Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án nghiên cứu phục hình hàm khung cho bệnh nhân khuyết hổng xương hàm dưới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.76 KB, 24 trang )

A. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo thống kê sơ bộ tại các khoa phẫu thuật hàm mặt trên cả
nước, mỗi năm có một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân bị khuyết hổng xương
hàm. Nguyên nhân thường gặp là sau phẫu thuật để điều trị các bệnh lý
lành tính, ác tính của xương hàm. Tỷ lệ bệnh nhân có nhu cầu phục hình
hàm dưới do khuyết hổng xương chiếm 10 - 15% trong tổng số bệnh
nhân điều trị phục hình hàm mặt.
Sau khi bệnh nhân được tạo hình khuyết hổng xương hàm, cần thiết
phải khôi phục các chức năng cho người bệnh bằng các phục hình.
Các loại phục hình tháo lắp cho nhóm bệnh nhân nói trên là hàm
khung, hàm nhựa, hàm tựa trên Implant. Hàm nhựa cồng kềnh, lực ăn
nhai kém. Hàm tựa trên Implant lực ăn nhai tốt nhưng đòi hỏi đủ khối
lượng và chất lượng mô xương, lợi dính và chi phí đắt. Hàm khung
không đòi hỏi nhiều điều kiện mà có hiệu quả khôi phục chức năng ăn
nhai, phát âm, thẩm mỹ.
Trên thế giới, phục hình hàm khung cho các bệnh nhân khuyết
hổng xương hàm dưới đã được ghép xương hoặc còn bờ nền xương
được nhiều tác giả đề cập trong suốt thời gian dài liên tục. Ở Việt
Nam, chưa có nghiên cứu sâu về vấn đề này, nhằm nâng cao chất
lượng điều trị phục hình cho các bệnh nhân nhóm trên chúng tôi tiến
hành đề tài: “Nghiên cứu phục hình hàm khung cho các bệnh nhân
khuyết hổng xương hàm dưới” với hai mục tiêu:
1. Mô tả các đặc điểm lâm sàng, X.quang của nhóm bệnh nhân
khuyết hổng xương hàm dưới đã được ghép xương hoặc còn bờ
nền xương.
2. Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm
khung trong điều trị mất răng ở nhóm bệnh nhân trên.
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Xương hàm dưới được coi là khung đỡ của phức hợp chức năng
miệng, họng và hình dáng khuôn mặt. Chính vì vậy khuyết hổng


xương hàm dưới ảnh hưởng đến chức năng ăn nhai, phát âm và thẩm
mỹ. Về tâm lý bệnh nhân ít nhiều có phần e ngại giao tiếp với xã hội.
Đối với các khuyết hổng lớn có thể được coi là khuyết tật.
Sau khi bệnh nhân được tạo hình khuyết hổng xương hàm, cần
thiết phải khôi phục các chức năng cho người bệnh bằng các phục hình
giúp bệnh nhân nâng cao khả năng lao động và hòa nhập.
1
Ý NGHĨA THỰC TIỄN VÀ ĐÓNG GÓP MỚI
1. Các đặc điểm lâm sàng và X.quang của các bệnh nhân khuyết
hổng xương hàm dưới đã được ghép xương hoặc còn bờ nền xương
được mô tả trong luận án, góp phần để các phẫu thuật viên có những
cải tiến trong quá trình phẫu thuật.
2. Kết quả điều trị phục hình cho bệnh nhân mất răng do khuyết
hổng xương hàm dưới đã được ghép xương, được đánh giá theo
nhiều chỉ số, tiêu chí và theo dõi trong thời gian dài.
3. Vai trò của nhựa mềm với bản chất là Silicone chưa định hình để
lấy khuôn trung tính và đệm hàm trong những trường hợp niêm mạc
dưới yên hàm khung di động, sẹo vết mổ ở ngay niêm mạc má gây
co kéo đã được khẳng định hiệu quả giúp hàm ổn định.
4. Kỹ thuật lấy khuôn giải phẫu chức năng là bắt buộc đối với
các bệnh nhân này với các vật liệu phong phú: Silicone kết hợp
với nhựa mềm và hợp chất nhiệt dẻo với nhựa mềm.
5. Áp dụng MAI (Mixing Ability Index) trong đánh giá chức
năng nhai khẳng định có giá trị tin cậy cao.
CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, luận án gồm 4 chương: Chương
1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu: 36 trang; Chương 2: Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu 26 trang; Chương 3: Kết quả nghiên cứu: 38
trang; Chương 4: Bàn luận: 38 trang. Luận án có 48 bảng, 22 biểu đồ, 25
hình ảnh, 127 tài liệu tham khảo (28 tiếng Việt, 99 tiếng Anh).

B. NỘI DUNG LUẬN ÁN
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Giải phẫu xương hàm dưới
Đề cập đến: cấu trúc bên ngoài, cấu trúc bên trong, ống răng
dưới - thần kinh chi phối xương hàm dưới, động mạch nuôi dưỡng
xương hàm dưới, các cơ chi phối vận động xương hàm dưới.
1.2. Khuyết hổng xương hàm dưới và các phương pháp phục hồi
1.2.1. Nguyên nhân khuyết hổng xương hàm dưới và hậu quả của nó
Nguyên nhân khuyết hổng xương hàm dưới: sau phẫu thuật để
2
điều trị các bệnh lý là chủ yếu.
Hậu quả của khuyết hổng xương hàm dưới: theo Peri và Coll,
các khuyết hổng sẽ gây ra tình trạng "mất thăng bằng xương hàm –
răng – cơ", gây nên một biến dạng mà sẽ kéo theo các ảnh hưởng chức
năng, thẩm mỹ và tâm lý đặc biệt nặng nề.
1.2.2. Phân loại khuyết hổng xương hàm dưới
Phân loại theo các tác giả: Julid Tam, Kadoda, Neal Garret,
Brian J.B.
1.2.3. Phục hồi khuyết hổng xương hàm dưới
Có hai hình thức phục hồi chính:
- Sử dụng chất liệu dị loại (vật liệu phỏng sinh học) để phục hồi
lại các đoạn xương bị thiếu, thường sử dụng nẹp, không có khả năng
phục hồi chức năng.
- Sử dụng vật liệu sinh học tức dùng chất liệu xương để ghép xương,
cùng với ghép da, niêm mạc nếu cần thiết, là vật liệu tốt nhất. Phương pháp
đem lại hiệu quả phục hồi là ghép xương có cuống mạch nuôi.
1.3. Hàm khung
- Aker (1918) được coi là người đầu tiên đề xướng ra phương
pháp đúc liền một khối: móc răng, cầu nối, các bộ phận mang răng giả,
đánh dấu sự ra đời của hàm khung.

- Ưu điểm: so với hàm giả tháo lắp từng phần nền nhựa, hàm
khung đem lại hiệu quả ăn nhai, phát âm tốt hơn nhờ một khối đúc với
các móc, tựa ở các răng thật, gọn hơn, lực nhai được truyền lên cả răng
trụ và sống hàm.
- Chỉ định: khoảng mất răng rộng không làm được cầu răng, mất
răng không có răng giới hạn phía xa, sống hàm vùng mất răng tiêu nhiều,
sự nâng đỡ vùng quanh răng giảm, phục hình sau phẫu thuật.
- Cấu tạo hàm khung bao gồm: nối chính, yên, nối phụ, tựa mặt
nhai, móc, vật giữ gián tiếp là các tựa ở răng phía trước.
1.4. Phục hình răng giả tháo lắp cho các bệnh nhân mất răng do
khuyết hổng xương hàm dưới đã được phục hồi xương hoặc còn bờ
nền xương hàm
Hàm nhựa: kỹ thuật làm hàm đơn giản nhưng lực nhai kém hàm
khung, ổn định và lưu giữ kém, cồng kềnh và xê dịch nhiều tạo cảm
3
giác bất ổn cho bệnh nhân. Chỉ định: bệnh nhân khuyết hổng xương
hàm dưới bị mất toàn bộ răng hoặc còn ít răng mà toàn bộ các răng bị
lung lay từ độ II trở lên.
Hàm khung: chỉ định khi khoảng mất răng do khuyết hổng
xương rộng không thể làm được cầu răng hoặc bệnh nhân không còn
răng trụ phía xa khoảng mất răng. Còn lại ít nhất 4 răng và có mô cứng
thân răng quanh răng đủ yêu cầu làm răng trụ.
Hàm tựa trên Implant: chỉ định khi chiều cao xương
7,12mm, chú ý nhất là biểu mô dính thường bị thiếu sau ghép
xương nên cần ghép biểu mô trước khi đặt Implant hay cùng thì đặt
Implant.
1.5. Các nghiên cứu về phục hình hàm khung cho bệnh nhân có
khuyết hổng xương hàm dưới
Các nhà phục hình trên thế giới đã có quan điểm thiết kế qua
các thời kỳ: Kelly (1965), Kratochvil (1979), Henderson - Steffel

