Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

nghiên cứu hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 58 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình học tập cũng nhƣ thực hiện đề tài này, em đã đƣợc
gia đình, bạn bè tận tình giúp đỡ. Bên cạnh đó nhà trƣờng đã tạo điều kiện cũng
nhƣ quý thầy cô đã tận tình dạy bảo, hƣớng dẫn.
Em xin trân thành gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban giám hiệu trƣờng
Đại học Tây Bắc, ban chủ nhiệm khoa và các thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa
cùng các phòng ban chức năng, thƣ viện nhà trƣờng đã giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu.
Và biết ơn sâu sắc đến thầy giáo, Th.S Nguyễn Văn Minh đã tận tình
giúp đỡ trong việc chọn đề tài cũng nhƣ tìm tài liệu phục vụ cho việc hoàn thành
khóa luận.
Trong quá trình thực hiện đề tài bản thân em đã hết sức cố gắng, nỗ lực để
đạt đƣợc kết quả cao nhất. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, kính mong sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn để khóa luận thêm đầy đủ và hoàn chỉnh
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


Ngƣời thực hiện

Lƣu Văn Sinh




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HĐTNKT : Hệ địa tự nhiên kĩ thuật
TP : Thành phố
Tx : Thị xã


UBND : Ủy ban nhân dân













DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢNG BIỂU
HÌNH ẢNH
STT
Số hình
Tên hình
Trang
1
Hình 3.1
Xói lở bờ biển Tx Sầm Sơn

23
2
Hình 3.2
Bãi bồi mới đƣợc hình thành

27

3
Hình 3.3
Đê biển xã Quảng Cƣ bị phá hủy sau bão

28
4
Hình 3.4
Các tác nhân xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông

32
5
Hình 3.5
Hội chữ thập đỏ kiểm tra rừng ngập mặn huyện
Nga Sơn

42
6
Hình 3.6
Đoạn đê biển mới đƣợc xây dựng tại huyện
Tĩnh Gia

43


BẢNG BIỂU
STT
Số bảng
Tên Bảng
Trang
1

Bảng 3.1
Xói lở bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa

24
2
Bảng 3.2
Diện tích bồi tụ - xói lở khu vực ven biển tỉnh
Thanh Hóa

30

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
5. Giới hạn của đề tài 2
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
6.1. Trên Thế Giới 2
6.2. Ở Việt Nam 3
7. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
7.1. Phƣơng pháp tổng hợp và phân tích tài liệu 4
7.2. Phƣơng pháp bản đồ, biểu đồ 5
7.3. Phƣơng pháp thực địa 5
7.4. Phƣơng pháp phân tích hệ thống 5
8. Đóng góp của đề tài 6
9. Cấu trúc đề tài 6
PHẦN NỘI DUNG 7
CHƢƠNG I: CƠ SƠ

̉
LY
́
LUÂ
̣
N VA
̀
THƢ
̣
C TIÊ
̃
N 7
1.1. Cơ sở lí luận 7
1.1.1. Quan niệm về bờ biển, cửa sông 7
1.1.2. Đặc điểm của đới ven biển, cửa sông 8
1.1.2.1. Tính chất 8
1.1.2.2. Sự tƣơng tác trong địa hệ 9
1.2. Cơ sở thực tiễn 9
1.2.1. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông trên thế giới 9
1.2.2. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông ở Việt Nam 10
1.2.3. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông ở Bắc Trung Bộ 11

CHƢƠNG II: HOÀN CẢNH VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ
HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN XÓI LỞ - BỒI TỤ BỜ BIỂN, CỬA SÔNG TỈNH
THANH HÓA 13
2.1. Hoàn cảnh tự nhiên 13
2.1.1. Vị trí địa lí 13
2.1.2. Địa hình, địa chất 15
2.1.3. Khí hậu 17
2.1.4. Thủy văn 17

2.1.5. Đất đai 19
2.1.6. Sinh vật 20
2.2. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội 20
2.2.1. Dân cƣ 20
2.2.2. Kinh tế 21
CHƢƠNG III: HIỆN TRẠNG XÓI LỞ - BỒI TỤ BỜ BIỂN, CỬA SÔNG
TỈNH THANH HÓA 24
3.1. Hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông 24
3.1.1. Tình hình xói lở - bồi tụ 24
3.1.1.1. Nga Sơn 27
3.1.2.2. Hậu Lộc 27
3.1.1.4. Sầm Sơn 29
3.1.1.5. Quảng Xƣơng 30
3.1.1.6. Tĩnh Gia 30
3.1.2. Tƣơng quan về xói lở và bồi tụ 31
3.2. Nguyên nhân xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông 32
3.2.1. Yếu tố tự nhiên 33
3.2.1.1. Cấu tạo vùng bờ, hƣớng bờ 33
3.2.1.2. Sóng 34
3.2.1.3. Gió 35
3.2.1.4. Dòng chảy 36
3.2.1.5. Dao động mực nƣớc 36
3.2.1.6. Sự phân bố không đều nguồn bồi tích 37
3.2.2. Tác động của con ngƣời 37
3.2.2.1. Mở rộng khu đô thị, khu dân cƣ 37
3.2.2.2. Xây dựng khu nuôi trồng thủy hải sản 38
3.2.2.3. Quai đê lấn biển, khai hoang nông nghiệp 38
3.2.2.4. Xây dựng các khu công nghiệp và du lịch 40
3.2.2.5. Khai thác khoáng sản ven biển 40
3.2.2.6. Công trình giao thông - thủy lợi 40

3.3. Giải pháp phòng tránh hiện tƣợng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông 41
3.3.1. Giải pháp công trình 41
3.3.2. Giải pháp phi công trình 43
KẾT LUẬN 46











