LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài : “Tìm hiểu vấn đề đói nghèo của huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thực trạng và giải pháp’’, em đã nhận được sự hướng dẫn,
giúp đỡ tận tình của cô giáo, Thạc sĩ Đặng Thị Nhuần. Em xin gửi lời cảm ơn và
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu trường Đại học Tây Bắc,
các phòng ban chức năng cùng Ban chủ nhiệm khoa, các thầy cô giáo trong khoa Sử
- Địa đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn tới Sở thương binh lao động xã hội, Sở thống
kê huyện Tân Sơn - Phú Thọ… đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp cho em về các số
liệu để em có thể hoàn thành đề tài này.
Đề tài của em trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu chắc chắn còn nhiều hạn
chế, thiếu xót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo và các
bạn sinh viên để đề tài thêm đầy đủ và hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Nguyễn Văn Tuấn
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Nội dung
CTQG
PHGN
GIS
ESCAP
WB
NGOs
PPA
PPP
WHO
FAO
HPI
CN -TTCN - XD
TM - DV
MN
UBND
HĐND
NQTƯ
NXB
LĐTBXH
GD
Chính trị quốc gia
Phân hóa giàu nghèo
Hệ thông tin địa lý
Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Ngân hàng thế giới tại Việt Nam
Các tổ chức phi chính phủ
Đánh giá nghèo có sự tham gia của các nước
Thuyết ngang giá sức mua
Tổ chức y tế thế giới
Tổi chức lương thực và nông nghiệp
Chỉ số phát triển con người
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng
Thương mại - dịch vụ
Miền núi
Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân
Nghị quyết trung ương
Nhà xuất bản
Lao động thương binh xã hội
Giáo dục
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng
Trang
Bảng 1.1: Thu nhập bình quân đầu người/tháng
Bảng 2.1: Diễn biến thời tiết qua các năm
Bảng 2.2: Các loại đất huyện Tân Sơn
Bảng 2.3: Lao động huyện Tân Sơn từ 2007 - 2009
Bảng 2.4: Thu nhập bình quân đầu người của Tân Sơn giai đoạn
2007 -2011
Bảng 2.5: Số hộ nghèo của Tân Sơn từ năm 2007- 2011
Bảng 2.6: Sự phân hóa đói nghèo theo các xã trên địa bàn huyện Tân
Sơn năm 2012
18
23
24
27
34
37
40
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình vẽ
Trang
Hình 2.1: Biểu đồ quy mô dân số huyện Tân Sơn giai đoạn 2005 - 2010
Hình 2.2: Biểu đồ số hộ nghèo của Tân Sơn giai đoạn 2007 - 2012
Hình 2.3: Biểu đồ số hộ nghèo của các xã huyện Tân Sơn năm 2012
Hình 2.4: Biểu đồ cơ cấu đói nghèo theo nhóm dân tộc huyện Tân
Sơn năm 2012
26
38
41
42
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
3.1 Đối tượng nghiên cứu 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu 5
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 5
4.1. Mục tiêu 5
4.2. Nhiệm vụ 5
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 6
5.1. Quan điểm nghiên cứu 6
5.1.1. Quan điểm hệ thống 6
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ 6
5.1.3. Quan điểm tổng hợp 6
5.1.4. Quan điểm lịch sử 7
5.1.5. Quan điểm phát triển bền vững 7
5.2. Phương pháp nghiên cứu 7
5.2.1 Phương pháp nghiên cứu thực địa 7
5.2.2. Phương pháp đánh giá 7
5.2.3. Phương pháp thu thập, phân tích và xử lý số liệu 7
5.2.4 Phương pháp bản đồ, biểu đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS) 8
6. Giới thiệu cấu trúc đề tài 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI VÀ PHÂN HÓA
GIÀU NGHÈO 9
1.1 Quan niệm đói nghèo 9
1.1.1 Quan niệm về đói nghèo trên thế giới 9
1.1.2 Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam 11
1.2 Các chỉ tiêu đói nghèo 12
1.2.1 Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo trên thế giới 12
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo ở Việt Nam 15
