tới đề tài này:
Trong số các công trình nghiên cứu về dân chủ và các hình thức thực

hiện dân chủ ở nước ta trong những năm gần đây cần kể đến các bài viết
của GS.TS Nguyễn Phú Trọng, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, PGS.TS Trần
Quang Nhiếp, Nguyễn Văn Thảo; Phùng Văn Tửu, GS.TS Hoàng Chí Bảo,
GS.TS Hoàng Văn Hảo, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung và của các tác giả
khác trên Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu
lập pháp và các tạp chí chuyên ngành khác. Các bài viết đã đề cập ở cấp vĩ
mô hoặc chuyên sâu các vấn đề lý luận - thực tiễn của dân chủ và dân chủ
hóa trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay; về lịch sử, khái niệm, phạm trù, nội dung của dân chủ; xác lập
quan điểm, nguyên tắc và giải pháp thực hiện cơ chế thực hiện dân chủ ở
nước ta.
Tuy nhiên, liên quan nhiều hơn đến vấn đề của luận án là các công
trình nghiên cứu quan trọng và mang tính hệ thống cao như: Đề tài
khoa học với số đăng ký: 96-98-043/ĐT "Tổ chức thực hiện quyền lực
nhân dân và mối quan hệ giữa nhà nước và công dân" (Hà Nội, 2000
do TS. Đinh Văn Mậu Chủ nhiệm và TS. Phạm Hồng Thái làm Thư
ký); "Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn"(Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2001 của TS Nguyễn Tiến Phồn); "Các đoàn thể
5
nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay" (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003, Phan Xuân Sơn (chủ biên); "Quy chế thực hiện
dân chủ ở cấp xã- một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000, PGS.TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên); "Một
số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay" (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004, TS Đỗ Trung Hiếu) và nhiều công trình
khác của các tác giả và tập thể tác giả của Văn phòng Quốc hội, Viện
Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Trung tâm nghiên cứu
quyền con người - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh… Những
bài viết và đề tài nghiên cứu này chủ yếu đề cập nhiều đến những vấn
đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dân chủ, nội dung, cơ chế và phương

thức thực hiện dân chủ và sự phát triển của dân chủ trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; phân tích một cách bao quát mối
quan hệ giữa quyền lực nhà nước với thực hiện và phát huy quyền làm
chủ của công dân, đồng thời các tác giả cũng đưa ra những kiến nghị
liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
Các công trình nghiên cứu về Hội đồng nhân dân và vấn đề đổi mới tổ
chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân ở Việt Nam có thể dẫn chứng
những công trình sau:
- Đề tài cấp Bộ: "Phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà
nước của chính quyền địa phương - ví dụ trên một số lĩnh vực", do TS. Bùi
Đức Kháng làm chủ nhiệm, bảo vệ thành công năm 2002. Đề tài đã giải
quyết những nội dung sau: Căn cứ mối tương quan giữa chức năng chấp
hành và chức năng đại diện cộng đồng, các tác giả đưa ra hai mô hình tổ
chức chính quyền địa phương. Mô hình chính quyền địa phương thiên về
tản quyền với đặc trưng chức năng chấp hành nổi trội hơn chức năng đại
diện và mô hình chính quyền địa phương thiên về phân quyền với sự nổi
trội hơn của chức năng đại diện cộng đồng; các tác giả cũng rút ra kết
luận không thể có mẫu hình chung về phân công, phân cấp cho mọi cấp,
6
mọi ngành từ đó các tác giả đưa ra những giải pháp mang tính định
hướng chung để đẩy nhanh quá trình phân công, phân cấp quản lý hành
chính nhà nước.
- Đề tài cấp Bộ: "Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã và vấn đề
phát huy dân chủ cơ sở", do TS. Vũ Đức Đán làm chủ nhiệm, bảo vệ thành
công năm 2002. Đề tài gồm 3 chương. Trong đó vừa đưa ra các cơ sở lý
luận về chính quyền cấp xã, vừa khảo sát đánh giá thực trạng về tổ chức,
hoạt động từ đó nêu lên một số phương hướng nhằm hoàn thiện bộ máy
chính quyền cấp xã như: chú trọng kiện toàn tổ chức và hoạt động của
HĐND và UBND xã, củng cố vai trò của trưởng thôn, trưởng bản, quan
tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp xã; tăng cường dân