1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thiên nhiên đã dành cho nƣớc ta một ƣu đãi rất lớn về biển, với đƣờng bờ
biển dài hơn 3260 km và gần 4000 hòn đảo lớn nhỏ đã đƣa nƣớc ta trở thành
nƣớc có tiềm năng về kinh tế biển. Vùng ven biển nƣớc ta có nhiều cửa sông đổ
ra biển, trung bình cứ 20 km lại có một cửa sông mang theo một nguồn dinh
dƣỡng khổng lồ từ trong lục địa nên nguồn lợi thủy hải sản phú và đa dạng với
nhiều loài quý hiếm có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó do địa hình bị chia cắt
mạnh với những dãy núi chạy sát ra tận biển đã tạo cho bờ biển nƣớc ta có nhiều
danh lam thắng cảnh đẹp với những bãi cát dài, phong cảnh sơn thủy hữu tình là
điều kiện lí tƣởng cho du lịch dƣỡng nghỉ mát. Tuy nhiên bên cạnh những tiềm
năng to lớn mà thiên nhiên ban tặng đó, hàng năm vùng ven biển nƣớc ta luôn
phải hứng chịu nhiều thiên tai nhƣ bão, áp thấp nhiệt đới, gió mùa, triều cƣờng,
nƣớc dâng gây xói lở bờ, bồi lấp cửa sông, phá hủy nhiều công trình dân sinh,

kinh tế ven bờ, phá vỡ cấu trúc hệ sinh tái ven biển, gây không ít khó khăn cho
các hoạt động sản xuất, an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế đất nƣớc và đời
sống của những ngƣời dân ven biển.
Thanh Hóa là một tỉnh ven biển thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, với đƣờng
bờ biển kéo dài 102 km. Trải qua nhiều dạng địa hình và cấu tạo đất đá khác
nhau, dƣới sự tác động mạnh mẽ của các quá trình động lực học sông - biển đã
làm cho khu vực ven biển tỉnh Thanh Hóa chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của hiện
tƣợng xói lở và bồi tụ. Những năm gần đây, các hiện tƣợng thời tiết cực đoan
xảy ra ngày càng phổ biến với xu hƣớng ngày càng gia tăng về cả tần xuất và cả
cƣờng độ, cùng với việc khai thác tài nguyên của con ngƣời trên các lƣu vực
sông tăng mạnh nên hiện tƣợng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông ở ven biển tỉnh
Thanh Hóa đang diễn biến rất phức tạp.
Xuất phát từ thực trạng xói lở - bồi tụ ở ven biển tỉnh Thanh Hóa, phân
tích những nguyên nhân, tác động để từ đó đề ra phƣơng hƣớng giải quyết có


2
hiệu quả và tối ƣu nhất, tôi đã lựa chọn đề tài: "Nghiên cứu hiện trạng xói lở -
bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa" làm khóa luận nghiên cứu cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh thanh Hóa. Đó
là cơ sở cho mọi hoạt động dự báo, phòng tránh các tai biến địa chất liên quan.
Đồng thời phát hiện, nắm đƣợc những quy luật thành tạo địa chất khu vực ven
biển, cửa sông để khai thác và sử dụng hợp lí hơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa.
Các quá trình địa chất kiến tạo tác động đến bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh
Hóa.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cấu trúc địa chất, địa mạo, địa hình, thảm thực vật, hiện trạng

khai thác sử dụng rừng, khoáng sản, đặc điểm thủy văn biển của tỉnh Thanh Hóa
và tác động của chúng đến quá trình xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông.
Nghiên cứu hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa từ
đó đề xuất các giải pháp quản lí và bảo vệ đới ven biển, phòng tránh giảm thiểu
các tai biến xói lở - bồi tụ khu vực này.
5. Giới hạn của đề tài
Nội dung: Đề tài nghiên cứu hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông
tỉnh Thanh Hóa.
Không gian: Chủ yếu nghiên cứu trong phạm vi các huyện: Nga Sơn, Hậu
Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xƣơng, Tĩnh Gia và Tx Sầm Sơn, đặc biệt là các đoạn
bờ biển, cửa sông bị xói lở - bồi tụ diễn ra mạnh mẽ tại khu vực ven biển tỉnh
Thanh Hóa.
Thời gian: Đề tài còn nhiều hạn chế nhất định, nên chỉ đề cập tới các quá
trình địa chất hiện nay tác động đến bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6.1. Trên Thế Giới


3
Các công trình nghiên cứu về xói lở và bồi tụ bờ biển, cửa sông đã đƣợc
xuất bản trên các tạp chí định kì nhƣ: Jourual of coastal research (CERF - Mỹ),
Natural disaster (Nhật), Proceeding của các hội thảo (University of Tokio press),
Coastal Enginearing (Mỹ), Bordomer (Pháp). Trong nhiều chƣơng trình dự án
quốc tế, vấn đề xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông đƣợc coi là trọng tâm của
chƣơng trình Land Ocean Interactions in the coastal zone (LOCZ), chƣơng trình
LOCZ - nghiên cứu tƣơng tác giữa đại dƣơng và lục địa ở dải ven biển, chƣơng
trình đối sánh đại chất quốc tế (IGCP), ở khu vực (WESTPAC), chƣơng trình
APN hiện nay các nƣớc Đông Nam Á đang phối hợp xây dựng mạng lƣới
quan trắc và từng bƣớc triển khai dự án EA LOICZ trong đó quá trình xói lở -
bồi tụ bờ biển là một trong những nội dung luôn đƣợc ƣu tiên.

Ở nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt là Mỹ, Anh, Liên Xô (cũ), Pháp, Hà
Lan, Bungari, Nhật đã khá thành công trong việc sử dụng các giải pháp kĩ
thuật để bảo vệ bờ biển, cửa sông chống xói lở và bồi tụ. song do điều kiện tự
nhiên và kinh tế khác nhau, nên việc áp dụng các thành quả của các nƣớc trên
thế giới vào Việt Nam cũng còn nhiều hạn chế và khó khăn.
6.2. Ở Việt Nam
Vùng ven biển, cửa sông nƣớc ta có vị trí địa lí đặc biệt, đa dạng và phong
phú về tài nguyên, là nơi tập trung dân cƣ (chỉ tính riêng các huyện ven biển đã
chiếm 24% số dân của cả nƣớc), các công trình dân sinh kinh tế, quốc phòng
quan trọng.
Xói lở bờ biển, cửa sông là dạng thiên tai nặng nề xảy ra ở cả 28 tỉnh
duyên hải ven biển nƣớc ta, diễn biến hết sức phức tạp gây thiệt hại lớn về ngƣời
và của, để lại hậu quả lâu dài về kinh tế - xã hội và môi trƣờng sinh thái. Hàng
năm nhà nƣớc phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để khắc phục, phòng chống, cứu
hộ.
Bồi tụ bờ biển, cửa sông thành tạo nên các bãi bồi quý giá cho nhiều vùng
song nhiều nơi cũng trở thành tai biến nghiêm trọng, gây sa bồi luồng tàu, bến
cảng, bồi lấp cửa sông làm giảm khả năng thoát lũ, gây ngập lụt trên diện rộng,
ngọt hóa các đầm phá, vũng vịnh