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo 18
1.4 Đặc trưng của người nghèo 19
1.5 Tác động của đói nghèo đối với kinh tế - xã hội. 20
1.5.1 Tác động tích cực 20
1.5.2 Tác động tiêu cực 21
CHƯƠNG II: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO VÀ
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ 22
2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 22
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 22
2.1.1.1 Vị trí địa lý 22
2.1.1.2. Địa hình địa mạo 22
2.1.1.3 Đặc điểm khí hậu, thời tiết 23
2.1.1.4 Đặc điểm thủy văn 24
2.1.1.5 Các nguồn tài nguyên 24
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội 26
2.1.2.1. Dân số: 26
2.1.2.2. Lao động, việc làm 26
2.1.2.3. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng 27
2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
huyện Tân Sơn. 30
2.1.3.1. Thuận lợi 30
2.1.3.2. Những khó khăn thách thức 31
2.2 Thực trạng đói nghèo và phân hóa giàu nghèo ở huyện Tân Sơn 33
2.2.1 Chỉ tiêu thu nhập 33
2.2.1.1 Thu nhập bình quân đầu người 34
2.2.1.2 Thu nhập bình quân theo hộ gia đình 36
2.2.1.3 Tỷ lệ hộ đói nghèo 37
2.2.1.4 Sự phân hóa giàu nghèo 39
2.2.2 Chỉ tiêu y tế và chăm sóc sức khỏe 44
2.2.3 Chỉ tiêu về giáo dục 46
2.2.4 Chỉ tiêu về nhà ở và điện, nước 47
2.2.4.1 Chỉ tiêu về nhà ở 47
2.2.4.2 Chỉ tiêu điện sinh hoạt 48
2.2.4.3 Chỉ tiêu nước sạch 48
2.3 Nguyên nhân đói nghèo ở Tân Sơn 48
2.3.1 Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội 49
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan của người nghèo 49
2.3.3 Nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách 50
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO CHO
TÂN SƠN TRONG THỜI KỲ MỚI 52
3.1 Cơ sở để xác định những giải pháp giảm nghèo cho huyện Tân Sơn 52
3.1.1 Quan điểm và mục tiêu xóa đói giảm nghèo quốc gia 52
3.1.1.1 Quan điểm 52
3.1.1.2 Mục tiêu 54
3.1.2 Quan điểm và mục tiêu giảm nghèo huyện Tân Sơn 55
3.1.2.1 Quan điểm 55
3.1.2.2 Mục tiêu 56
3.2 Đề xuất một số giải pháp giúp huyện Tân Sơn trong công tác giảm nghèo.
57
3.2.1 Nhóm giải pháp hướng dẫn hỗ trợ người nghèo 58
3.2.1.1 Tuyên truyền để người nghèo chủ động vượt khó, có ý thức làm giàu 58
3.2.1.2. Hướng dẫn người nghèo phương thức canh tác mới 58
3.2.1.3. Tạo việc làm cho người nghèo 59
3.2.1.4. Hỗ trợ người nghèo những lúc gặp rủi ro 60
3.2.2 Nhóm giải pháp tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo. 60
3.2.2.1. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng - xã hội 60
3.2.2.2. Phát triển các dịch vụ công phục vụ người nghèo 61
3.2.2.3. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững 61
3.2.2.4. Nâng cao vai trò tổ chức, quản lý, thực hiện các chương trình xóa đói
giảm nghèo của các cấp chính quyền 62
PHẦN KẾT LUẬN 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 65
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới đã đi qua thập niên đầu của thế kỉ XXI với một nền văn minh
rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính toàn cầu. Một
trong những nỗi lo của nhân loại hiện nay chính là vấn đề đói nghèo đang
diễn ra trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Đói nghèo là vấn đề toàn cầu đang
diễn ra ở khắp các châu lục trên thế giới ở mức độ khác nhau và trở thành
thách thức lớn đối với sự phát triển của từng quốc gia, từng khu vực, từng dân
tộc và từng địa phương.
Trong khi nền văn minh thế giới đã đạt được nhiều tiến bộ khoa học - công
nghệ, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm sự vượt bậc giàu có
cho con người thì vẫn có một bộ phận tụt hậu phía sau những thành tựu ấy đó là
người nghèo. Đói nghèo diễn ra ở các mức độ khác nhau đặc biệt là ở những
nước đang và chậm phát triển.