(1981), Davis (1982) Kien Thomas (1994), Shu - Hui Mon (2001),
John Beumer (2002), (2007). Các tác giả đã tổng kết và bổ sung các kỹ
thuật mới để phục hình đạt kết quả tốt hơn.
Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu sâu về vấn đề này.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân khuyết hổng xương hàm
dưới đã được ghép xương tự thân hoặc còn bờ nền xương hàm dưới
không ghép xương, có chỉ định làm hàm khung.
Tiêu chuẩn lựa chọn: bệnh nhân đã được ghép xương sau ít
nhất 6 tháng hoặc còn bờ nền xương hàm dưới thỏa mãn các điều kiện:
bệnh nhân còn ít nhất bốn răng thật, mô cứng thân răng và quanh răng
bình thường, trên phim X.quang Panorama: xương ghép liền tốt,
xương còn lại không có tổn thương; bệnh nhân đã được phục hình răng
giả nhưng không sử dụng được hoặc gãy, hỏng hàm; bệnh nhân tự
nguyện tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân được ghép xương phục hồi toàn
bộ xương hàm dưới, bệnh nhân không hợp tác nghiên cứu
4
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt – Trường Đại học Y
Hà Nội và Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội.
- Thời gian: từ tháng 6 năm 2008 đến tháng 6 năm 2013.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng mở không đối chứng, đánh giá
hiệu quả can thiệp theo mô hình trước - sau.
2.3.2. Kỹ thuật chọn mẫu
- Chọn mẫu: mẫu thuận tiện không xác suất. Tất cả các bệnh nhân

khuyết hổng xương hàm dưới thỏa mãn các tiêu chuẩn được chọn.
- Cỡ mẫu: công thức:
q
d.p
Zn
2
)2/1(
α−
=
Z: hệ số tin cậy (95%), p: tỷ lệ % bệnh nhân đạt chức năng ăn
nhai tốt, khá: 65%, d: độ chính xác tuyệt đối 17%
n = 31, thực tế nghiên cứu được tiến hành trên 33 bệnh nhân.
2.3.3. Kỹ thuật thu thập thông tin
2.3.3.1. Dụng cụ và vật liệu nghiên cứu: các dụng cụ trên lâm sàng
và labo.
2.3.3.2. Khám, đánh giá đặc điểm lâm sàng, X.quang, mẫu nghiên cứu
của bệnh nhân
- Lập phiếu thu thập thông tin.
- Khám đánh giá bệnh nhân về các biến chứng chức năng sau
mổ, các đặc điểm về răng và mô mềm liên quan đến phục hình. Trên
song song kế phác họa thiết kế hàm khung.
2.3.3.3. Điều trị phục hình hàm khung
Tiến hành theo trình tự: điều trị tiền phục hình, chuẩn bị trên
miệng, lấy khuôn đổ mẫu làm việc, thiết kế hàm khung, đúc khung tại
labo, thử khung và lấy khuôn chức năng: từng phần đơn thuần hoặc
đơn thuần kết hợp khoảng phục hình, xác định tương quan hai hàm và
lên răng bằng càng cắn hoặc càng nhai, thử răng, hoàn thiện khung và
lắp khung, đệm nhựa mềm.
2.3.3.4. Đánh giá kết quả điều trị phục hình bằng hàm khung
a) Đánh giá ngay sau khi lắp hàm khung: dựa vào ba tiêu chí đánh

giá hàm khung: lưu giữ, khớp cắn, thẩm mỹ. Dựa vào các yếu tố và
5
thời gian phải sửa chữa khi lắp hàm: chỉnh sửa khớp cắn.
b) Đánh giá kết quả sau khi bệnh nhân mang hàm khung được 2 tuần:
đánh giá sự thích nghi hàm và chức năng nhai.
c) Đánh giá kết quả sau khi bệnh nhân mang hàm khung được 1
tháng: MAI, bảng đánh giá chất lượng cuộc sống theo Albert.
d) Đánh giá kết quả sau khi bệnh nhân mang hàm được 6 tháng:
các yếu tố về hàm khung, đánh giá ảnh hưởng của hàm khung đến răng
trụ, tổ chức quanh răng, vệ sinh răng miệng, xác định cần đệm hàm.
e) Tại thời điểm 1 năm, 18 tháng, 2 năm và trên 2 năm: giống 6
tháng và thêm yếu tố so sánh giữa răng trụ và răng còn lại.
2.4. Xử lý số liệu: số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y
học, sử dụng phần mềm thống kê y học Epi-Info version 6.0 và một số
thuật toán thống kê.
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu: tất cả các bệnh nhân đều được giải thích
kỹ quá trình điều trị. Tất cả các bệnh nhân đều đồng ý tự nguyện tham gia
nghiên cứu. Quá trình thực hiện đúng quy trình kỹ thuật đảm bảo an toàn
cho bệnh nhân. Các thông tin thu thập của bệnh nhân được giữ bí mật và
chỉ dùng với mục đích nghiên cứu, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân. Nghiên cứu đảm bảo đúng đề cương của luận án đã được
Hội đồng chấm nghiên cứu sinh thông qua.
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm lâm sàng, X.quang của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu: đa số là bệnh nhân trẻ dưới
34 tuổi: 18 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 54,5%. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất
là 16, lớn tuổi nhất là 65. Về giới cũng có 54,5% bệnh nhân là nam.
Nguyên nhân khuyết hổng chủ yếu là sau phẫu thuật điều trị bệnh
lý: 93,9%. Các bệnh nhân ghép xương có cuống mạch nuôi chủ yếu

là mổ 1 thì: 30,3%, bệnh nhân ghép xương không có cuống mạch
nuôi chủ yếu là mổ thì 2: 42,4%. Tình trạng vệ sinh răng miệng có
54,5% ở mức trung bình. Phân loại khuyết hổng xương theo
Kadoda có 9,1% bệnh nhân còn bờ nền xương, 87,9% bệnh nhân có
khuyết hổng xương theo kiểu mất đoạn xương. Có 36,4% bệnh nhân
mất nhóm răng hàm nhỏ và hàm lớn, có 18,2% bệnh nhân mất cả
6
hai bên răng cửa, răng nanh và răng hàm nhỏ hàm lớn một bên.
3.1.2. Các biến chứng, chức năng và thẩm mỹ khuôn mặt của
nhóm bệnh nhân nghiên cứu
3.1.2.1. Các biến chứng, chức năng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Biến chứng và chức năng ở bệnh nhân ngay sau mổ: có 72,8%
bệnh nhân nói to và nhanh khó; 12,1% bệnh nhân phát âm s và tr khó;
30,3% bệnh nhân có há miệng thấy khó hơn ở bên phẫu thuật; 60,6%
bệnh nhân mất hoặc giảm cảm giác vùng ống răng dưới; 81,8% bệnh
nhân thỉnh thoảng có hiện tượng cắn phải lưỡi, má, môi khi ăn nhai.
Có 36,4% bệnh nhân có tiếng kêu ở khớp thái dương hàm khi vận
động, 66,7% bệnh nhân có tăng biên độ vận động của lồi cầu. Khi há
miệng tối đa có 75,8% bệnh nhân bị lệch cung hàm về bên phẫu thuật,
72,7% miệng lệch về bên lành. 78,8% bệnh nhân có đường vận động
zích zắc theo sơ đồ Posselt. 30,3% bệnh nhân bị biến đổi đường cong
Spee, Wilson.
Mối liên quan giữa hệ số nhai và chức năng nhai theo thang
điểm 100 của bệnh nhân trước khi mang hàm khung
Có 52,4% bệnh nhân có hệ số nhai từ 50 - 75 là chức năng
nhai theo thang điểm 100 ở mức khá (70 - 80 điểm); 75% bệnh
nhân có hệ số nhai dưới 50 là chức năng nhai theo thang điểm 100
ở mức trung bình (50 - 60 điểm).
Trung bình chức năng nhai và hệ số nhai: chức năng nhai của
bệnh nhân trung bình là 65,2 ± 15,0; hệ số nhai trung bình là 50,2 ± 14,1.