chủ cơ sở thông qua việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh
vực chính trị, kinh tế, tư tưởng và văn hoá - xã hội, chú trọng xây dựng các
thôn, làng tự quản.
- Đề tài cấp Bộ: "Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm xây
dựng mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá X" do PGS.TS Lê Thị Vân Hạnh làm
chủ nhiệm, bảo vệ thành công năm 2009. Đề tài gồm 3 chương hướng tới
giải quyết 03 vấn đề sau: Chương 1 nghiên cứu về cơ sở lý luận của việc
xây dựng mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo
Nghị quyết Trung ương 5 khoá X. Chương 2 của đề tài tập trung nghiên
cứu cơ sở thực tiễn của việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy chính
quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá X.
Chương 3 của đề tài các tác giả đã chỉ ra một số vấn đề đúc kết từ nghiên
cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa X. Kết quả nghiên cứu của đề tài
có giá trị cả về lý luận và thực tiễn là tài liệu tham khảo quý cho những nhà
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt
Nam hiện nay.
7
- Đề tài cấp Bộ: “ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức
và hoạt động của Hội đồng nhân dân địa phương” (góp phần sửa đổi chế
định Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp năm 1992) do GS.TS Thái Vĩnh
Thắng làm chủ nhiệm, bảo vệ thành công năm 2012. Đề tài là một công
trình công phu với gần 500 trang của tập thể các tác giả có uy tín và kinh
nghiệm trong nghiên cứu về Bộ máy nhà nước nói chung và HĐND nói
riêng. Đề tài gồm 4 chương hướng tới việc giải quyết những nội dung như
sau: Nghiên cứu vị trí, vai trò, chức năng của HĐND trong tổ chức chính
quyền địa phương giai đoạn xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước
pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế; Nghiên cứu phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND và cấp ủy đảng các cấp. Phân biệt

chức năng, nhiệm vụ của HĐND ở khu vực đô thị và HĐND ở khu vực
nông thôn. Việc phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương.
Những điều kiện cần thiết để đảm bảo HĐND địa phương hoạt động độc
lập, có hiệu lực, hiệu quả; Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động
của HĐND ở các nước lục địa Châu âu, Châu mỹ la tinh, Châu á, Đông
nam á; Nghiên cứu nhu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND ở
nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa; Nghiên cứu
phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động HĐND, cách
thức bầu cử HĐND ở nước ta hiện nay. Những kết quả nghiên cứu nói trên
là nguồn tư liệu quý giá để tác giả có thêm định hướng và cơ sở trong khi
thực hiện nội dung của luận án.
- Nguyễn Văn Yểu, GS.TS Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên) (2006),
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã nhìn nhận lại 20
năm đổi mới tư duy về Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; làm rõ những
luận điểm khoa học về nhà nước pháp quyền, về phát huy dân chủ, về mối
quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; về tổ chức
8
và phân công quyền lực nhà nước, về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- PGS.TS Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn sách bao gồm
các bài viết, các công trình đã công bố của tác giả trong suốt thời gian dài
theo sát quá trình cải cách bộ máy nhà nước. Cuốn sách được chia thành 3
phần: Phần I - Những vấn đề chung về đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà
nước; Phần II - Đổi mới, hoàn thiện các cơ quan nhà nước ở trung ương;
Phần III - Đổi mới chính quyền địa phương.
- GS.TSKH Đào Trí Úc (chủ biên) (2007), Mô hình tổ chức và hoạt