4
Nhận thức rõ tính bức xúc và tầm quan trọng của vấn đề xói lở, bồi tụ bờ
biển - cửa sông. Nhà nƣớc và một số địa phƣơng đã cho triển khai một loạt các
chƣơng trình đề tài, đề án nhằm điều tra, xác định hiện trạng xói lở - bồi tụ, theo
dõi diễn biến các vùng trọng điểm, xây dựng các luận cứ khoa học cho các giải
pháp phòng chống khắc phục. Trong đó có thể nói tới các công trình nghiên cứu
nhƣ: Dự án độc lập cấp nhà nƣớc KHCN - 5A (2000), "Nghiên cứu dự báo,
phòng chống sụt lở bờ biển Bắc Bộ từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa" đƣợc phân
viện hải dƣơng học Hải Phòng tiến hành, "Hiện trạng và dự báo sự biến động bờ

biển và các cửa sông ven biển Việt Nam" của các tác giả Trịnh Thế Hiếu, Lê
Phƣớc Trình, Tô Quang Thịnh (2005), "Nghiên cứu sự hình thành và biến đổi
quá trình bồi tụ - xói lở ở đới ven biển Thái Bình - Nam Định" (2007) của tác
giả Đỗ Thị Minh Đức hay "Đánh giá hiện trạng bồi - xói và đề xuất sử dụng khu
vực Tây Nam bán đảo Đồ Sơn" (2008) của Đinh Văn Huy. Ngoài ra còn có một
số công trình sử dụng công nghệ viễn thám nghiên cứu tai biến xói lở - bồi tụ
nhƣ một số nghiên cứu của Phạm Văn Cự (1996), Phạm Quang Sơn (1997,
2004)
Các chƣơng trình, đề tài, đề án nghiên cứu này đã thu đƣợc nhiều kết quả
có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn góp phần không nhỏ vào việc giảm thiểu
tai biến xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông. Song do hạn chế về mục tiêu, nội dung
và kinh phí cũng nhƣ thiết bị nghiên cứu nên sự gắn kết giữa các vùng còn hạn
chế, nhiều vấn đề về quy luật về diễn biến bờ biển, cửa sông, cơ chế xói lở bồi tụ
vẫn chƣa đƣợc giải quyết thỏa đáng, nhiều giải pháp công trình đƣợc đƣa ra còn
mang nặng tính cục bộ, địa phƣơng đặc biệt đối với các đoạn bờ biển, cửa
sông tỉnh Thanh Hóa - một trong những nơi phải hứng chịu nhiều thiên tai nhất
của khu vực Bắc Trung Bộ.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Là phƣơng pháp đƣợc sử dụng ở những bƣớc đầu tiên của quá trình nghiên
cứu khoa học, đây còn là bƣớc đƣợc đánh giá nhằm mục đích khái quát chung
về quá trình nghiên cứu, nguồn tài liệu thu thập dƣợc sẽ là cơ sở giúp cho ngƣời


5
thực hiện xác định đƣợc những định hƣớng nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và
các phƣơng pháp nghiên cứu cho phù hợp.
7.2. Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Trong quá trình nghiên cứu địa lí tự nhiên không thể thiếu nguồn tài liệu là
bản đồ và biểu đồ. Các loại bản đồ, biểu đồ có liên quan nhƣ: Bản đồ địa lí tự

nhiên Việt Nam, Bản đồ hành chính việt nam, bản đồ tự nhiên Bắc Trung Bộ
Việc nghiên cứu bản đồ, biểu đồ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
tƣ duy logic, trực quan khoa học hơn, tăng sức thuyết phục và giá trị cho đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng các bản đồ để đối chiếu, so sánh tìm
ra không gian, vị trí rồi phân tích hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh
Thanh Hóa.
7.3. Phương pháp thực địa
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phổ biến trong hầu hết các công trình
nghiên cứu khoa học, vì nó giúp thị sát tình hình thực tế, có cái nhìn khách quan
trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời bổ sung đƣợc những nội dung, những
thông tin mà các nghiên cứu trên tài liệu có thể chƣa phản ánh đƣợc hết và kiểm
chứng những kết quả đó.
Công tác ghi chép, mô tả cá đoạn bờ biển, cửa sông khu vực ven biển, cửa
sông tỉnh Thanh Hóa luôn đƣợc tiến hành, từ đó giúp chúng ta hiểu biết hơn
trong thực tế, tạo khả năng vận dụng nhanh chóng kết quả nghiên cứu vào thực
tiễn. Vì vậy phƣơng pháp này ngày càng đƣợc chú trọng nhằm đạt kết quả
nghiên cứu cao nhất.
Khi nghiên cứu vấn đề này tôi đã may mắn đƣợc đi thực địa tại các tỉnh
ven biển miền Trung trong chuyến đi thực địa học phần địa lý kinh tế xã hội của
lớp K51- ĐHSP Địa Lý, năm học 2013-2014. Thời gian và điều kiện cho chuyến
đi còn nhiều hạn chế nhƣng chuyến đi vẫn có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
7.4. Phương pháp phân tích hệ thống
Phƣơng pháp phân tích hệ thống là phƣơng pháp khoa học giúp xử lí những
vấn đề phức tạp, những vấn đề tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ, ràng buộc. Nó
đƣợc vận dụng trong những trƣờng hợp khi có nhiều mối quan hệ phải nghiên


6
cứu, nhiều đối tƣợng phải xem xét, nhiều yếu tố bất định phải tính đến, nhiều
phƣơng án cần cân nhắc, so sánh, lựa chọn trong khi lƣợng thông tin có thể

không đầy đủ nhƣ mong muốn. phƣơng pháp phân tích hệ thống thƣờng rất phù
hợp để nghiên cứu quá trình xói lở - bồi tụ.
8. Đóng góp của đề tài
Thanh Hóa đƣợc đánh giá là một trong những tỉnh xảy ra hiện tƣợng xói
lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông mạnh mẽ nhất cả nƣớc. Do đó, việc nghiên cứu các
biến động của đới ven biển, bờ biển, cửa sông có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Từ kết quả nghiên cứu chúng ta có thể xác định đƣợc các tiềm năng, thế mạnh
và nguy cơ tiềm ẩn của các biến động địa chất, địa mạo. Đây là mối quan tâm
hàng đầu của khu vực nhằm quản lý hiệu quả hơn các vùng bờ biển, cửa sông và
hƣớng tới phát triển bền vững kinh tế - xã hội - môi trƣờng.
Ngoài ra đề tài còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên nói chung và sinh
viên ngành địa lý nói riêng, để sau này vận dụng vào công tác giảng dạy ở phần
địa lý tự nhiên Việt Nam và địa lý khu vực Bắc Trung Bộ.
9. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài còn có phần nội dung gồm 3 chƣơng:
Chƣơng I: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng II: Hoàn cảnh về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tác động đến xói
lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa
Chƣơng III: Hiện trạng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông tỉnh Thanh Hóa