3.1.2.2. Đặc điểm hình thái và thẩm mỹ khuôn mặt
Đặc điểm hình thái khuôn mặt bệnh nhân: có 60,6% bệnh nhân
bị lép mặt rõ, 24,2% bệnh nhân có khóe môi bị thấp bên phẫu thuật.
Biến đổi cành ngang và góc hàm ở bệnh nhân đã được phục
hồi xương khuyết: có 36,4% bệnh nhân có cành ngang không đối
xứng, 87,9% bệnh nhân bị lõm góc hàm rõ.
MAI qua quan sát màu sắc khối sáp nhai trước lắp hàm: đa
số các bệnh nhân được đánh giá tốt: 81,8%; có 12,1% ở mức kém.
3.1.3. Tình trạng sống hàm, răng, tổ chức quanh răng của bệnh nhân
3.1.3.1. Tình trạng sống hàm, các phanh
7
Hầu hết bệnh nhân có hình dạng cung hàm thẳng và không
tương xứng với cung hàm bên cạnh: 87,9%; 75,8% bệnh nhân có sống
hàm thấp hơn sàn miệng, 60,6% bệnh nhân có sẹo ngay trên đỉnh sống
hàm, 63,6% bệnh nhân có niêm mạc trên sống hàm di động. Đa số
bệnh nhân có phanh má, môi, lưỡi ở ngay cạnh đỉnh sống hàm lần lượt
là 45,5%; 18,2%; 24,2%; ở trên đỉnh sống hàm gây co kéo, di động lần
lượt là: 21,2%; 12,1% và 6,1%.
3.1.3.2. Mô răng và tổ chức quanh răng
Tình trạng tổ chức cứng và quanh răng của răng trụ
Tình trạng tổ chức cứng của răng hay gặp là mòn mặt nhai, rìa
cắn ở các bệnh nhân có GI = 1 (n2) là: 42,0%, n1: 17,9%.
Phân bố bệnh nhân theo tình trạng mất bám dính quanh răng
của răng trụ và thời gian làm phục hình sau mổ ghép xương: đa số các
răng trụ bị mất bám dính quanh răng < 3mm ở thời gian: 2 - 5 năm; n1:
8,8%; n2: 17,5% và sau 5 năm n1: 8,8%; n2: 11,3%; chỉ gặp 3 răng trụ
n1 (8,8%) mất bám dính quanh răng 3 - 6mm.
Phân bố bệnh nhân theo hình dạng chân răng trụ và tiêu
xương ổ răng trên X.quang: đa số các bệnh nhân có chân răng dài và
thuôn nhiều (mảnh) ở răng trụ n1 là 57,1% (nhóm không tiêu XOR),

33,3% (nhóm tiêu XOR < 3 mm); răng trụ n2: 72,7% (nhóm không
tiêu XOR), 27,3% (nhóm tiêu XOR dưới 3 mm).
Độ lung lay của răng trụ theo tuổi bệnh nhân: độ lung lay răng
trụ ở lứa tuổi 35 - 65 tuổi cao nhất là độ 1 ở răng trụ n2 chiếm tỷ lệ:
63,8%, n1: 47%.
3.2. Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung
3.2.1. Điều trị phục hình hàm khung
Quy trình lấy khuôn để làm phục hình với phương thức ghép
xương: phương pháp lấy khuôn bằng Silicone khay thường đa số là
bệnh nhân ghép xương có cuống mạch nuôi (87,5%). Lấy khuôn bằng
Silicone với khay cá nhân chủ yếu dành cho ghép xương không có
cuống mạch nuôi (56%). Lấy khuôn lần 2 thì đa số là từng phần +
khoảng phục hình bằng Silicone, trong đó ghép xương không có cuống
mạch nuôi là 53,3%, có cuống mạch nuôi là 40,0%.
Phân bố nối chính, vật giữ gián tiếp, kiểu yên hàm khung, lên
8
răng và hợp kim đúc khung: tấm bản lưỡi được dùng đa số các trường
hợp: 20/33 bệnh nhân chiếm 60,6%; vật giữ gián tiếp chủ yếu là tựa
phụ mặt nhai và tựa gót răng (100%), kiểu yên kèm khung đa số là
dạng thanh đơn chiếm 51,5%, độ dài cung răng đa số là đến 1/2 phía
gần răng 7: 90,9%; hợp kim thường được dùng chủ yếu để đúc khung
90,9%. Phương tiện lên răng thì càng nhai chiếm đa số: 57,6%.
Các kiểu móc và kiểu nâng đỡ: đối với móc Aker kép 100% được
dùng cho răng trụ n2 và n3 với móc chữ T và I dùng cho răng trụ n1, chiếm
lần lượt là 81,8% và 100%.
Móc Aker đơn và kép chiếm đa số vùng lẹm là 0,5mm chiếm
75,8%; tiếp theo là 0,75mm chiếm 23,4%. Móc chữ T đa số là vùng
lẹm 0,5 chiếm 63,6% và vùng lẹm 0,25mm chiếm 36,4%. Móc chữ I
đa số là vùng lẹm < 0,25 mm chiếm 69,6%.
Nhu cầu chỉnh khớp cắn khi hàm dưới chuyển động sang

bên: nhu cầu chỉnh khớp khi hàm dưới chuyển động sang bên, ở các
bệnh nhân được lên răng bằng càng cắn khác càng nhai có ý nghĩa
thống kê với p < 0,001. Trong đó càng cắn cần chỉnh là 71,4%; càng
nhai cần chỉnh 42,1%.
3.2.2. Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung
Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm
khung theo: thời gian, phương pháp phục hồi khuyết hổng xương,
tình trạng mất răng.
3.2.2.1. Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung
theo thời gian
Khớp cắn của hàm khung ở thời điểm lắp hàm: ngay tại thời
điểm lắp hàm vẫn có 12,1% bệnh nhân khớp cắn ở mức khá.
Sự lưu giữ của hàm khung theo thời gian: sự lưu giữ giảm dần
theo thời gian mang hàm. Sau 1 năm sự lưu giữ mức độ tốt 86,7%. Sau 2
năm là 76,9%; không có bệnh nhân kém.
Chức năng nhai của bệnh nhân theo thang điểm 100 khi mang
hàm khung: sau 2 tuần có 27,3% bệnh nhân có chức năng nhai tốt nhưng
sau 1 tháng đã tăng lên 39,4% và không còn bệnh nhân kém. Sau 2 năm
có 15,4% bệnh nhân có chức năng nhai tốt, 30,8% bệnh nhân có chức
năng nhai khá, 53,8% bệnh nhân có chức năng nhai trung bình.
Chức năng nhai của bệnh nhân trước và sau lắp hàm theo
thang điểm 100: có sự cải thiện rõ rệt về chức năng nhai của bệnh
nhân sau lắp hàm: ở mức độ tốt trước lắp hàm là 9,1%, sau lắp hàm là
9
39,4%. Ở mức trung bình trước lắp hàm 51,5%, sau lắp hàm giảm
xuống còn 27,3%.
Hệ số nhai trước và sau lắp hàm: hệ số nhai của bệnh nhân
trước lắp hàm ở mức dưới 50% chiếm 36,4%; ở mức 50 - 75 chiếm
63,6%; không có bệnh nhân có hệ số nhai trên 75%; sau khi lắp hàm
hệ số nhai ở mức trên 75 đã có 63,6%, còn lại là mức 50 - 75.