động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp,
Hà Nội. Đặc biệt trong phần III của cuốn sách, các tác giả đã tập trung
phân tích khái quát về thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở Việt Nam; nêu lên những nguyên tắc xác định mô hình tổng thể
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và đề xuất mô hình tổng
thể về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong Nhà nước
pháp quyền XHCN. Trong đó các tác giả đặc biệt quan tâm đến việc xác
định tính chất, vị thế của HĐND trong nhà nước pháp quyền. Theo các tác
giả, đã đến lúc phải thừa nhận tính chất tự quản của HĐND nhưng không
vì thế mà phủ nhận tính chất quyền lực của cơ quan này. Theo đó, HĐND
vẫn có vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa phương, lại vừa có vị trí
là cơ quan đại diện cho cộng đồng dân cư để quyết định những vấn đề của
địa phương và thực hiện thẩm quyền quản lý nhà nước.
- GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Phạm Hữu Nghị (đồng chủ biên)
(2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả, như:
GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Phạm Hữu Nghị, TS.Nguyễn Minh Đoan,
9
PGS.TS Bùi Xuân Đức, PGS.TS Nguyễn Như Phát, PGS.TS Lê Minh
Thông, TS. Nguyễn Thị Việt Hương, PGS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS
Dương Đăng Huệ, PGS.TS Hà Thị Mai Hiên… Hầu hết các bài viết tập
trung phân tích các yếu tố đảm bảo xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam như: định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền,
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong nhà nước pháp quyền, khắc phục
sự chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan Đảng và chính
quyền, vai trò của Nhà nước, quyền công dân, xã hội dân sự, phân cấp
quản lý, hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp… Trong đó PGS.TS Lê Minh
Thông đã tập trung phân tích làm rõ vai trò của phân cấp quản lý trong
việc đảm bảo thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, xác định rõ mối

quan hệ giữa trung ương và địa phương và khẳng định phân cấp là một xu
thế tất yếu, là cơ sở đảm bảo quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa
phương được thực hiện thống nhất và thông suốt.
- PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước là những con số
cộng giản đơn, Nxb Lao động, Hà Nội. Trong chương 5 của cuốn sách, tác
giả đã tập trung phân tích sâu mối quan hệ giữa trung ương và địa phương
dưới các giác độ phân quyền; phân tích các mô hình tổ chức chính quyền
địa phương của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam hiện nay, từ đó
tác giả khẳng định để chính quyền địa phương hoạt động thực sự hiệu lực,
hiệu quả thì cần tăng cường phân cấp rõ ràng cụ thể hơn và phải được cụ
thể hoá trong các văn bản pháp luật.
- PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung phân tích và làm rõ cơ sở lý luận,
đặc trưng của nhà nước pháp quyền; cơ sở hình thành quan điểm, tư tưởng
về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quá trình nhận thức về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ
đổi mới và đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đánh giá
10
thành tựu, hạn chế trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta;
đưa ra quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
- PGS.TS Lê Minh Thông (2011), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là kết quả nghiên
cứu công phu của tác giả qua thời gian dài theo sát công tác cải cách bộ
máy nhà nước. Là một nhà nghiên cứu luôn tâm huyết với quá trình cải
cách bộ máy nhà nước, tác giả đã cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu
phong phú với những luận điểm hết sức khoa học về vấn đề cải cách bộ
máy nhà nước trong đó có chính quyền địa phương ở Việt Nam. Đặc biệt

trong mỗi chương, tác giả đều dành những phần riêng cho nghiên cứu về
chính quyền địa phương, chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế của
chính quyền địa phương, xác định đổi mới chính quyền địa phương là tất
yếu. Tác giả cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong
giai đoạn hiện nay.
- PGS.TS Lê Minh Thông, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
và UBND các cấp, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/1999. Bài viết đã
nhấn mạnh đến vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ mối quan hệ quyền lực
giữa bộ máy nhà nước ở trung ương và bộ máy quyền lực nhà nước ở địa
phương. Tác giả khẳng định cần phải có các biện pháp bảo đảm để
HĐND có thực quyền, tránh tính hình thức của HĐND. Theo tác giả, để
HĐND có thực quyền, cần xem xét lại tính chất "quyền lực" của HĐND,
cần đổi mới cách nhìn nhận về tính chất vai trò của HĐND theo hướng
xem HĐND là cơ quan tự quản ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và trước cơ
quan nhà nước cấp trên.
11
- Trương Đắc Linh, Bàn về khái niệm chính quyền địa phương, Tạp
chí Khoa học pháp lý số 2/2001. Tác giả khẳng định, hiện nay vẫn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chính quyền địa phương, tuỳ theo
từng giác độ nghiên cứu nhất định mà có thể tiếp cận khái niệm chính quyền
địa phương theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Tác giả cho rằng, theo
nghĩa hẹp nếu quan niệm chính quyền địa phương chỉ bao gồm HĐND và
UBND là chưa đầy đủ. Bởi vậy, theo tác giả chính quyền địa phương ngoài
cơ cấu gồm HĐND và UBND còn có thêm các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND. Đây là cách tiếp cận khá mới, mở ra hướng nghiên cứu mới về chính
quyền địa phương.
- PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Tổ chức chính quyền địa phương của

Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát
triển, những bất cập và phương hướng đổi mới, Tạp chí Luật học số
4/2002. Bài viết đã khái quát về quá trình hình thành và phát triển của tổ
chức chính quyền địa phương ở Việt Nam từ khi thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà cho đến nay. Qua phân tích những ưu điểm và hạn chế
về tổ chức chính quyền địa phương qua mỗi thời kỳ, trên cơ sở đó bài viết
đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong tổ chức chính quyền địa phương
hiện nay và chỉ ra phương hướng để khắc phục những hạn chế, bất cập đó.
Trong đó, bài viết đã quan tâm đến việc phân biệt tổ chức chính quyền
giữa nông thôn và đô thị, cho rằng đó là vấn đề mang tính tất yếu không
thể không quan tâm trong việc tổ chức chính quyền địa phương trong giai
đoạn hiện nay.
- PGS.TS Bùi Xuân Đức, Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9/2002. Từ cách nhìn
nhận, đánh giá những bất cập trong thực trạng tổ chức bộ máy chính quyền
địa phương như: việc xác định tính chất của HĐND và UBND chưa thật sự
chính xác, cách thức tổ chức HĐND và UBND còn nhiều bất cập, cách thức
kiểm tra, giám sát của Nhà nước đối với chính quyền địa phương chưa hiệu
12
quả, không tận dụng được những ưu thế của cách thức tổ chức chính quyền
tự quản…, tác giả đã trình bày những quan điểm chung khi đổi mới mô hình
tổ chức chính quyền địa phương và đề xuất một số phương án đổi mới cụ thể.
Trong đó, tác giả đã nhấn mạnh đến sự đa dạng hoá các mô hình chính quyền
địa phương theo các cấp hành chính, thiết kế lại các mối quan hệ giữa các cơ
quan trong chính quyền địa phương và giữa cơ quan chính quyền địa phương
với cơ quan nhà nước cấp trên, khẳng định tính chất tự quản của chính quyền
địa phương.
Kết quả nghiên cứu trong các công trình trên đây là nguồn tư liệu
quý, đặt ra nội dung tiếp tục nghiên cứu về lý luận, thực trạng và giải pháp
đối với đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân

trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam”.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG, HOÀN
THIỆN NỀN DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM
2.1. Quan niệm về dân chủ và xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ ở Việt Nam
2.1.1. Nhận thức chung về dân chủ
Thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố
đó là nhân dân, quyền lực cộng đồng và mối quan hệ giữa chúng.
Bản thân thuật ngữ dân chủ ngày càng được hiểu và được sử dụng
theo nhiều nghĩa. Nếu sử dụng phương pháp logic để phân tích dân chủ thì
có thể thấy dân chủ hiện diện ở nhiều bình diện khác nhau: Dân chủ là một
dòng triết học, dân chủ là một chỉnh thể hiện thực, dân chủ là một hiện
thực chính trị, dân chủ là một hiện thực kinh tế, dân chủ là một hiện thực
xã hội và dân chủ là một trạng thái của hệ thống quan hệ quốc tế.
13
Nếu đi theo tiến trình lịch sử nhân loại thì dân chủ bao gồm các kiểu
hình sau: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ XHCN.
Tóm lại, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị nhân bản, duy lý và
cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp của các giá trị: tự do, bình đẳng, sự thống
nhất trong tính đa dạng. ở chiều cạnh này dân chủ được hiểu như một lý tưởng
mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong cuộc sống.
Trong khuôn khổ luận án này, tác giả chỉ xin đề cập đến vấn đề dân
chủ XHCN: đó là nền dân chủ ra đời từ khi thành lập chính quyền nhà nước
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thông qua cách mạng XHCN .
Bản chất của nền dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ:
Nền dân chủ XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân, là nền
dân chủ của đa số nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân.
Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhất

nguyên về chính trị.
Nền dân chủ XHCN được thực hiện bằng hệ thống tổ chức với tính
cách là một chế độ chính trị, trước hết được thực hiện chủ yếu bằng nhà
nước và thông qua nhà nước. Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của
cộng cuộc đổi mới đất nước.
2.1.2. Dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Trong xây dựng Nhà nước, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân
được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: Nhân dân xây dựng bộ
máy nhà nước và lựa chọn các đại biểu của mình; nhân dân tham gia các
công việc quản lý nhà nước; nhân dân tham gia đánh giá chính sách của
nhà nước; nhân dân đánh giá, nhận xét và chất vấn về hoạt động của các tổ
chức nhà nước; nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình; nhân
dân có quyền đòi hỏi các tổ chức, cơ quan nhà nước và các công chức, đặc
14
biệt là những người có chức, có quyền, có trọng trách do dân ủy thác phải
cung cấp thông tin kịp thời theo những quy định được ban hành cho dân
biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra.
Do đó, để phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
trong xây dựng nhà nước thì tất yếu phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa công dân với nhà nước, mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, giữa lợi
ích với trách nhiệm, giữa công chức, quan chức với dân chúng, giữa đại biểu
dân cử với cử tri. Những mối quan hệ này phải được thể chế hóa, phải được
luật pháp điều tiết với sự hỗ trợ, thúc đẩy mạnh mẽ của đạo đức, của văn hóa
đạo đức.
2.1.3. Hình thức và phương pháp thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước
Có các hình thức và phương pháp thực hiện quyền làm chủ của

người dân như sau: dân chủ trực tiếp: Người dân tự thực hiện quyền lực
của mình mà không cần qua trung gian hay đại diện. Có ba phương thức
thực hiện (Bầu cử, Trưng cầu dân ý và Bãi nhiệm đại biểu); Dân chủ
gián tiếp (Dân chủ đại diện): Người dân không tự thực hiện quyền lực
mà thông qua vai trò của một đại diện hay trung gian. Ở Việt Nam,
người dân thực hiện quyền dân chủ gián tiếp thông qua Quốc hội và
HĐND các cấp. Đây là những cơ quan do dân bầu, mang quyền lực của
nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Có ba
phương thức thực hiện dân chủ đại diện (Thông qua hoạt động của đại
biểu, Thông qua hoạt động của Quốc hội và HĐND và thông qua hoạt
động của các đoàn thể, tổ chức xã hội).
2.1.4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn
thiện nền dân chủ ở Việt Nam
Đảng ta đã khẳng định “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể
hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”.
15
Việc xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta phải được thể hiện
trên ba nội dung: Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên
và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân; Xác định các hình
thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; Đề cao trách nhiệm của các tổ
chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân. Bộ máy Nhà nước, các thể chế
khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong
quá trình xây dựng, họach định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng.
2.2. Hội đồng nhân dân - Thiết chế dân chủ ở địa phương
2.2.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân trong Bộ máy nhà nước
Điều 119 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và ủy ban
nhân dân (UBND) 2003 đều xác định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"
2.2.2. Đặc trưng cơ bản của Hội đồng nhân dân
Thứ nhất, HĐND là hình thức tổ chức quản lý nhà nước ở địa
phương theo lối mới, đối lập với cách tổ chức chính quyền địa phương
theo lối cai trị của các chế độ bóc lột.
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tức là
thuộc hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.
Thứ ba, với tính cách là cơ quan "tự chủ trong hoạt động" ở địa
phương, hoạt động của HĐND phải thông qua nhiều hình thức hoạt động:
kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và hoạt
động của đại biểu HĐND. Đó là một cơ cấu thống nhất. Hiệu quả hoạt
động của HĐND vì vậy được bảo đảm bằng hiệu quả các kỳ họp HĐND,
các Ban của HĐND và hiệu quả hoạt động của các đại biểu HĐND.
16
Thứ tư, HĐND và UBND đều phải chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước chính quyền cấp trên, với tính cách là cơ quan chính quyền địa
phương dù dưới hình thức nào đều là hoạt động chấp hành pháp luật của Nhà
nước và phải chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà
nước cấp trên, và chịu sự hướng dẫn, lãnh đạo thống nhất của Chính phủ.
Ngoài bốn đặc trưng trên, HĐND còn là cơ quan hoạt động bảo đảm
thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân.
2.2.3. Dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
Để chứng minh HĐND thực sự là một thiết chế bảo vệ quyền làm
chủ của nhân dân tại địa phương tác giả đã khái quát các nội dung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của tổ chức này như sau:
- Hội đồng nhân dân là tổ chức do nhân dân địa phương trực tiếp
bầu ra
- Hội đồng nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của địa