7
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: CƠ SƠ
̉

LY
́
LUÂ
̣
N VA
̀
THƢ
̣
C TIÊ
̃
N
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Quan niệm về bờ biển, cửa sông
Hiện nay có khá nhiều quan niệm về không gian phân bố của vùng tiếp
giáp giữa đất liền và biển dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau nhƣ phạm vi ảnh
hƣởng của thủy triều, ranh giới xâm nhập mặn, thềm lục địa, giới hạn của vùng
nƣớc đục, nƣớc trong của biển làm ranh giới ven bờ.
Trên quan điểm tổng hợp và hệ thống, V.I. Lymarev đã định nghĩa "Khu
bờ hay còn gọi là đới tƣơng tác hiện tại giữa lục địa và biển là một dải tiếp giáp
đất - biển không rộng lắm có bản chất độc đáo, tạo nên một lớp vỏ cảnh quan
của Trái Đất và là nơi xảy ra mối tác động tƣơng hỗ rất phức tạp và đối lập giữa
thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển" còn "cửa sông là nơi các con
sông đổ ra biển hoặc hồ chứa tạo nên sự chuyển tiếp giữa môi trƣờng cửa sông
và môi trƣờng của biển và cả hai đều có khả năng ảnh hƣởng đến các thành phần
của biển nhƣ thủy triều, sóng và độ mặn của nƣớc".
Bản chất của sự phát sinh, phát triển của bất kì một quá trình nào trong tự
nhiên đều là sự vận động nhằm giải quyết mâu thuẫn nội tại trong mối quan hệ
giữa các quyển của Trái Đất: thạch quyển, thủy quyển, khí quyển và sinh quyển
cùng với các hoạt động của con ngƣời. Sự tƣơng tác giữa các đối tƣợng nhân tạo
và các bộ phận thuộc các quyển đòi hỏi phải xem xét chúng trong một hệ thống.

Một hệ thống gồm các đối tƣợng nhân tạo và các hợp phần thuộc địa quyển hợp
thành một thể thống nhất gọi là địa hệ tự nhiên kĩ thuật (ĐHTNKT). Các tƣơng
tác trong ĐHTNKT làm cho thành phần, trạng thái và tính chất của môi trƣờng
tự nhiên bị biến đổi do hoạt động của con ngƣời.
Cũng nhƣ các quá trình khác trong tự nhiên, quá trình xói lở - bồi tụ bờ
biển, cửa sông là kết quả tƣơng tác bên trong của hệ thống, là kết quả vận động
của ĐHTNKT. Cấu trúc hệ địa này bao gồm các hợp phần tự nhiên là các quyển
của Trái Đất nhƣ: cấu trúc địa chất, tân kiến tạo, chế độ thủy, hải văn và hợp


8
phần kĩ thật chủ yếu là các hoạt động của con ngƣời. Không gian đới ven biển
chính là đới tƣơng tác các hợp phần trong địa hệ. Những tƣơng tác trực tiếp
quyết định sự phát sinh, phát triển của quá trình là tƣơng tác giữa thủy quyển và
thạch quyển. Biểu hiện cụ thể của sự tƣơng tác thủy - thạch đó là tác động sóng,
gió thủy triều, nƣớc dâng do bão đến đất đá, địa hình thềm bờ. Ranh giới này
xảy ra sự tƣơng tác đƣợc xác lập thông qua độ sâu tƣơng tác đối với hoạt động
của sóng, gió, nƣớc dâng do bão, thủy triều.
Trong nghiên cứu xói lở - bồi tụ, độ sâu về phía biển thƣờng đƣợc xác định
dựa trên tác động động học của sóng tới đáy biển còn về phía lục địa, thƣờng
đƣợc lấy tại vùng sóng lên cao cực đại hàng năm. Tuy nhiên phạm vi xảy ra sự
tƣơng tác và sự phân bố của các yếu tố cấu thành hợp phần tƣơng tác thƣờng
không trùng nhau, đặc biệt đối với một khu vực nhạy cảm, dễ biến động nhƣ đới
ven biển, cửa sông. Không gian phân bố các yếu tố cấu thành hợp phần tƣơng
tác thƣờng rộng hơn gấp nhiều lần so với đới tƣơng tác giữa chúng. Rất nhiều
tác động chỉ xảy ra ở đới ven biển nhƣng đó là kết quả tƣơng tác của nhiều yếu
tố khác nhau trên toàn bộ lƣu vực sông nhƣ: địa hình - địa mạo, dòng chảy sông
ngòi, dòng bùn cát, lớp phủ thực vật và các hoạt động kinh tế của con ngƣời
nhƣ: khai thác rừng, canh tác trên đất dốc, xây dựng các công trình điều tiết trên
thƣợng nguồn Do đó phạm vi nghiên cứu của một số yếu tố tự nhiên, kĩ thuật

của hợp phần trong địa hệ không chỉ bó hẹp trong đới ven biển mà còn mang
tính chất khu vực rộng lớn hơn rất nhiều.
1.1.2. Đặc điểm của đới ven biển, cửa sông
1.1.2.1. Tính chất
Tính đa dạng: Địa hệ đới ven biển luôn xảy ra sự tƣơng tác phức tạp, đầy
đủ giữa các quyển của Trái Đất: thạch quyển, thủy quyển, khí quyển, thổ
nhƣỡng quyển và sinh quyển.
Tính nhạy cảm cao: Địa hệ đới ven biển luôn biến đổi, vận động do sự thay
đổi của các hợp phần, thậm chí chỉ một hợp phần hoặc do trao đổi, tác động của
yếu tố bên ngoài hệ thống.