MAI bên hàm giả qua quan sát mầu sắc của sáp nhai tại
thời điểm sau lắp hàm một tháng ở bên răng giả: có 63,6% ở mức
tốt, 33,3% ở mức trung bình.
MAI qua quan sát khối sáp nhai trước và sau lắp hàm ở bên
răng thật: trước lắp hàm ở mức tốt là 81,8% nhưng sau lắp hàm là
90,9%, sau lắp hàm không còn mức kém.
Giá trị MAI trước, sau lắp hàm bên răng thật và sau lắp
hàm bên răng giả: sau lắp hàm MAI: 0,81 ± 0,23 đã cao hơn so với
trước lắp hàm là 0,67 ± 0,50; còn MAI ở bên răng giả là 0,26 ± 0,21.
Sự thích nghi của bệnh nhân đối với hàm khung (sau 1 tháng)
Đa số bệnh nhân cảm thấy có sự ổn định hàm khung ở mức khá,
nghĩa là ăn nhai được nhưng vẫn có sự di động của hàm (51,5%), đa số
hiệu quả ăn nhai ở mức trung bình (51,5%), chất lượng phát âm sau
đeo hàm tốt (84,9), cảm giác phục hình có gây đau cho bệnh nhân
27,3%, đa số thời gian thích nghi là 2 tuần (48,5%).
Sự thay đổi phát âm trước và sau mang hàm 1 tháng: trước
khi đeo hàm có 72,1% bệnh nhân nói to và nhai khó, sau khi đeo hàm
tỷ lệ này chỉ còn 9,1%. Tỷ lệ bệnh nhân phát âm bình thường cũng đã
tăng lên 87,9%.
Thẩm mỹ sau lắp hàm khung: thẩm mỹ sau lắp hàm ở mức
cao trên 90,0%, ở thời điểm 1 năm có mức thấp do không đủ thời gian
theo dõi các bệnh nhân đang ở mức tốt.
Sự hài lòng của bệnh nhân đối với hàm khung (sau 1 tháng)
Đa số bệnh nhân thấy tự tin tham gia hoạt động xã hội chiếm tới
97,0%. 100% bệnh nhân sẵn sàng giới thiệu điều trị cho người tương
tự. Mức độ hài lòng bệnh nhân đối với điều trị ở mức khá là 78,8%.
So sánh sự thích nghi của bệnh nhân với các kiểu thanh nối
chính hàm dưới (1 tháng): không có khác biệt về sự thích nghi của
10
bệnh nhân đối với 2 kiểu nối chính hàm khung là bản lưỡi và thanh

lưỡi kép (p > 0,05).
3.2.3.2 Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung theo
phương thức ghép xương, tình trạng sống hàm
So sánh chức năng nhai của các bệnh nhân được phục hồi
khuyết hổng xương theo các phương pháp khác nhau tại thời điểm
2 tuần, 1 tháng: đa số bệnh nhân ghép xương không có cuống mạch
nuôi có chức năng nhai ở mức trung bình xấp xỉ 70%. Hầu hết bệnh
nhân ghép xương có cuống mạch nuôi (vi phẫu) có chức năng nhai ở
mức tốt 88,9%, khá 44,5% ở 2 tuần và tăng lên sau 01 tháng.
Chức năng nhai của 2 nhóm bệnh nhân được làm hàm khung
bằng lấy khuôn lần hai từng phần đơn thuần, từng phần + khoảng
phục hình bằng silicone, từng phần + khoảng phục hình bằng hợp
chất nhiệt dẻo (6 tháng): đa số các bệnh nhân lấy khuôn từng
phần + khoảng phục hình bằng silicone có chức năng nhai ở
mức trung bình: 50%, còn các bệnh nhân lấy khuôn từng phần
+ khoảng phục hình bằng hợp chất nhiệt dẻo thì đa số ăn nhai
ở mức khá (45,5%).
Nhu cầu đệm nhựa mềm theo phương thức phẫu thuật ghép
xương tại thời điểm lắp hàm: nhu cầu đệm nhựa mềm cao nhất gặp ở
các bệnh nhân ghép xương không có cuống mạch nuôi chiếm tới
93,3% của nhóm bệnh nhân này.
3.2.3.3. Hiệu quả phục hồi chức năng của hàm khung theo yếu
tố tình trạng mất răng trên cung hàm
Tại thời điểm 2 tuần và 6 tháng: các bệnh nhân chỉ mất
răng hàm nhỏ và răng hàm lớn có chức năng nhai tốt chiếm tỷ
lệ cao 36,4% ở thời điểm 6 tháng, 27,3% ở thời điểm 2 tuần.
Các bệnh nhân mất răng hàm lớn + răng hàm nhỏ + răng cửa
và răng nanh hai bên có chức năng nhai ở mức trung bình:
18,2% tại thời điểm 6 tháng, 12,1% tại thời điểm 2 tuần, kém:
6,1% ở thời điểm 2 tuần.

3.2.4. Ảnh hưởng của hàm khung lên răng, tổ chức quanh
răng, niêm mạc
11
Đánh giá tình trạng răng trụ sau 06 tháng theo các tiêu chí:
độ lung lay, sâu răng, GI, mất bám dính, tiêu xương: sau 06 tháng,
01 năm, 18 tháng đa số các răng trụ đều ở mức tốt rất cao: trên 90%; ở
thời điểm 18 tháng theo dõi chỉ có chỉ số GI là có sự biến đổi nhiều giữa mức
tốt và trung bình.
Ảnh hưởng của các kiểu thanh nối chính hàm dưới đối với
độ lung lay của nhóm răng trước tại thời điểm 18 tháng: đa số các
răng trước không có biểu hiện tăng độ lung lay với tỷ lệ là 95,8% (bản
lưỡi); 91,7% (thanh lưỡi kép) với p > 0,001.
Ảnh hưởng của hàm khung tới sống hàm: ở giai đoạn mới
thích nghi hàm (01 tháng) có 3 bệnh nhân (9,09%) có điểm nề đỏ ở
niêm mạc. Tình trạng này cao nhất tại thời điểm 18 tháng (36,4%) do
có hiện tượng tiêu sống hàm, hàm giả không khít sát.
Tại thời điểm 12 tháng nhu cầu đệm lại nhựa là nhiều nhất (23,33%).
3.2.5. Theo dõi chất lượng hàm
Chất lượng hàm khung: tỷ lệ gãy phần kim loại là móc chiếm
tỷ lệ rất thấp 4,55% tại thời điểm 18 tháng.
Sự bám dính các chất màu, cặn vôi ở hàm khung theo thời gian
Xuất hiện các vết mầu, cặn vôi ở nhựa và kim loại từ sau 12
tháng. Sau 2 năm có 38,5% có vết mầu ở nhựa; 61,5% có cặn vôi ở
nhựa. Vết mầu nhựa thì nhiều hơn ở kim loại.
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng, X.quang của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Đa số bệnh nhân dưới 34 tuổi vì liên quan đến độ tuổi phát hiện
ra các bệnh lý, là nguyên nhân bệnh nhân phải cắt đoạn xương hàm

gây khuyết hổng xương hàm hoặc thời điểm bệnh nhân bắt buộc phải
điều trị bệnh. Trong các nguyên nhân này thì u men là hay gặp nhất.
Theo nghiên cứu của Lê Ngọc Tuyến, độ tuổi bệnh nhân trẻ chiếm đa
số dưới 34 tuổi chiếm 88%. So sánh về độ tuổi trong các nghiên cứu
phục hình hàm khung hoặc phục hình tựa trên Implant, để điều trị cho
các bệnh nhân mất răng sau phẫu thuật cắt đoạn xương hàm dưới thì
12
theo nghiên cứu của Carlos gồm 111 bệnh nhân, có độ tuổi từ 13 – 79,
trung bình là 52 tuổi, của Christian với 780 bệnh nhân, có tuổi trung
bình là 51,8%.
Về giới: trong nghiên cứu này tỷ lệ nam chiếm 54,5%, nữ chiếm
45,5%, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ này so với
nghiên cứu của Carlos và cộng sự trên 102 bệnh nhân có phẫu thuật
cắt đoạn vùng đầu mặt cổ, được tái tạo và phục hình bằng hàm tựa trên
Implant thì nam giới chiếm 69,6%, nữ giới chiếm 30,4%.
Theo phân loại của Kadota (2008) ở biểu đồ 3.1 có 3 bệnh nhân ở
mức độ A: còn để lại 1 phần xương không mất đoạn, đây là điều kiện rất tốt
cho phục hình vì khớp cắn vẫn ổn định, sống hàm có chiều cao trên hoặc
ngang bằng sàn miệng, niêm mạc trên sống hàm không hoặc ít di động. Có
1 bệnh nhân chiếm 3,03% bị cắt lồi cầu và tạo hình lồi cầu bằng sụn sườn.
Đây thực sự là thách thức đối với phục hình.
Vị trí răng mất trên cung hàm: vì nguyên nhân mất răng là do
khuyết hổng xương nên bệnh nhân thường mất nhóm răng. Chiếm nhiều
nhất là các bệnh nhân bị mất răng hàm lớn và răng hàm nhỏ: 36,4%, tiếp
theo là các bệnh nhân bị mất nhóm răng hàm lớn + răng hàm nhỏ + răng
nanh và một răng cửa chiếm 24,2%. Đây là các bệnh nhân có các răng
còn lại vẫn tạo được hình cung để giúp cho các móc và các thành phần
của hàm khung có sự vững ổn. Tuy nhiên, cũng có 18,2% bệnh nhân chỉ
còn lại răng hàm lớn và răng hàm nhỏ gây khó khăn khi làm phục hình.
Có 3 nguồn xương và 2 phương pháp ghép xương tự thân cho