phương theo ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân
- Hội đồng nhân dân bãi miễn những người không xứng đáng trong
bộ máy nhà nước
- Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước ở địa phương
- Hội đồng nhân dân thực hiện nguyên tắc dân chủ, công khai, lắng
nghe ý kiến của nhân dân
- Hoạt động của Hội đồng nhân dân phải lấy lợi ích của dân làm
mục đích
2.3. Một số mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam
Từ một số mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
trên thế giới như mô hình phân quyền, mô hình kết hợp tản quyền với phân
quyền, mô hình tập quyền XHCN đã cho chúng ta những bài học kinh
nghiệm quý báu góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới tổ chức và
hoạt động HĐND ở nước ta hiện nay.
17
Tóm lại, Chương 2, tác giả luận án đã nghiên cứu những cơ sở lý luận của
đổi mới tổ chức và hoạt động HĐND ở nước ta hiện nay, đó là các vấn đề về
dân chủ, về vị trí, vai trò của HĐND với tư cách là thiết chế dân chủ ở địa
phương, về dân chủ trong tổ chức, hoạt động của HĐND, những vấn đề lý
luận về chính quyền địa phương ở một số thành phố tiên tiến trên thế giới. Tất
cả những nội dung lý luận đó nhằm chứng minh một điều rằng: Trong điều
kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt Nam việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của HĐND là một việc làm cần thiết vì đây là thiết chế đảm bảo
quyền làm chủ của người dân ở địa phương.
Chương 3
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của Hội đồng nhân dân ở

Việt Nam
3.1.1. Lịch sử xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân
Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức HĐND và Ủy ban hành
chính là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước ta nhằm thiết lập hệ thống
chính quyền địa phương, đã đặt nền móng cho tổ chức và hoạt động của
HĐND các cấp. Cùng với sự phát triển của từng giai đoạn cách mạng của
đất nước, với sự ra đời của các Hiến pháp và các văn bản pháp lý hướng
dẫn thi hành Hiến pháp liên quan trực tiếp đến HĐND đã phản ánh quá
trình xây dựng, đổi mới của HĐND trong Bộ máy nhà nước.
3.1.2. Chủ trương thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường và những bước đi cụ thể
Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường
là việc làm cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về hoàn thiện bộ
18
máy nhà nước, trong đó có tổ chức hợp lý chính quyền địa phương. Theo
đó, Nghị quyết số 17/NQ/TW ngày 1/8/2007, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa X) đã nêu rõ yêu cầu phải tiến hành
"Thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường". Ngày 15/11/2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết
số 26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường. Đến ngày 23/02/2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt kế hoạch triển khai Nghị quyết nói trên. Có nhiều văn bản thể hiện
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về việc thực
hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường nhằm tinh
gọn bộ máy chính quyền địa phương, khắc phục được vấn đề chồng chéo
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, phân định rõ chính quyền đô thị và
chính quyền nông thôn nhằm đảm bảo tính thông suốt và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
3.2. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân theo pháp luật