Trong vòng 1/4 thế kỷ từ năm 1981 đến năm 2005, số người nghèo trên thế
giới đã giảm 1,9 tỷ người xuống 1,4 tỷ người. Báo cáo của ngân hàng trên thế
giới cho thấy tại các nước đang phát triển tỷ lệ dân số có thu nhập dưới 1,25
USD/người/ngày đã giảm một nửa từ 52% năm 1981 xuống còn 21,7% năm
2005. Tuy nhiên con số này vẫn cao và nhất là có sự chênh lệch giữa các khu
vực trên thế giới.
Ở nước ta vấn đề nghèo đói rất được Đảng và Nhà Nước quan tâm làm sao
cho người nghèo thoát nghèo đó vừa là động lực, vừa là mục tiêu chính cho sự
phát triển của xã hội. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà
liên quan tới tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội.
Mục tiêu cao nhất là làm sao cho mọi tầng lớp dân cư có thể hưởng những thành
quả kinh tế đem lại.
Mặc dù xuất phát điểm thấp, điều kiện tự nhiên, khí hậu khó khăn lại chịu
hậu quả nặng nề của chiến tranh song Việt Nam cũng đạt được những thành tựu
ấn tượng về đói nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm còn 14,5% năm 2008, các chỉ tiêu giáo
dục, y tế đã được cải thiện… được Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế ghi
nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó Việt Nam còn có xu hướng nổi lên phân cực giàu
nghèo trong xã hội, dù khoảng cách này mới chỉ ở mức trung bình song một
quốc gia có định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam thì vấn đề này cần nằm
trong tầm kiểm soát để tránh đi quá một ngưỡng cho phép.
2
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, với điều kiện kinh tế còn gặp nhiều
khó khăn, đặc biệt là những huyện ở vùng sâu, vùng xa đô thị, tỉ lệ hộ nghèo còn
cao. Bên cạnh những huyện phát triển còn có những huyện nghèo, có trình độ
phát triển không đều giữa mọi tầng lớp dân cư nhất là những huyện vùng cao.
Tại đây tập trung chủ yếu các đồng bào dân tộc thiểu số có trình độ học vấn, tập
quán canh tác lạc hậu, lối sống còn nhiều hủ tục. Nằm trong địa bàn tỉnh Phú
Thọ, huyện Tân Sơn còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đó cũng chính là
nguyên nhân dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc,
Huyện Tân Sơn (Phú Thọ) là 1 trong 62 huyện nghèo của cả nước, được thành
lập theo Nghị định 61/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007 trên cơ sở điều chỉnh địa giới
huyện Thanh Sơn, được tách ra từ một huyện nghèo với tỉ lệ dân tộc cao 82,3%.
Toàn huyện có sự phân hóa giàu nghèo khá sâu sắc trong khi tỉ lệ hộ nghèo cao năm
2012 đạt trên 23%. Bài toán đặt ra cho huyện là làm sao vừa đạt hiệu quả cao về
kinh tế, vừa giảm tình trạng phân hóa giàu nghèo làm cho cuộc sống của nhân dân
tăng cao.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên địa bàn tỉnh, biết được những vấn đề
nổi cộm này em mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu vấn đề đói nghèo
ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ thực trạng và giải pháp’’, làm khóa luận tốt
nghiệp, hi vọng với nội dung của khóa luận sẽ nhìn nhận đúng thực trạng đói nghèo
mà tỉnh Phú Thọ nói chung và huyện Tân Sơn nói riêng đang phải đối mặt. Đồng
thời bước đầu tìm ra giải pháp để khắc phục, đưa kinh tế huyện Tân Sơn đi lên và
chất lượng cuộc sống của nhân dân Tân Sơn được nâng cao.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nghèo đói là một hiện tượng xã hội, ở bất cứ một giai đoạn nào của hình thái
kinh tế - xã hội thì hiện tượng này cũng tồn tại. Đi kèm với nó là hàng loạt các vấn đề
nảy sinh trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Chính vì vậy điểm chung ở
hầu hết các quốc gia khác nhau trên thế giới cả các nước đang phát triển và chậm
phát triển là quan tâm tới chất lượng cuộc sống trong đó vấn đề nghèo đói là vấn đề
điển hình. Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh và trình độ phát triển kinh tế - xã hội mà
các nước có mức quan tâm và hướng giải quyết khác nhau.