bệnh nhân sau khuyết hổng xương hàm dưới là xương mào chậu, đầu
xương sườn (ghép xương không có cuống mạch nuôi), xương mác
(ghép xương có cuống mạch nuôi: ghép xương vi phẫu). Hai tỷ lệ bệnh
nhân này bằng nhau: 45,5% (15/33 bệnh nhân), có 9,1% bệnh nhân
trong nghiên cứu chỉ khuyết hổng 1 phần xương vẫn còn bờ nền xương
nên không ghép xương.
4.1.2. Các biến chứng, chức năng, thẩm mỹ khuôn mặt của nhóm
bệnh nhân nghiên cứu
4.1.2.1. Các biến chứng, chức năng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
♦ Biến chứng và chức năng sau mổ
Đa số các bệnh nhân đều ăn mềm trong thời gian một tháng sau
13
mổ. Có 72,8% bệnh nhân có rối loạn chức năng phát âm, thể hiện ở
nói nhanh và to khó. Đó là do chức năng cộng hưởng của khoang
miệng khi phát âm bị ảnh hưởng. Theo Murat Ozbek (2003) mối quan
hệ chặt chẽ giữa âm và vùng hình thành âm có thể bị ảnh hưởng khi
vùng tạo nên chúng thay đổi. Có 81,8% bệnh nhân thỉnh thoảng nhai
phải môi, má, lưỡi. Đó là do các rối loạn cân bằng thần kinh - cơ. Các
triệu chứng này cũng gặp ở các nghiên cứu của Julid (2008).
♦ Các triệu chứng của khớp thái dương hàm, hoạt động há ngậm
miệng, khớp cắn
Có 36,4% có tiếng kêu tại ổ khớp khi vận động, chứng tỏ đã có
sự tổn thương sụn khớp, điều này cần phục hình sớm và tái lập khớp
nhai đúng, không còn các điểm cản trở hay sang chấn khớp cắn. Có
66,7% bệnh nhân có biên độ hoạt động lồi cầu tăng. Các bệnh nhân
thuộc nhóm này hầu hết là các bệnh nhân ghép xương mào chậu tự do,
có sự biến đổi khớp cắn nhiều.
Đánh giá hoạt động há ngậm miệng dựa vào sơ đồ Posselt, có
78,8% có há ngậm miệng zich zắc, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
khớp thái dương hàm. Đặc biệt ở các bệnh nhân khuyết hổng xương

hàm dưới khi há miệng tối đa, thì phần cung hàm lệch về phía bên
phẫu thuật: 75,8%, miệng lệch về bên lành: 72,7% so với trục chính
giữa của khuôn mặt, độ lệch của cung hàm trung bình là 1,2 ± 0,7mm.
Sự lệch miệng về phía bên bị bệnh khi há miệng tối đa do sự co kéo cơ
và phần xương không cân xứng với bên lành của bên phẫu thuật. Mức
độ lệch về bên bị bệnh ở các bệnh nhân là khác nhau. Có 72,7% bệnh
nhân có lệch so với trục giữa hàm trên ở tư thế há tối đa về bên lành.
Có bệnh nhân há miệng tối đa lệch tới 12mm, trung bình 4,9 ± 3,2mm.
So sánh với nghiên cứu của Tống Minh Sơn thì chỉ có trên 40%
bệnh nhân mất răng gần nhất trên một năm, nhưng các bệnh nhân đó đã mất
răng trong một thời gian dài nên nhu cầu chỉnh khớp là 47,06%.
Hệ số nhai: hệ số nhai của các bệnh nhân nhóm nghiên cứu là
50,2 ± 14,1; chức năng nhai xếp theo thang điểm 100: 65,2 ± 15,0. Ở
tiêu chí chức năng nhai xếp theo nhóm tốt: các bệnh nhân thuộc nhóm
này ăn được các loại thức ăn hoặc chỉ trừ thức ăn dính hoặc quá cứng;
bệnh nhân khá có chế độ ăn là các loại thịt dai. Có 12 bệnh nhân chiếm
14
tỷ lệ 36,36% có hệ số nhai dưới 50%, trong đó có 75% các bệnh nhân
thuộc nhóm này có chế độ ăn trung bình, nghĩa là chế độ ăn chủ yếu là
thức ăn bình thường: thịt, cà rốt… Có 36,4% chỉ mất răng hàm lớn và
hàm nhỏ nhưng không có bệnh nhân nào có hệ số nhai trên 75. Các
bệnh nhân có hệ số nhai từ 50 – 75: 63,6% chiếm tỷ lệ cao nhất là các
bệnh nhân có chức năng nhai ở mức khá.
MAI là phương pháp cho độ chính xác mà không có quá nhiều
kỹ thuật phức tạp.
Kết quả của MAI phản ánh đặc điểm nhai, tâm lý của bệnh nhân
và thói quen nhai. MAI không chỉ phản ánh chức năng nhai của các răng
mà còn là khả năng đảo khối thức ăn của lưỡi, má, hoạt động ăn nhai của
khoang miệng. Kết quả đo trên ảnh cho thấy khả năng nghiền nát thức ăn
của bệnh nhân vì đánh giá đến các vùng sáp nhai có độ dầy 50µm. Theo kết

quả của biểu đồ 3.5 qua quan sát mầu sắc khối sáp nhai có MAI tốt chiếm
tới 81,8%, giá trị đo được qua ảnh là 0,67 ± 0,50 đây là mức trung bình so
với các nghiên cứu khác.
4.1.2.2. Thẩm mỹ khuôn mặt
Các đặc điểm hình thái - thẩm mỹ khuôn mặt: đánh giá sự mất
cân xứng của khuôn mặt liên quan đến vị trí khuyết hổng và phục hồi
vì: cành ngang và góc hàm dưới quy định độ rộng khuôn mặt, sự mất
cân xứng của khuôn mặt
Đánh giá yếu tố thẩm mỹ khuôn mặt bao gồm: sự cân đối của
khuôn mặt, tầng mặt dưới có bị lệch không, cành ngang đối xứng
không, góc hàm lồi hay lõm. 60,6% bệnh nhân có khuôn mặt lép bên
phẫu thuật, 24,2% bệnh nhân có rãnh môi thấp bên phẫu thuật, 36,4%
bệnh nhân có cành ngang không đối xứng, lép ở cành ngang, 87,9%
bệnh nhân có góc hàm bên phẫu thuật bị lõm. Các bệnh nhân có cả
vùng cành ngang không đối xứng và góc hàm bên phẫu thuật lõm thì
yếu tố thẩm mỹ bị ảnh hưởng rõ rệt.
4.1.3. Tình trạng sống hàm, răng, tổ chức quanh răng của bệnh nhân
4.1.3.1. Tình trạng sống hàm và vị trí các phanh
Tình trạng sống hàm do xương ghép tạo nên:
Chiều cao sống hàm là yếu tố được quan tâm đầu tiên vì nó
đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định của hàm giả, quyết định
15
thành công của phục hình. Bệnh nhân ghép xương mác có cuống mạch
nuôi có 5 bệnh nhân có chiều cao sống hàm tốt, chỉ có một bệnh nhân
ghép xương mào chậu có kết quả này. Các đoạn xương thẳng dẫn đến
lên cung răng khó khăn, không đảm bảo chịu lực nhai đúng trục dọc
của cung răng xuống sống hàm.
Vị trí bám của các phanh má, lưỡi, môi: nhiều trường hợp trong
quá trình khâu đóng vạt phanh má bị cắt một phần. Các bệnh nhân có
phanh má tạo sẹo kéo căng từ chỗ tiếp xúc với răng cuối cùng ngay