9
Tính tự điều chỉnh, thích ứng nhanh: nhằm thiết lập một cơ chế cân bằng
mới, mỗi khi có sự thay đổi của cá hợp phần trong địa hệ.
1.1.2.2. Sự tương tác trong địa hệ
Tƣơng tác trực tiếp quyết định động thái của địa hệ và sự phát sinh, phát
triển của hoạt động xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông không phải là sự tƣơng tác
giữa hai hợp phần tự nhiên và kĩ thuật nhƣ là ĐHTNKT thông thƣờng khác, mà
giữa hai quyển chính trong hợp phần tự nhiên, đó là thạch quyển và thủy quyển.
chẳng hạn nhƣ khi xây dựng các công trình trên đới bờ, có thể làm thay đổi chế
độ thủy động lực, gây xói lở - bồi tụ trên các hoạt động của sóng, trong trƣờng
hợp này tác động trực tiếp của các giải pháp công trình đến thạch quyển nhƣ quá
trình nén chặt đất đá dƣới móng công trình đê biển có tác động không đáng kể
đến độ ổn định chung của khu vực.
Tƣơng tác các hợp phần trong địa hệ đều là tƣơng tác đa chiều, có mối
liên hệ nhân quả và chịu tác động tƣơng hỗ lẫn nhau.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông trên thế giới
Biến động bờ biển tự nhiên bao gồm xói lở bãi cũng nhƣ vùng đất ven biển

và tích tụ trầm tích để tạo ra một vùng đất mới là hiện tƣợng tự nhiên trong quá
trình tiến hóa vùng bờ biển, cửa sông. Nó xảy ra sau những thay đổi về mực
nƣớc biển tƣơng đối, khí hậu và các nhân tố khác trên những quy mô về không
gian và thời gian khác nhau, từ các sự kiện theo thời gian địa chất đến các hiện
tƣợng cực đoan trong khoảng thời gian ngắn. Nó cũng có thể tăng lên bởi các
hoạt động của con ngƣời hoặc là ngay tại bờ, hoặc trên các lƣu vực sông, đặc
biệt trên các lƣu vực sông lớn, vốn có nguồn cung cấp một lƣợng trầm tích to
lớn cho bờ biển nhƣ sông Amazon, sông Nil, sông Hoàng Hà, sông Trƣờng
Giang, sông Mê Kông, sông Hồng ở Việt Nam
Từ thời xa xƣa, trƣớc những biến động của tai biến xói lở và bồi tụ bờ
biển, cửa sông con ngƣời đã biết tổ chức ngăn dòng để xây dựng các công trình
ở vùng triều để phục vụ nông nghiệp, thoát lũ, hạn chế úng ngập nhƣ ngƣời Hy
Lạp xây dựng công trình bảo vệ thành Babilon cổ kính, ngƣời Hà Lan xây dựng


10
nhiều đập bờ bảo vệ làng mạc, thành phố để tránh ngập lụt từ phía biển, mà sau
này trong tên nhiều thành phố lớn có thêm từ "Dams" (đập) nhƣ Amsterdam,
Rotterdam đặc biệt là vào năm 1932 Hà Lan bắt đầu thực hiện dự án zuiderzee
ở phía Bắc với 32 km để cắt biển và ngăn dòng, chia thành 5 vùng nhỏ để cải tạo
đất nông nghiệp và một hồ chứa để phục vụ du lịch, từ đó các quốc gia khác nhƣ
Nga, Pháp, Mĩ lần lƣợt thực hiện các biện pháp để tăng cƣờng công tác phòng
chống xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông.
Thế kỉ XXI đƣợc coi là thế kỉ của biển và đại dƣơng đồng thời trƣớc thảm
kịch biến đổi khí hậu, nƣớc biển dâng nhiều vùng bờ biển, cửa sông sẽ bị biến
đổi theo chiều hƣớng tiêu cực và nó sẽ trở thành một trong những thiên tai gây
thiệt hại lớn nhất cho cuộc sống của con ngƣời.
1.2.2. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông ở Việt Nam
Việt Nam đang đứng trƣớc nguy cơ phải đối diện với hiện tƣợng bờ biển
đang bị xói lở với cƣờng độ mạnh, mực nƣớc biển ngày càng dâng cao hơn.

Thiệt hại 17 tỉ USD/năm nếu nƣớc biển dâng cao thêm 1 m. Các nhà nghiên cứu
môi trƣờng vừa cảnh báo mũi Cà Mau nơi vẫn đƣợc xem là nơi có tốc độ lấn
biển nhanh nhất nƣớc ta, có năm lên tới 100 m đã và đang có những biểu hiện
xói lở mạnh. Tuy nhiên đây không phải là hiện tƣợng cá biệt, hầu hết đƣờng bờ
biển nƣớc ta bị xói lở với cƣờng độ từ vài mét đến vài chục mét mỗi năm và có
xu hƣớng tăng mạnh trong một thập niên gần đây.
Quá trình xói lở đang diễn ra rất mạnh tại tất cả 28 tỉnh có bờ biển, nhƣng
với các mức độ khác nhau: khu vực xói lở mạnh nhất là đồng bằng Bắc Bộ -
Thanh Hóa, đồng bằng sông Cửu Long, còn khu vực ổn định là vùng bờ Móng
Cái - Hòn Gai, Rạch Giá - Hà Tiên, Nam Trung Bộ.
Có khoảng 249 đoạn bờ bị xói lở, với tổng chiều dài 250 - 400 km. Quá
trình xói lở đang diễn ra ở hầu hết các kiểu cấu tạo có nền đá gốc, sỏi cát, sét,
bùn sét, bùn cát trong đó chủ yếu là bờ cát, chiếm 82% trong tổng số bờ bị xói.
Trên 80 đoạn bờ đã có đê, kè, trồng cây vẫn tiếp tục bị xói. Hơn 50% đoạn xói
có chiều dài hơn 1 km, gần 20% đoạn xói vào đất liền 500 m. Có 30% đoạn xói


11
với tốc độ nhanh 10 m - 30 m/năm, có những đoạn tốc độ xói lên tới 100
m/năm.
Phân vùng xói lở Việt Nam dựa vào địa hình, địa chất vùng bờ biển, các
yếu tố động lực biển (sông, dòng chảy, thủy triều, sóng, hƣớng vận chuyển bùn
cát ) và các đặc điểm hiện trạng xói lở chia ra thành 8 vùng sau:
- Vùng I: Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng)
- Vùng II: Đồ Sơn đến Nga Sơn (Thanh Hóa)
- Vùng III: Nga Sơn đến Đèo Ngang (Quảng Bình)
- Vùng IV: Đèo Ngang đến Mũi Ba Làng (Quảng Ngãi)
- Vùng V: Mũi Ba Làng đến Cà Ná (Ninh Thuận)
- Vùng VI: Cà Ná đến Vũng Tàu
- Vùng VII: Vũng Tàu đến Mũi Cà Mau