Đói nghèo xuất hiện từ lâu nhưng mãi tới đầu thế kỷ XX con người mới nhận
thức được tầm quan trọng và hệ quả to lớn của nó đối với xã hội. Nền tảng định hình
đầu tiên là nghiên cứu của Seebohm Rơntree người Mỹ vào năm 1901. Ông đã khắc
họa thảm cảnh của người nghèo thông qua hàng loạt các phân tích và điều tra cụm
dân cư thành phố New York. Nghiên cứu này trở lên nổi bật lúc bấy giờ và hai
3
nghiên cứu sau này của ông năm 1941 và 1951 đã khiến các tổ chức quốc tế phải suy
nghĩ về vấn đề này một cách nghiêm túc.
Năm 2000 Ngân hàng thế giới đã chính thức công bố: “Báo cáo về tình hình
phát triển thế giới - tấn công nghèo đói” ở tầm vĩ mô. Báo cáo này cho thấy số lượng
lớn người nghèo đang sống trên thế giới bên cạnh tầng lớp giàu có. Báo cáo cũng thể
hiện những luận điểm mới, cách tiếp cận và đánh giá mới trên nhiều phương diện
của vấn đề nghèo đói, nâng nghèo đói trở thành vấn đề mang tính cấp thiết của toàn
nhân loại.
Những năm sau này nghèo đói được tìm hiểu và xem xét ở khắp nơi trên thế
giới. Ở Áo, Đức, Mỹ… và các quốc gia phát triển khác, vấn nạn này được nghiên
cứu thông qua sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế như UNICEF, WB, UNDP…. Các
báo cáo phát triển con người đã liên tục theo dõi mức sống và chất lượng quốc gia
theo thời gian đặc biệt là các nước nghèo và các nước chậm phát triển.
Ở Việt Nam vấn đề nghèo đói và xóa đói giảm nghèo đã được tiến hành những
năm đầu của thập niên 90, công tác này của Việt Nam được các tổ chức nước ngoài
và các tổ chức phi chính phủ quan tâm thường xuyên và giúp đỡ mọi mặt nhất là về
tài chính. “Việt Nam đánh giá đói nghèo và chiến lược” của Ngân hàng thế giới vào
tháng 1/1995 đã xem xét tình trạng nghèo đói của nước ta trong bối cảnh kinh tế - xã
hội khi vừa kết thúc chiến tranh và bắt tay vào đổi mới. “Chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” được chính phủ phê duyệt vào ngày 21/5/2002
đã cụ thể hóa các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội với trọng tâm là công tác xóa đói giảm
nghèo, bản đề án đã đưa ra đầy đủ các chi tiết và kế hoạch phù hợp với mục tiêu phát
triển của Liên Hợp Quốc đã công bố hai năm trước đó.
Cái nhìn tổng quan về diễn biến đói nghèo của nước ta thể hiện rõ thông qua
hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam với: “Báo cáo phát triển Việt
Nam năm 2000 - Tấn công nghèo đói”; “Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 –
nghèo”; “Báo cáo chung về nghèo đói năm 2007, 2008, 2009”. Những nghiên cứu
đã cho ta thấy rõ đói nghèo là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
Phân cực giàu nghèo tất yếu nảy sinh trong một xã hội phát triển. “Mức sống
trong thời kỳ bùng nổ kinh tế Việt Nam”; “Đói nghèo và bất bình đẳng” chỉ ra thực
tế khoảng cách giàu nghèo và sự chênh lệc về mức sống giữa các khu vực các nhóm
thu nhập. Đi sâu vào sự phân hóa này ở nước ta có: “Giàu nghèo trong nông thôn
hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Tiêm, một số tác giả như Nguyễn Thị Hà, Vũ
Quốc Huy… cũng bày tỏ sự quan tâm của mình đến vấn đề tăng trưởng, đói nghèo
và bất bình đẳng trong xã hội.