cạnh khoảng mất răng thì phải có chỉ định phẫu thuật tiền phục hình.
4.1.3.2. Tình trạng các răng được chọn làm răng trụ
Các răng được chọn làm răng trụ là các răng có mô cứng thân
răng và quanh răng tốt.
♦ Mô cứng thân răng
Các bệnh nhân trong nghiên cứu là các bệnh nhân trẻ, không có
tình trạng đa sâu răng, viêm quanh răng nên tất cả các răng trụ có tổ
chức cứng của thân răng nguyên vẹn, không có điều trị bệnh lý sâu
hoặc tủy răng, có một bệnh nhân có răng trụ đã được làm chụp sứ để
nâng cao khớp cắn. Đây là điều rất thuận lợi để mang móc cho hàm
khung. Tuy nhiên vì tình trạng ăn nhai kéo dài một bên hàm dẫn đến
42,0% răng trụ n2 bị mòn mặt nhai, với mức độ nhẹ nhất là lộ ngà,
hoặc đánh giá sâu 0,5mm vào ngà. Điều đó gây khó khăn trong quá
trình mài răng tạo ổ tựa và phần móc.
♦ Tình trạng vùng quanh răng
Theo Yoav Grossmann thì: vấn đề quan trọng khi lựa chọn răng
trụ là tỷ lệ giữa chiều dài thân răng và chân răng, tỷ lệ càng nhỏ tức
phần nằm trong xương ổ răng càng nhiều thì càng tốt cho răng trụ. Xác
định tỷ lệ này trên phim X.quang răng cận chóp.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều có tình trạng vùng quanh
răng tốt: tỷ lệ này chiếm tới 85,26%. Đây cũng là yếu tố thuận lợi cho
phục hình hàm khung.
♦ Độ lung lay của răng trụ: theo tuổi bệnh nhân có 63,2% các bệnh
nhân có răng trụ lung lay độ 1, ở độ tuổi 35 - 65. Nếu tính chung thì tỷ
lệ răng trụ lung lay độ 1 có 19 răng trong tổng số 95 răng, chiếm tỷ lệ
20%. Đây là các răng thường có sự sang chấn khớp cắn trong thời gian
chưa có răng giả, khi phục hình được điều trị sự lung lay có tiến triển
tốt lên, giảm độ lung lay. Theo nghiên cứu của Tống Minh Sơn, các răng
trụ có độ lung lay 1 ở răng n1 là 41,41% và n2 là 23,26%, độ 2 ở răng trụ
16

n1: 9,1%; răng trụ n2: 8,14%.
♦ Hình dạng chân răng trụ: trong nghiên cứu đa số là răng trụ dài,
thuôn nhiều. Đây thật sự không phải hình dạng thuận lợi cho răng trụ
hàm khung.
4.2. Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung
4.2.1. Điều trị phục hình hàm khung
4.2.1.1. Điều trị tiền phục hình
Có hai vấn đề được quan tâm nhất là phẫu thuật tạo vạt xoay,
cắt sẹo giảm căng và mài chỉnh khớp cắn ở những bệnh nhân có điểm
cản trở khớp cắn.
4.2.1.2. Thiết kế hàm khung
♦ Kiểu thanh nối chính
Kiểu thanh nối chính được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu là
tấm bản lưỡi, chiếm tới 60,6% còn lại có thanh lưỡi kép, không có thanh
lưỡi. Thanh lưỡi kép chỉ được sử dụng trong trường hợp trục các răng còn
lại ngả về phía lưỡi nhiều (đường cong Wilson biến đổi). Theo David thì
tấm bản lưỡi là tốt nhất. Tấm bản lưỡi vừa có tác dụng ổn định, chống
xoay tốt, vừa tăng cường liên kết các tựa để tăng cường nâng đỡ. Theo
John Beumer thì ưu tiên số một là tấm bản lưỡi, nếu thanh lưỡi kép thì
cũng chấp nhận được. Theo nghiên cứu của Kim, Seong - Kyun (2007):
về sinh cơ học chịu lực của răng trụ, khi các trụ được nẹp hay liên kết, hay
chịu lực cùng nhau thì lực tác động lên răng trụ giảm so với các răng trụ
đứng riêng lẻ. Vì vậy tấm bản lưỡi là phù hợp.
♦ Loại móc: móc đóng vai trò quan trọng trong sự lưu giữ của hàm giả,
ngoài ra còn giúp nâng đỡ và chống xoay cho hàm nhờ các tựa. Quyết
định móc loại gì phụ thuộc vào vị trí và độ lớn của vùng lẹm ở răng trụ,
được xác định trên song song kế. Các răng hàm lớn và răng hàm nhỏ
hay được chỉ định móc vòng, răng cửa và răng nanh hay được chỉ định
móc thanh. Móc thanh có tác dụng lưu giữ hơn móc vòng nhưng sự
nâng đỡ và ổn định thì kém hơn. 100% móc Aker kép là ở răng trụ n2

hoặc n3. Ở răng kế cận khoảng mất răng thì móc chữ I nhiều nhất chiếm
100%, tiếp theo là móc chữ T chiếm 81,8%. Các răng này đa phần là
răng cửa, các móc này đảm nhiệm vai trò chính là lưu giữ nên là móc
thanh. Kết quả này cũng phù hợp với tài liệu và nghiên cứu của John
Beumer: móc chữ I được chỉ định nhiều nhất cho răng cửa, răng nanh ở
ngay cạnh vùng mất răng cho hàm khung, ở bệnh nhân mất răng do
khuyết hổng xương hàm dưới. Răng cửa nghiêng kèm với độ lẹm <
17
0,25mm thì sẽ là móc chữ I: 69,6% móc chữ I là tương ứng với răng trụ
có độ lẹm 0,25mm. Móc Aker đơn hoặc kép có 75,8% ở răng trụ có độ
lẹm 0,5mm và 23,4% ở răng trụ có độ lẹm 0,75 mm. Đối với móc chữ T
phổ biến ở răng trụ có độ lẹm 0,5mm (63,6%).
Kiểu yên hàm khung: những bệnh nhân có sống hàm thuận lợi
cho phục hình, chịu lực tốt thì có yên hàm khung dạng lưới: có 7/33
bệnh nhân (21,21%), trường hợp bệnh nhân có sống hàm không thuận
lợi nhưng đoạn mất răng ngắn thì được làm yên dạng mắt cáo (thanh
đan) có 9/33 bệnh nhân (27,27%), những trường hợp bệnh nhân có
sống hàm không thuận lợi hẹp theo chiều ngang, đoạn mất răng dài
cần yên cứng chắc để hạn chế chống lại sự xoắn vặn của nối chính thì
làm yên dạng thanh đơn có đầu đinh: có 17/33 bệnh nhân chiếm
(51,51%). Các kiểu yên này đã được Stewart đề cập và khẳng định ưu
nhược điểm của từng loại. So sánh với nghiên cứu của Zlataric, Walid,
Graham thì hầu hết là dạng yên hình lưới.
♦ Lên răng
Với nguyên tắc giảm lực tác động xuống vùng sống hàm do
xương ghép đến mức có thể, đồng thời giảm chiều dài của cánh tay
đòn bẩy giúp hàm khung ổn định tốt hơn. 100% các bệnh nhân trong
nghiên cứu được lên răng tiếp khớp đến ½ phía gần răng 7 đối diện,
100% các răng đều là răng bán giải phẫu hoặc không giải phẫu (góc
múi răng không rõ). Nghiên cứu của Masako Yanagawa và cộng sự

(2004) và nghiên cứu của S. Sueda và K. Fueki (2003) đã khẳng định
không có sự khác biệt về lực nhai đối với phương pháp lên răng này
với lên răng đủ chiều dài cung răng với răng giải phẫu các góc múi
răng là 30 độ.
♦ Phương pháp lấy khuôn giải phẫu chức năng (lấy khuôn áp lực
có chọn lọc: phân đoạn hay từng phần có kèm lấy khuôn khoảng
trung tính hoặc không)
75,8% được thực hiện việc lấy khuôn lần 1 bằng khay lấy khuôn
cá nhân với vật liệu là Silicone. Các bệnh nhân này có vùng xương
ghép tạo nên sống hàm thấp hơn sàn miệng, niêm mạc phía trên di
động, các răng còn lại có sự biến đổi trục. Lấy khuôn lần 2 sau khi đã
thử khung được thực hiện ở 100% các trường hợp.
Với kỹ thuật lấy khuôn áp lực có chọn lọc, ưu điểm là lấy khuôn
sống hàm ở trạng thái chức năng, tức là tổ chức niêm mạc và dưới niêm
mạc ở trạng thái lún dưới áp lực. Điều này giúp cho chịu lực của vùng này
18
được tốt hơn. Trong nghiên cứu của Tống Minh Sơn tỷ lệ này là 45%.
Với kỹ thuật lấy khuôn áp lực có chọn lọc kết hợp khoảng trung
tính: vừa lấy khuôn vùng sống hàm vừa lấy khuôn khoảng phục hình
(khoảng giữa để lên cung răng còn lại khi có sự hoạt động của môi,
má, lưỡi, các cơ vùng sàn miệng) bằng Silicone và nhựa mềm có 14
bệnh nhân chiếm 42,42%, bằng hợp chất nhiết dẻo với nhựa mềm có
11 bệnh nhân chiếm 33,33%. Silicone vừa đảm bảo tính chính xác vừa
cho thời gian làm việc lâu hơn hợp chất nhiệt dẻo nên được dùng thích
hợp với khoảng mất răng dài.
Ngoài các ưu điểm của lấy khuôn áp lực có chọn lọc kỹ thuật
này, còn thêm ưu điểm là cho khoảng phục hình chính xác để có cung
răng phù hợp, giúp hàm ổn định tốt trước các hoạt động của môi, má,
cơ sàn miệng, lưỡi; chống lại các lực làm xoay hàm giả khi bệnh nhân
há miệng; bệnh nhân có sự thích nghi nhanh đem lại hiệu quả ăn nhai,