Việt Nam hiện hành
3.2.1. Tổ chức của Hội đồng nhân dân
Ở phần này tác giả đã căn cứ vào các quy định của pháp luật để phân
tích làm rõ tổ chức của HĐND ở từng cấp, qua đó so sánh đối chiếu với
từng giai đoạn phát triển của HĐND.
3.2.2. Hoạt động của Hội đồng nhân dân
HĐND các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua
việc triển khai các hoạt động của các bộ phận cấu thành, đó là: hoạt động
của Đại biểu HĐND, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt động của các
Ban của HĐND (Đối với HĐND cấp tỉnh và huyện). Các bộ phận trên hoạt
động thông qua các hình thức như Kỳ họp (hình thức chủ yếu và quan trọng
nhất), tổ chức giám sát (giám sát chuyên đề, giám sát đột xuất), tiếp xúc cử
tri (trước và sau mỗi kỳ họp), chất vấn; tiếp nhận đơn thư của công dân,
chuyển cho cơ quan chức năng và theo dõi quá trình giải quyết đơn thư …
19
Tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của HĐND từng cấp mà nội dung,
phạm vi hoạt động của HĐND nói chung, hoạt động của các bộ phận cấu
thành cũng có sự khác nhau. Tuy vậy, nhìn chung, HĐND các cấp đều
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua những phương thức
hoạt động nhất định như đã nói ở trên.
3.3. Ưu điểm và bất cập trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Ưu điểm và bất cập trong thực tiễn tổ chức Hội đồng nhân dân
Cùng với sự thành lập, phát triển và hoàn thiện bộ máy nhà nước và
mở rộng dân chủ nhân dân, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 là
kết quả đúc rút kinh nghiệm phát triển của HĐND và UBND qua các thời
kì. Cho đến nay mô hình tổ chức cơ quan nhà nước ở địa phương, trong
đó HĐND ở các đơn vị hành chính vẫn đang còn những tồn tại nhất định.
Việc tổ chức HĐND đủ ba cấp dẫn đến chồng chéo, trùng lặp về thẩm
quyền; không có sự tinh gọn, linh hoạt, đặc trưng của bộ máy HĐND

tương thích với đặc thù dân cư, kết cấu kinh tế - xã hội vùng miền cũng
như hoạt động còn dàn trải, cứng nhắc theo các cấp dẫn đến hiệu quả giải
quyết công việc không cao, không làm rõ được vai trò của một cơ quan
quyền lực, đại diện cho nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, HĐND còn có
những mặt chưa thực sự được cải thiện như (Cơ cấu đại biểu Hội đồng
nhân dân; Cơ cấu Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban của Hội
đồng nhân dân)
3.3.2. Ưu điểm và bất cập trong thực tiễn hoạt động của Hội đồng
nhân dân
Xuất phát từ quy định của pháp luật về việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ chủ yếu của HĐND tác giả đã khái quát những ưu điểm và chỉ ra
những bất cập trong thực tiễn hoạt động của HĐND trên các mặt cụ thể sau:
- Về việc quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương
- Về công tác giám sát của Hội đồng nhân dân
20
- Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp dân và bảo đảm việc thi hành pháp
luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân
- Một số hoạt động khác thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng nhân dân (Kì họp của HĐND; Mối quan hệ giữa Thường trực HĐND
với các cơ quan và tổ chức hữu quan)
Tóm lại, chương 3 luận án là kết quả nghiên cứu thực tiễn vận động
của HĐND ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, luận án đã chỉ ra những ưu
điểm và hạn chế của pháp luật cũng như cơ cấu tổ chức và hoạt động của
HĐND qua mỗi thời kỳ. Trên cơ sở đó, luận án đã tập trung làm rõ những
điểm tích cực cần được kế thừa đồng thời cũng chỉ ra những bất cập cần
phải khắc phục trong quá trình đổi mới ở Việt nam hiện nay. Qua phân
tích, so sánh mô hình tổ chức và thực tiễn vận động của HĐND trong lịch
sử cũng như hiện tại, có thể thấy bên cạnh những điểm hợp lý, tích cực
cũng phải thẳng thắn thừa nhận những điểm bất cập, hạn chế đang ngày
càng thể hiện rõ nét. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu và đòi hỏi của

nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ phải tiếp tục nghiên cứu và
làm rõ những cơ sở khoa học để đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
phù hợp với yêu cầu đổi mới.
Chương 4
NHU CẦU, QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY
DỰNG, HOÀN THIỆN NỀN DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Nhu cầu khách quan đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở
Việt Nam hiện nay
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND phải xuất phát từ
những nhu cầu khách quan như sau:
21
Thứ nhất, yêu cầu của sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và
sự chuyển tiếp từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp theo hướng
hiện đại
Thứ hai, yêu cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
Thứ ba, yêu cầu xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tăng cường kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội ở cơ sở
Thứ tư, xuất phát từ chính những tồn tại, hạn chế trong tổ chức, hoạt
động của Hội đồng nhân dân
Thứ năm, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức
hợp lý chính quyền địa phương ở nước ta
4.2. Các quan điểm đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng
nhân dân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay
1. Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với Hội đồng nhân dân
2. Bảo đảm đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân phải
thực hiện đồng bộ với việc cải cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp

3. Bảo đảm đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội đồng nhân dân phải
gắn với quá trình hoàn thiện pháp luật về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân
4.3. Các giải pháp bảo đảm đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội
đồng nhân dân trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ ở
Việt Nam hiện nay
4.3.1. Nhóm các giải pháp cơ bản
1. Giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của thường
trực, các ban Hội đồng nhân dân
2. Giải pháp nâng cao chất lượng kỳ họp, chất lượng giám sát của
Hội đồng nhân dân
3. Giải pháp bảo đảm cơ cấu, nâng cao chất lượng, kỹ năng hoạt
động của đại biểu
22
4.3.2. Nhóm các giải pháp cấp bách
1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với Hội đồng
nhân dân
3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ
ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tóm lại, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã phân tích ở các chương
trước của luận án, tôi mạnh dạn nêu ra các quan điểm, định hướng đồng
thời đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND
trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ ở nước ta hiện nay góp
phần thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo tinh thần mà
Đảng và Nhà nước ta đã xác định.
KẾT LUẬN
Đổi mới tổ chức, hoạt động của HĐND trong điều kiện xây dựng,
hoàn thiện nền dân chủ đất nước hiện nay là một nhu cầu cấp thiết và cũng
đòi hỏi phải trải qua quá trình lâu dài, đúng đắn. Những vấn đề được đưa

ra ở trên có ý nghĩa trong việc hoàn thiện HĐND trong giai đoạn hiện nay
và tạo tiền đề hoàn thiện các cơ quan nhà nước trong đó có HĐND trong
NNPQ XHCN Việt Nam. Một cơ quan dân cử ở địa phương có sức
mạnh của một cơ quan quyền lực và thực sự đại diện cho mọi tầng lớp
nhân dân địa phương hoàn toàn tự chủ, độc lập ở địa phương trên cơ sở
có một hệ thống pháp luật đồng bộ, vững chắc. Vì vậy, đổi mới HĐND
trong điều kiện hiện nay phù hợp với yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước,
góp phần làm cho HĐND - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
mang một tầm vóc mới có đủ khả năng, điều kiện tổ chức và hoạt động tự
chủ, thực quyền.
Để giải quyết các vấn đề này, đã có nhiều quan điểm, giải pháp nhằm
đổi mới tổ chức bộ máy và hoạt động của HĐND đã được đề xuất. Nhiều
23
công trình khoa học đã có những nghiên cứu công phu nhằm tìm cách tháo
gỡ những vướng mắc, bất cập về tổ chức và hoạt động của HĐND. Nhưng
tất cả các giải pháp, đề xuất, kiến nghị nêu ra chưa được áp dụng nhiều vào
thực tiễn. Bởi việc thay đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
bộ máy chính quyền nhà nước trong đó có HĐND là vấn đề phức tạp, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống chính trị - xã hội của quốc gia. Vì vậy, cần có
sự nghiên cứu công phu, bài bản và thực sự khoa học cũng như phải có các
bước đi thích hợp để tiến tới thay đổi căn bản toàn diện.
Với mong muốn góp phần vào sự thành công trong công cuộc đổi
mới đất nước, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đề tài đã tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của HĐND phù hợp với điều kiện đổi mới đất nước.
Đây là một vấn đề tương đối rộng, có tính phức tạp cả về lý luận và thực
tiễn. Vì vậy, với thời gian có hạn và khả năng nghiên cứu của nghiên
cứu sinh còn hạn chế, chắc chắn luận án còn nhiều thiếu sót. Những giải
pháp, kiến nghị mà chúng tôi đã nêu ra trong luận án cũng chỉ mang tính

định hướng, gợi mở cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn và có sự kiểm
nghiệm thực tế trước khi có thể áp dụng vào thực tiễn. Rất mong nhận
được sự góp ý của các nhà khoa học và những người quan tâm.
24

×