- Vùng VIII: Mũi Cà Mau đến Hà Tiên (Kiên Giang)
Theo mức độ nguy hiểm về cƣờng độ nhƣ tốc độ xói lở chia ra:
- Bờ xói lở yếu: <4 m/năm
- Bờ xói lở trung bình: 5 - 10 m/năm
- Bờ xói lở mạnh: 10 - 30 m/năm
- Bờ xói lở rất mạnh: >30 m/năm
Các bờ xói lở yếu là vùng bờ I, V, VIII, các bờ xói lở trung bình và mạnh là
vùng III, IV và VI, còn bờ xói lở mạnh và rất mạnh là vùng bờ II và VII.
Bên cạnh quá trình xói lở thƣờng diễn ra vào mùa mƣa thì quá trình bồi tụ
cũng diễn ra khá phổ biến tại các cửa sông, ven biển vào mùa khô. Xói lở - bồi
tụ bờ biển, cửa sông đang thực sự gây nguy hại đến cơ sở hạ tầng, nhiều làng
xóm, ruộng vƣờn, đất canh tác đã bị sóng biển phá hủy.
1.2.3. Xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông ở Bắc Trung Bộ
Vùng ven biển Bắc Trung Bộ bị biến động mạnh mẽ trong những năm gần
đây do hiện tƣợng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông. Các tai biến xói lở mạnh và
bồi lấp đã trở thành tai biến thiên nhiên có ảnh hƣởng lớn đến đời sống sản xuất
của dân cƣ ở các địa phƣơng ven biển và nó không chỉ xảy ra trong những năm


12
có thời tiết không thuận lợi mà còn xảy ra cả những năm thời tiết tƣơng đối bình
thƣờng.
Hiện tƣợng xói lở- bồi tụ bờ biển diễn ra ngày càng gia tăng, theo viện
nghiên cứu quản lí biển và hải đảo từ những năm 1991 trở lại đây khu vực Nghi
Lộc, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), Cửa Càn, Cửa Lò (Nghệ An), Hoằng
Hóa, Hậu Lộc, Sầm Sơn (Thanh Hóa), Phú Lộc, Phú Vang (Huế) bị xói xở
nghiêm trọng.
Còn cửa sông ở khu vực Bắc Trung Bộ đƣợc thành tạo trong bão hoặc lũ
và dịch chuyển theo hƣớng vận chuyển của dòng bùn cát ven bờ. Do đặc điểm
thành tạo nên các cửa sông Bắc Trung Bộ đa phần nhỏ hẹp nên thƣờng xuyên bị

bồi lấp và không ổn định nhƣ cửa Lạch Trƣờng, cửa Hới (Thanh Hóa), cửa Lò,
cửa Hội (Nghệ An), cửa Tùng, cửa Việt (Quảng Trị), cửa Tƣ Hiền, cửa Thuận
An (Thừa Thiên Huế) đã gây ra ách tắc các tuyến đƣờng giao thông đƣờng
thủy, khó khăn cho tàu bè ra vào tránh gió mùa Đông Bắc, tránh bão và áp thấp
nhiệt đới. Đặc biệt khi các cửa sông bị bồi lấp, nƣớc lũ chảy xuống nhanh và
không thoát kịp đã gay ra nạn ngập úng rất nghiêm trọng cho các khu dân cƣ,
không ít lần lũ lụt đã gây ách tắc các tuyến đƣờng giao thông đƣờng sắt, đƣờng
bộ và nhất là tuyến đƣờng quốc lộ 1A nối liền 2 miền Bắc - Nam.














13
CHƢƠNG II: HOÀN CẢNH VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN,
KINH TẾ - XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN XÓI LỞ - BỒI TỤ
BỜ BIỂN, CỬA SÔNG TỈNH THANH HÓA
2.1. Hoàn cảnh tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lí
Thanh Hoá là tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có tọa độ địa lí từ 19°18'B đến
20°40'B, và từ 104°22'Đ đến 106°05'Đ. Điểm cực Bắc nằm ở xã Trung Sơn, phía

Đông Bắc huyện Quan Hóa (giáp tỉnh Hòa Bình) nằm ở vĩ tuyến 20°40'B. Điểm
cực nam là xã Hải Hà gần bờ biển Tĩnh Gia (giáp Nghệ An) nằm ở vĩ tuyến
19°18'B. Điểm cực Tây là núi Pha Long, xã Quang Chiểu huyện Mƣờng Lát
(giáp Lào) nằm trên kinh tuyến 104°22'Đ. Điểm cực Đông ở xã Nga Điềm huyện
Nga Sơn (giáp Ninh Bình) trên kinh tuyến 106°06'Đ.
Lãnh thổ về phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình,
với đƣờng danh giới dài 175 km. Phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Nghệ An, với
đƣờng gianh giới dài 160 km. Phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nƣớc Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào) với đƣờng biên giới dài 192 km và phía Đông là vịnh
Bắc Bộ với chiều dài bờ biển 102 km.
Thanh Hóa là tỉnh có diện tích lớn của vùng Bắc Trung Bộ và của nƣớc ta,
diện tích tự nhiên là 11.116,34 km
2
chiếm 3,37% diện tích cả nƣớc, đứng thứ 5
trong tổng số 63 tỉnh thành phố của cả nƣớc và đứng thứ 2 trong số các tỉnh ở
khu vực Bắc Trung Bộ Bộ. Thời lập nƣớc đây là một bộ phận của nƣớc Văn
Lang, mang tên Cửu Chân. Tiếp đó qua nhiều thời đại Thanh Hóa lần lƣợt mang
tên Ái Châu, rồi Trại, Phủ, Trấn, Lộ Thanh Hóa.
Thanh Hóa cũng là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất cả nƣớc chỉ đứng
sau TP Hà Nội, hiện nay tỉnh có 1 thành phố, 2 thị xã, 24 huyện với 584 xã, 20
phƣờng, 30 thị trấn.
Thành phố Thanh Hóa là trung tâm kinh tế, hành chính, văn hóa của tỉnh. 2
thị xã Bỉm Sơn nằm ở phía Bắc của tỉnh và Sầm Sơn nằm ở phía Đông của tỉnh
ngày càng đóng vai trò quan trọng.