4
Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo không chỉ có các nhà nghiên cứu xã hội và
nhân văn quan tâm mà các nhà điạ lý cũng quan tâm với các nghiên cứu có cái nhìn
khá tổng thể về vấn đề nghèo đói như: “Nghèo đói và sự chênh lệch trong phát triển
vùng ở Việt Nam” trong cuốn tạp chí khoa học số 2 năm 2006 của GS.TS Nguyễn
Viết Thịnh đã tái hiện bức tranh nghèo đói ở Việt Nam và các mức độ chênh lệch
khác nhau trong phát triển bền vững. Đây là đóng góp lớn của tác giả khi luận giải
một cách tổng quát và khách quan giúp người đọc có cái nhìn đa chiều về vấn đề
đang được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Bên cạnh đó, còn có các đề tài tiêu biểu
là đề tài cấp Bộ của PGS.TS Nguyễn Minh Tuệ - “Vấn đề đói nghèo – thực trạng và
giải pháp”. Tác giả đã thành công khi tập trung nghiên cứu khu vực có tỉ lệ hộ nghèo
cao của vùng trung du miền núi phía Bắc. Quan trọng hơn, trên cơ sở lý luận và thực
tiễn tác giả đã tìm ra nguyên nhân mang tính chất bề mặt chi phối tình trạng nghèo
của người dân đồng thời đề cập tới các giải pháp thiết thực và hiệu quả cho công tác
xóa đói giảm nghèo trong vùng.
Về luận văn, luận án có các công trình sau: Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn
Thị Hằng: Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay (1999), luận
văn đã đề cập đến vấn đề nghèo đói ở nông thôn nước ta hiện nay diễn ra như thế
nào. Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế
thị trường của Việt Nam hiên nay, của học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2001. Nói về
sự phát triển của nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của đất nước thì vấn đề
xóa đói giảm nghèo cần được quan tâm hơn nữa, Luận văn thạc sĩ: Đảng bộ tỉnh
Ninh Bình lãnh đạo thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo. Nói về các chính sách,
biện pháp xóa đói giảm nghèo mà Đảng bộ tỉnh Ninh Bình đã thực hiện đồng thời rút
ra một số kinh nhiệm và bài học cho tỉnh thực hiện công tác giảm nghèo. Bên cạnh
đó, đề tài về chất lượng cuộc sống dân cư được khá nhiều tác giả lựa chọn điển hình
như: “Phân tích chất lượng cuộc sống của dân cư thành phố Hải Phòng” của
Nguyễn Thị Kim Thoa: “Phân tích chất lượng cuộc sống của dân cư tỉnh Thái
Nguyên” của Phạm Thu Thủy… Trong đó nghèo đói được xem xét và đánh giá ở
phạm trù rộng hơn và có ý nghĩa hơn khi gắn với mức hưởng thụ về y tế, giáo dục và
các vấn đề an sinh xã hội.
Trong những năm gần đây, trước những đòi hỏi bức bách của thực tiễn, vấn đề
về phân hoá giàu nghèo được rất nhiều nhà học giả, nhà báo quan tâm và đã được
nhà nước, chính phủ, các cơ quan chức năng nghiên cứu. Tuy nhiên hầu hết các hình
thức nghiên cứu chỉ dừng lại ở những bài báo, những bài nghiên cứu nhưng chỉ đề
cập tới một số mặt của sự phân hoá giàu nghèo như: xoá đói giảm nghèo, giảm bất
bình đẳng xã hội, hoặc các giải pháp nhằm hạn chế sự PHGN Một số cuốn sách
nghiên cứu về sự PHGN đã được xuất bản như: Phân hoá giàu nghèo ở một quốc
5
gia khu Châu á- Thái Bình Dương của tác giả Vũ Văn Hà, cuốn sách đã nêu được
vấn đề cấp bách của phân hóa giàu ngèo trong khu vực Châu Á một khu vực được
coi là khu vực đang phát triển hiện nay.
Ở tỉnh Phú Thọ cũng có đề tài: Những giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo ở
nông thôn Phú Thọ hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Hải. Bài viết đã đề cập đến tình
hình đói nghèo ở nông thôn Phú Thọ và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện
công tác xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn. Về huyện Thanh Sơn có tác giả Sa
Thị Tuyết nghiên cứu đề tài: Phát triển kinh tế xóa đói giảm nghèo ở huyện Thanh
Sơn tỉnh Phú Thọ. Bài viết đã thể hiện được vai trò đặc biệt quan trọng của việc phát
triển kinh tế trong công tác xóa đói giảm nghèo của huyện miền núi Thanh Sơn.
Qua đó có thể thấy vấn đề giảm nghèo được khá nhiều giới nghiên cứu quan
tâm. Tuy vậy, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề nghèo đói và phân hóa
giàu nghèo của huyện Tân Sơn từ khi thành lập năm 2007 đến nay dưới góc độ kinh
tế - xã hội trong khi Tân Sơn là một huyện nghèo nhất tỉnh Phú Thọ hiện nay có sự
chênh lệch mức sống khá rõ, là một trong 62 huyện nghèo của cả nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghèo đói là một hiện tượng xã hội phức tạp trong đó khóa luận tập trung
nghiên cứu vấn đề nghèo đói trên địa bàn huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
* Không gian: Địa bàn huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ.