phát âm tốt hơn.
Nghiên cứu của John B. Holmes khẳng định: dù lấy khuôn phân
đoạn hay lấy khuôn với thìa cá nhân mà sử dụng algienate thì sự di
chuyển mẫu là lớn, cần phải dùng vật liệu: hợp chất Keer, Silicone,
kẽm oxit. Theo Mizuuchi (2002) lấy khuôn giải phẫu chức năng hay
lấy khuôn từng phần có kết hợp khoảng phục hình hoặc không thì tăng
độ bền cho răng trụ. Bao mẫu phần cung răng bằng Silicone cho phép
cung răng giả sau này nằm đúng ở vị trí trung hòa lực tác động làm
hàm di chuyển của má, lưỡi, sàn miệng giúp hàm giả ổn định hơn.
♦ Đệm hàm bằng nhựa mềm: hầu hết các bệnh nhân (28 bệnh nhân,
chiếm tỷ lệ 84,85%) có vùng sống hàm di động đều được đệm hàm bằng
nhựa mềm. Đệm hàm được thực hiện ngay khi lắp hàm: sau khi hoàn
thiện việc lắp hàm và bệnh nhân không cảm thấy đau hay có điểm vướng
cộm, đeo hàm quen sau đó đệm hàm. Có 7 bệnh nhân, chiếm 21,21% phải
đệm hàm lần hai sau 1 năm, 4 bệnh nhân phải đệm hàm lần hai tại thời
điểm 18 tháng, 4 bệnh nhân phải đệm hàm lần hai sau 2 năm. Các bệnh
nhân trong nhóm này đều là những bệnh nhân có niêm mạc trên sống hàm
di động, cần có một khoảng thời gian chịu lực nén nhất định. Shu - Hui
Mon (2001) cũng khẳng định hiệu quả của đệm hàm cho bệnh nhân
khuyết hổng xương hàm dưới, được phục hình bằng hàm khung: tăng
cường sự ổn định và không đọng thức ăn ở dưới nền hàm.
4.2.2. Hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm khung
Các bệnh nhân khuyết hổng xương hàm dưới đã được ghép
19
xương quan tâm chức năng ăn nhai và chức năng phát âm cần được
phục hồi. Chức năng ăn nhai tốt phụ thuộc vào: sự lưu giữ của hàm
khung, khớp cắn, sự thích nghi với hàm giả của bệnh nhân. Chức năng
phát âm được cải thiện khi bù đắp được sự thiếu hụt tổ chức sau phẫu
thuật và phụ thuộc vào sự thích nghi hàm.


Sự lưu giữ của hàm khung: đánh giá ngay tại thời điểm lắp hàm
khung: hầu hết các hàm khung đều có lưu giữ tốt (97%). Đóng góp
cho sự lưu giữ tốt của hàm là: móc được chỉ định đúng cho từng loại
răng trụ và vị trí vùng lẹm, phần cung răng đúng với khoảng phục hình
nên chống lại các lực do hoạt động của môi, má, lưỡi, vùng sàn miệng
làm di chuyển hàm. Đánh giá sau khi đeo hàm khung được 01 tháng:
kết quả vẫn như tại thời điểm ngay sau lắp hàm. Theo nghiên cứu của
Phạm Lê Hương với hàm khung có khung sườn bán cứng và khung
sườn nhún thì tỷ lệ lưu giữ tốt cũng chỉ đạt 90% tại thời điểm 01 tuần
sau khi lắp hàm.

Khớp cắn
Tại thời điểm lắp hàm, có 81,8% có sự chạm khớp ở tất cả các
răng, 18,2% có răng không chạm khớp (theo kết quả tại biểu đồ 3.9),
các bệnh nhân này có sự lệch trục răng, răng ở ngoài cung hàm, biến
đổi khớp cắn nhưng không có điều kiện để chỉnh răng trước khi làm
phục hình.

MAI
Sau một tuần sự thích nghi hàm khung của bệnh nhân ở mức
chấp nhận được, nhưng thường sau một tháng bệnh nhân thích nghi
hàm khung tốt hơn, nghiên cứu cũng áp dụng chỉ số MAI để đánh giá
khả năng ăn nhai của bệnh nhân ở bên hàm giả. So sánh chức năng
nhai ở bên răng thật trước và sau lắp hàm có nhóm tốt tăng từ 81,8%
(trước lắp hàm) lên 90,9% (sau lắp hàm); nhóm kém từ 12,1% (trước
lắp hàm) giảm xuống còn 0% (sau lắp hàm). Giá trị MAI đo được qua
ảnh chụp cũng có sự khác biệt: trước lắp hàm là 0,67 ± 0,50; sau lắp
hàm là 0,81 ± 0,23.
Theo biểu đồ 3.13, so sánh quan sát mầu sắc khối sáp nhai ở bên
răng thật sau lắp hàm, tỷ lệ tốt tăng lên 90,9% so với trước lắp hàm là

81,8%. Giải thích cho vấn đề này là do trong quá trình thiết kế hàm, các
điểm cản trở khớp cắn đã được mài chỉnh; sau lắp hàm các phần tựa ở
trên mặt nhai đồng thời cũng cải thiện được sự chạm khớp ở các răng.
Theo Asakawa (2005): chỉ số MAI ở hàm giả mới làm lại là
20
0,70 ± 0,68, còn ở hàm giả cũ khi các răng giả không có điểm chạm tốt
với khớp cắn đối diện thì -0,11 ± 1,13.
Theo Wacharasak (2005) với bệnh nhân phục hình tháo lắp
2 - 4 răng thì chỉ số MAI ở bên hàm giả là 0,65 ± 0,50 bên răng
thật là 1,06 ± 0,64.
Chỉ số MAI trong nghiên cứu của chúng tôi là 0,26 ± 0,71.

Chức năng nhai theo thang điểm 100: sau 2 tuần có 27,3% bệnh
nhân có chức năng ăn nhai tốt, nhưng sau 1 tháng tỷ lệ này đã tăng lên
39,4%. Điều đó chứng tỏ khi có sự thích nghi hàm thì chức năng nhai
đã được cải thiện. So sánh chức năng nhai của bệnh nhân theo thang
điểm 100 thì có trước lắp hàm có 51,5% bệnh nhân ở mức trung bình
nhưng sau lắp hàm chỉ còn 27,3%.

Hệ số nhai: trước lắp hàm không có bệnh nhân nào có hệ số nhai
trên 75 nhưng sau lắp hàm đã có 63,6% bệnh nhân có hệ số nhai trên
75. Điều đó chứng tỏ sự chạm khớp cắn ở các răng giả của hàm khung
đạt yêu cầu điều trị.

Phát âm: vì các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu có hàm giả phục
hồi nhiều tổ chức, nên việc làm quen hàm thường mất nhiều thời gian hơn
các bệnh nhân mất răng đơn thuần, nên tại thời điểm 1 tháng cũng có một
câu hỏi đánh giá về sự phát âm sau mang hàm: bệnh nhân chiếm tỷ lệ
87,8% có sự thay đổi sau lắp hàm, phát âm bình thường.