14


15

Trong 24 huyện có 8 huyện đồng bằng (Thọ Xuân, Triệu Sơn, Đông Sơn, Nông
Cống, Yên Định, Thiệu Hóa, Hà Trung, Vĩnh Lộc), 5 huyện ven biển (Nga Sơn,
Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xƣơng, Tĩnh Gia), 11 huyện trung du và miền núi
(Nhƣ Xuân, Nhƣ Thanh, Lăng Chánh, Bá Thƣớc, Thạch Thành, Thƣờng Xuân,
Ngọc Lặc, Cẩm Thủy, Quan Hóa, Quan Sơn, Mƣờng Lát).
Thanh Hoá nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ,
một vị trí rất thuận lợi. Đƣờng sắt và quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng
đồng bằng và ven biển, đƣờng chiến lƣợc 15A, đƣờng Hồ Chí Minh xuyên suốt
vùng trung du và miền núi Thanh Hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho Thanh Hoá
trong việc giao lƣu với các tỉnh, thành phố khác trong cả nƣớc. Đƣờng 217 nối
liền Thanh Hoá với tỉnh Hủa Phăn của nƣớc Lào. Hệ thống sông ngòi của Thanh
Hoá phân bố khá đều với 4 hệ thống sông đổ ra biển với 5 cửa lạch chính. Hiện
nay, cảng biển Nghi Sơn cho phép tàu trọng tải trên 10 nghìn tấn ra vào dễ dàng,
là cửa ngõ của Thanh Hoá trong giao lƣu quốc tế.
Do vị trí địa lý, Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hƣởng của những tác động
từ khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc và những tác động từ các vùng trọng
điểm kinh tế Trung Bộ, vùng trọng điểm kinh tế Nam Bộ. Với sự tác động tổng
hợp của các vùng trên, Thanh Hoá có thể huy động tốt các nguồn lực để thoả
mãn nhu cầu của các vùng Bắc Bộ và các tỉnh phía Nam.
2.1.2. Địa hình, địa chất
Địa hình Thanh Hóa khá phức tạp, bị chia cắt nhiều, nghiêng và thấp dần
theo hƣớng Tây - Đông. Từ Tây sang Đông có các dải địa hình núi và trung du,
đồng bằng và ven biển.
Địa hình núi và trung du: gắn với hệ thống núi cao phía Tây Bắc và hệ
thống núi Trƣờng Sơn ở phía Nam. Đó là dải địa hình nằm ở rìa ngoài của miền
tự nhiên Tây Bắc đang đƣợc nâng cao lên, tiếp giáp với vùng sụt võng là các
đồng bằng châu thổ. Đây là những khu vực thấp, uốn nếp đƣợc cấu tạo bằng các
loại đá khác nhau, từ các đá trầm tích (đá phiến vôi, cát kết, cuội kết, sỏi kết )
đến các đá phun trào (Xpilit, Eiolit, Bazan), đá xâm nhập (Granit), đá biến chất



16
(đá hoa) chúng nằm xen kẽ với nhau, có khi lại lồng vào nhau và điều đó làm
cho cảnh quan thay đổi không ngừng.
Địa hình núi có độ cao trung bình 600 - 700 m so với mực nƣớc biển, độ
dốc trên 25°, ở đây có các đỉnh núi cao nhƣ Tà Leo (1291 m) nằm phía tả ngạn
sông Chu. Dạng địa hình núi và trung du tập trung ở 11 huyện miền núi.
Địa hình trung du có độ cao trung bình 150 - 200 m so với mực nƣớc biển,
độ dốc từ 12° - 20° chủ yếu là các đồi thấp, sƣờn thoải.
Đồng bằng có diện tích 162,34 ha, đƣợc hình thành và phát triển do sự bồi
tụ của các hệ thống sông nhƣ sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Hoạt. Phân
bố chủ yếu ở các huyện Thọ Xuân, Đông Sơn, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Nông
Cống, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Quảng Xƣơng và một phần của Tĩnh Gia, Nga Sơn,
Tp Thanh Hóa, thị xã Bỉm Sơn.
Đồng bằng Thanh Hóa đƣợc cấu tạo bởi đất phù sa hiện đại, trải ra trên mặt
rộng, hơi nghiêng về phía biển, về phía Đông Nam. Rìa phía Bắc và Tây Bắc là
dải đất cao đƣợc cấu tạo bởi phù sa cũ của sông Mã, sông Chu cao từ 1 - 15 m.
Trên bề mặt đồng bằng có một số đồi núi có độ cao trung bình từ 200 - 300 m,
đƣợc cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau, từ đá phun trào cho đến đá vôi, đá
phiến. Dạng địa hình đồng bằng này có ý nghĩa rất lớn về du lịch và là điều kiện
để hình thành các vung chuyên canh cây công nghiệp.
Dạng địa hình ven biển có diện tích 110.655 ha phân bố chủ yếu ở Sầm
Sơn và các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xƣơng, Tĩnh Gia.
Trên địa hình này có vùng sình lầy ở Nga Sơn và các cửa Sông Mã, sông Yên
vùng đất cát ven biển nằm phía trong các bãi cát, có độ cao trung bình từ 3 - 6
m. Ở phía nam Tĩnh Gia chúng có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển.
Bờ biển Thanh Hóa là bờ biển phẳng có thềm lục địa tƣơng đối nông và
rộng. Ở Bắc Nga Sơn phù sa sông Đáy làm cho đất liền tiến ra biển với tốc độ
lớn. Nhƣng từ Nga Sơn trở vào các bãi cồn cát nhô ra biển lại với nhau tạo thành
các bãi biển phẳng và dài cửa Lạch Trƣờng, Sầm Sơn, Khoa Giáp.



17
Sự phức tạp của địa hình, mang tính chất chuyển tiếp từ miền núi, trung du
và đồng bằng ở Thanh Hóa nói riêng và cả khu vực Bắc Trung Bộ nói chung đã
tạo nên các trầm tích bồi tụ ở ven biển, cửa sông rất phong phú.
2.1.3. Khí hậu
Thanh Hóa nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt,
mùa nóng trùng với mùa mƣa và mùa lạnh trùng với mùa khô. Đặc biệt trong
mùa nóng còn có sự xuất hiện của gió Tây vào đầu mùa (hàng năm có tới 20 -
30 ngày có gió Tây khô nóng). Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 - 24°C ở
vùng đồng bằng và trung du, giảm dần khi lên vùng núi và xuống còn 20°C (từ
tháng XVII đến tháng III), tháng lạnh nhất là tháng I với nhiệt độ trung bình
khoảng 17 - 18°C.
Tổng lƣợng nhiệt cả năm đạt khoảng 8.600 - 8.700°C ở vùng đồng bằng và
giảm xuống 8.000°C ở miền núi.
Lƣợng mƣa trung bình từ 1.600 - 1.800 mm. Số ngày mƣa từ 130 - 150
ngày/năm. Mùa mƣa thƣờng kéo dài 6 tháng, bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào
tháng X. Các tháng mƣa nhiều là VIII, IX, X. Mùa mƣa tập trung đến 60 - 80%
lƣợng mƣa của cả năm nên dễ gây ra lũ lụt, xói lở nhất là những vùng địa hình
thấp nhƣ các huyện ven biển.
Lƣợng mƣa lớn, nhiệt độ cao ánh sáng dồi dào là những điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển nông, lâm, ngƣ nghiệp. Ở Thanh Hóa không chỉ có các cây
trồng nhiệt đới mà còn có cả các cây á nhiệt đới, tạo nên sự đa dạng trong hệ
thống cây trồng. Khí hậu Thanh Hóa cũng thƣờng xuất hiện các hiện thƣợng
thời tiết đặc biệt nhƣ bão, lũ lụt, áp thấp nhiệt đới về mùa mƣa và hạn hán, nóng
bức về mùa khô gây ảnh hƣởng không nhỏ đến sản xuất và sinh hoạt của con
ngƣời.
2.1.4. Thủy văn
Thanh Hóa có 20 sông lớn nhỏ chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam và 264

khe suối chằng chịt thuộc 4 hệ thống sông chính: sông Mã, sông Bạng, sông
Yên, sông Hoạt. Tổng chiều dài các hệ thống sông là 881 km, tổng diện tích lƣu
vực: 39.756 km
2
tổng lƣợng nƣớc trung bình hàng năm: 19.520 tỉ m
3
. Với trữ


18
lƣợng nƣớc mặt này nếu đƣợc điều tiết tốt thì có thể phục vụ đầy đủ nhu cầu
phát triển sản xuất và đời sống. Sông suối Thanh Hóa chảy qua nhiều vùng địa
hình phức tạp, tạo ra tiềm năng thủy điện khá lớn. Riêng sông Mã có trữ lƣợng
điện năng đạt 12 tỉ kwh.
Sông Mã bắt đầu từ vùng núi cao Điện Biên chảy qua Sầm Nƣa (Lào) rồi
vào địa phận Thanh Hóa ở Mƣờng Lát. Từ nguồn đến Cẩm Thủy, sông chảy ào
ạt, khi thì qua những ghềnh đá lởm chởm, khi thì uốn khúc rộng ra để lộ những
bãi cát trắng dài. Sau khi tiếp nhận sông Chu, sông chia thành 3 nhánh (sông Đò
Lèn, sông Lạch Trƣờng, sông Mã) và đổ ra biển Đông. Sông Mã có chiều dài
242 km với diện tích lƣu vực 900 km
2
.
Sông Chu thuộc hệ thống sông Mã, có chiều dài 135 km. Trên sông chu có
đập Bái Thƣợng 170 m, tƣới cho vài chục vạn ha đất nông nghiệp của vùng.
Sông Hoạt chảy qua địa phận bắc Hà Trung và Nga Sơn, với chiều dài 55
km và lƣu vực rộng 250 km
2
, đổ ra biển qua cửa Đáy.
Sông Bạng chảy qua huyện Nhƣ Xuân, Tĩnh Gia rồi đổ ra cửa Bạng. Sông
này dài 34,5 km, lƣu vực rộng 236 km

2
.

Sông Yên kéo dài 89 km, lƣu vực rộng 1.850 km
2
đổ ra biển qua cửa Lạch
Ghép.

Hệ thống sông ở Thanh Hóa đóng vai trò quan trọng về mặt tự nhiên, đó là
việc bồi tụ nên dải đồng bằng Thanh Hóa và hình thành nên các dạng địa hình
ven biển, cửa sông. Ngoài ra cũng thƣờng xuyên chịu tác động của tai biến xói
lở và bồi tụ.
Ngoài hệ thống sông ngòi Thanh Hóa còn có 102 km đƣờng bờ biển chạy
dài từ cửa Đáy (Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn
với diện tích 1,7vạn km
2
. Dọc bờ biển đó có 5 của lạch lớn: Lạch Sung, Lạch
Trƣờng, Lạch Hới, Lạch Bạng, Lạch Ghép. Các cửa lạch này tạo điều kiện thuận
lợi cho giao thông đƣờng thủy, cho tàu thuyền đánh cá ra vào. Vùng cửa lạch và
những bãi bồi thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản, trồng cói và trồng cây
chắn sóng.


19
Đáy biển vùng gần bờ là dải cát thoải, bằng phẳng. Ở đây có một số vụng
(vụng Gầm ở Sầm Sơn, vụng Quyền, vụng Thủi, vụng Biên ở Tĩnh Gia) và các
đảo (Hòn Nẹ, Hòn Mê) là điều kiện thuận lợi cho sự cƣ trú của các loài hải sản
quý hiếm, đồng thời cũng là vùng trú ẩn an toàn cho tàu thuyền đánh cá, vận tải.
Ven biển còn có những cảnh quan hấp dẫn về du lịch, tắm biển nhƣ bãi tắm Sầm
Sơn, Ba Làng, bán đảo Biện Sơn. Ven biển Thanh Hóa có 8.000 ha bãi triều là

cơ sở để nuôi trồng thủy sản nƣớc lợ. Diện tích nƣớc mặn khoảng 10.000 ha có
thể nuôi cá song, cá cam, ngọc trai, tôm hùm, phân bố chủ yếu ở đảo Hòn Mê,
Biện Sơn.
2.1.5. Đất đai
Thanh Hóa có 10 nhóm đất với 28 loại khác nhau, trong đó có các nhóm
đất có diện tích tƣơng đối lớn là đất đỏ vàng, đất phù sa bồi tụ, đất mặn, đất cát
Nhóm đất đỏ vàng có 647,7 nghìn ha, chiếm 58% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, phân bố chủ yếu ở các huyện trung du, miền núi. Nhóm đất này thích hợp
cho việc phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, đồng cỏ chăn nuôi và
cho lâm nghiệp.
Nhóm đất phù sa bồi tụ có 144,3 nghìn ha, chiếm 13% diện tích tự nhiên
toàn tỉnh, phân bố chủ yếu ở các huyện đồng bằng ven biển, nằm trong khu vực
nghiên cứu. Nhóm đất này thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây công
nghiệp ngắn ngày.
Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá có 18,3 nghìn ha, chiếm 1,6% diện tích tự
nhiên, phân bố chủ yếu ở khu vực trung du và các dãy núi độc lập ở đồng bằng
của Nông Cống, Yên Định, Thiệu Hóa, Hà Trung, Hậu Lộc, Tĩnh Gia, Đông
Sơn
Nhóm đất bạc màu có 14,7 nghìn ha, chiếm 1,3% diện tích tự nhiên có thể
cải tạo để đƣa vào sản sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp.
Nhóm đất mặn có 16,3 nghìn ha, chiếm 1,5% diện tích tự nhiên của toàn
tỉnh chủ yếu dùng để trồng rừng ngập mặn và trồng cói.
Nhóm đất cát có 17,7 nghìn ha, chiếm 1,6% diện tích tự nhiên, phân bố chủ
yếu ở các huyện ven biển, nằm hoàn toàn trong khu vực nghiên cứu.

×