Thẩm mỹ: tại thời điểm ngay sau lắp hàm chủ yếu đánh giá sự cải
thiện khuôn mặt.
4.2.3. Sự ảnh hưởng của hàm khung lên răng và tổ chức quanh
răng của các răng còn lại
Tổ chức cứng của răng: tỷ lệ tốt là 100%. Nghiên cứu của
Yeung A.L.P. đánh giá sau khi bệnh nhân mang hàm khung bằng hợp
kim thường 5 - 6 năm ở 189 bệnh nhân: sâu răng mới (thân răng, chân
răng, chân răng + thân răng) vùng tiếp xúc với hàm: 8,5%, vùng không
tiếp xúc hàm: 4,5%; trong số 91 tựa được sửa soạn trên răng đã được
hàn phục hồi thì có 8,8% bị sâu răng thứ phát.
Tổ chức quanh răng, độ lung lay răng trụ và các răng còn lại:
đánh giá chỉ số OHI ở răng trụ theo chỉ số GI theo thời gian theo dõi
sau 06 tháng, 12 tháng, 18 tháng sau lắp hàm, chỉ số GI ở mức tốt
chiếm tỷ lệ 91,18% (6 tháng) ở các răng trụ n1 ngay cạnh khoảng
mất răng. Bản thân các răng này trước khi làm phục hình cũng có GI
hơn ở các răng trụ xa khoảng mất răng (n2).
21
Đánh giá chỉ số OHI và GI ở các răng trụ và răng còn lại tại
thời điểm 1 năm sau khi lắp hàm, tỷ lệ tốt ở cả hai nhóm răng
chiếm xấp xỉ 50%.
Theo Mine K. (2009), 12 - 65 tháng sau lắp phục hình hàm
khung cho 38 bệnh nhân có tuổi trung bình 62,2: 47% răng trụ và 32%
răng thường có GI từ 2 - 3; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Theo
Kern M. đánh giá sau 10 năm, tình trạng quanh răng ở 147 bệnh nhân
với 1209 răng (593 răng trụ, 616 răng không làm trụ) sử dụng Periotest
là phương pháp khách quan: không có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê giữa răng trụ và không phải răng trụ về các chỉ số.
Theo Amaral: so sánh giữa răng trụ và răng còn lại về chỉ số
OHI và GI có sự khác biệt sau 10 năm.
Tình trạng quanh răng – độ lung lay của răng trụ: theo kết quả

tại bảng 3.30 đánh giá tại thời điểm sau lắp hàm 18 tháng, mất bám
dính quanh răng của răng trụ n1 ở nhóm trung bình và ở răng trụ n2
cũng tương tự như ở bảng 3.29 tại thời điểm sau lắp hàm 12 tháng.
Túi quanh răng: Theo Yeung A.L.P. đánh giá sau mang hàm
khung 5 năm: túi quanh răng vùng răng hàm 13,2%, vùng răng cửa
7,1%. Vùng quanh răng không tiếp xúc với hàm thì cao hơn. Theo
Mine K (2009), độ lung lay răng trụ: 0,58 ± 0,55, răng thường: 0,13 ±
0,41. Túi lợi: răng trụ: 2,71 ± 0,73; răng thường: 2,61 ± 0,55. Sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu phục hình hàm khung cho các bệnh nhân
khuyết hổng xương hàm dưới đã được ghép xương hoặc còn bờ nền
xương chúng tôi rút ra các kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng, X.quang của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
- Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu: đa số bệnh nhân trẻ dưới
34 tuổi chiếm 54,5%. Nam giới chiếm 54,5%. Nguyên nhân gây
khuyết hổng xương hàm hay gặp là sau phẫu thuật để điều trị bệnh lý:
u men là nhiều nhất: 81,8%. Phương pháp ghép xương mào chậu
không có cuống mạch nuôi chủ yếu ở thì hai 92,9%, ghép xương mác
có cuống mạch nuôi chủ yếu cùng thì với cắt đoạn xương chiếm 69,2%
với ghép xương đơn.
- Các nhóm răng mất đa số là răng hàm lớn + răng hàm nhỏ:
36,4% hoặc một phần hai cung hàm: 24,2%.
- Chức năng nhai: theo thang điểm 100 có tốt chiếm 9,1%, khá:
22
39,4%, trung bình: 51,5%; hệ số nhai < 50 chiếm tới 36,4%.
- Khớp cắn: khớp thái dương hàm hoạt động có tiếng kêu: 36,4%,
tăng biên độ vận động: 66,7%, biến đổi đường cong Spee: 30,3%, biến đổi
đường cong Wilson: 30,3%, biến đổi sơ đồ Posselt: 78,8%.
- Thẩm mỹ: lép tầng mặt dưới: 66,7%, góc hàm lõm: 69,7%, cành

ngang không đối xứng: 63,6%.
- Phát âm: 72,8% nói to và nhanh khó; 12,1% khó phát âm s, tr
biểu hiện bằng mất âm và biến âm do ảnh hưởng của cộng âm.
- Há miệng tối đa có cung răng lệch về bên phẫu thuật 75,8%,
miệng lệch về bên lành 72,7%.
- MAI: qua quan sát màu sắc khối sáp nhai có 81,8% là tốt,
trung bình: 6,1%, kém: 12,1%; giá trị đo: 0,67 ± 0,50.
- Trên phim Panorama: chiều cao xương ghép thể hiện ba mức
độ: > 15mm có 9,1%; từ 10 - 15mm có 39,4%, < 10mm có 51,5%.
2. Đánh giá hiệu quả phục hồi chức năng và thẩm mỹ của hàm
khung trong điều trị mất răng ở nhóm bệnh nhân trên
2.1. Chức năng:
Phục hình hàm khung đã khẳng định kết quả khôi phục chức
năng ăn nhai, thẩm mỹ, phát âm của các bệnh nhân bị khuyết hổng
xương hàm dưới đã được ghép xương hoặc chỉ lấy xương đơn thuần.
- Lưu giữ hàm: trên 90%.
- Khớp cắn: 81,8% ở mức tốt.
- Chức năng ăn nhai mức tốt và mức khá trên 60%, hệ số nhai 50 - 75:
36,4%; trên 75: 63,6%.
- Phát âm: nói nhanh và to khó chỉ còn 12,1%; phát âm chữ s và tr khó
chỉ còn 3,0%.
- Khớp cắn: sự biến đổi của đường cong Spee, Wilson là: 6,1%.
- Chỉ số MAI đã thể hiện sự đánh giá chức năng nhai ở các răng giả
một cách khách quan.
+ Qua quan sát mầu sắc khối sáp nhai: ở bên răng hàm giả:
63,6% tốt, sau lắp hàm 90,9% tốt.
+ Giá trị đo trên ảnh: sau lắp hàm MAI = 0,81 ± 0,23; ở bên hàm
giả: 0,26 ± 0,17.
- Phát âm trước và sau mang hàm có sự thay đổi rõ rệt: nói nhanh và to
khó: trước 72,7%; sau: 12,1%.

2.2. Thẩm mỹ: thẩm mỹ ở giai đoạn ngay sau lắp hàm sau 1 tháng, 6
tháng lắp hàm đạt trên 90% trong đó khôi phục lại sự cân xứng khuôn
mặt là yếu tố quan trọng để đánh giá.
23
2.3. Ảnh hưởng của hàm khung đối với răng, tổ chức quanh răng và
niêm mạc lân cận
- Theo dõi các yếu tố về răng trụ tại thời điểm 6 tháng, 12 tháng, 18
tháng sau khi lắp hàm các yếu tố đa số đều đạt ở mức tốt.
- Sự khác biệt ở răng trụ và các răng còn lại không có ý nghĩa thống kê
về độ lung lay, chỉ số vệ sinh răng miệng.
- Chất lượng hàm: chỉ sau 18 tháng có hiện tượng gãy móc dây uốn.
KIẾN NGHỊ
1. Tăng cường nâng cao trình độ chuyên môn cho tuyến y tế cơ
sở về chẩn đoán và điều trị các bệnh lý lành tính hay ác tính vùng hàm
mặt. Các bệnh lý được chuẩn đoán sớm sẽ bảo tồn được nhiều răng,
khớp cắn ổn định, phục hình đạt kết quả tốt.
2. Áp dụng rộng rãi hơn nữa kỹ thuật ghép xương mác có cuống
mạch nuôi, đặc biệt là kỹ thuật xương mác chập đôi để tạo điều kiện
thuận lợi cho phục hình răng giả.
3. Các bệnh nhân mất răng do khuyết hổng vùng hàm mặt cần
được điều trị bằng các phục hình sớm, đặc biệt là hàm khung trong
thời gian từ sáu tháng đến một năm để các răng trụ ít bị tổn thương
nhất, khôi phục chức năng tốt cho người bệnh, ngăn ngừa các rối loạn
chức năng và thẩm mỹ nặng thêm.
24

×