* Thời gian: Số liệu từ năm 2007 khi huyện chính thức được thành lập
đến năm 2012.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu
Đề tài tập trung phân tích thực trạng đói nghèo và phân cực giàu nghèo tại
huyện Tân Sơn, từ đó rút ra những kinh nghiệm nhằm thực hiện có kết quả chủ
trương, chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng trên địa bàn huyện trong thời gian
tới, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
4.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
- Tổng quan cơ sở lý luận về đói nghèo và phân hóa giàu nghèo.
6
- Tìm hiểu các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống của
người dân trên địa bàn huyện, biết được những thuận lợi và khó khăn nhất định.
- Phân tích thực trạng đói nghèo và phân hóa giàu nghèo tại huyện Tân Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp giải quyết vấn đề đói nghèo của huyện Tân Sơn
trong thời gian tới.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm hệ thống
Đây là một quan điểm quan trọng chỉ dẫn các quá trình nghiên cứu các đối
tượng phức tạp. Theo quan điểm này, khi nghiên cứu một vấn đề nào đó phải đặt
trong vị trí tương quan giữa nhiều vấn đề, các yếu tố trong hệ thống cao hơn trong
cách phân vị thấp hơn.
Trong khoa học Địa lý, lý thuyết hệ thống đã trở thành một trong những cơ sở
lý luận cơ bản trong quá trình nghiên cứu. Trên quan điểm hệ thống, các vấn đề kinh
tế - xã hội nói chung đều có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đói nghèo của tỉnh
làm nên cấu trúc đói nghèo của vùng và cấp quốc gia. Mặt khác, bản thân vấn đề đói
nghèo của tỉnh lại chia hệ thống nhỏ hơn là cấp huyện.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Quan điểm lãnh thổ là một quan điểm đặc thù của địa lý học. Bất cứ một đối
tượng nghiên cứu địa lý nào cũng gắn liền với không gian lãnh thổ nhất định. Tại đó
có sự phân hóa và phụ thuộc lẫn nhau trong lãnh thổ đồng thời cũng có mối quan hệ
chặt chẽ với các lãnh thổ xung quanh trên phương diện tự nhiên hay kinh tế - xã hội.
Các chỉ tiêu về nghèo đói có mối quan hệ qua lại với nhau và cùng chịu tác
động của nhiều yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội. Tùy thuộc vào sức ảnh hưởng
của các yếu tố mà nghèo đói diễn ra với mức độ khác nhau. Trong từng thời
điểm và hoàn cảnh, nghèo đói lại tác động ngược trở lại, tạo nên mối liên hệ
phức tạp, thậm chí còn là rào cản cho sự phát triển của quốc gia, của vùng hoặc
tiểu vùng. Nghiên cứu vấn đề đói nghèo của huyện Tân Sơn cần đặt trong bối
cảnh chung của tỉnh Phú Thọ nói riêng và cả nước nói chung. Mỗi vùng có
những điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội, có các tiềm năng phát triển
kinh tế khác nhau. Việc vận dụng quan điểm này vào nghiên cứu nhằm phát huy
tất cả các tiềm năng kinh tế của vùng nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
5.1.3. Quan điểm tổng hợp
Nghiên cứu tổng hợp các tiềm năng và thực trạng đói nghèo và phân hóa giàu
nghèo tại huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ từ đó rút ra một số kinh nghiệm và đề xuất
một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế xã hội của huyện.
7
5.1.4. Quan điểm lịch sử
Hiện nay ở bất cứ quốc gia nào thì vấn đề đói nghèo cũng luôn được chính phủ
quan tâm chú ý. Trải qua những mốc thời gian khác nhau, các nhân tố ảnh hưởng
đến đói nghèo cũng khác nhau và bức tranh đói nghèo ở Tân Sơn chắc chắn cũng có
những nét biến đổi. Nhận thức đúng đắn quan điểm lịch sử này giúp cho đề tài nhìn
nhận những đặc điểm và diễn biến đói nghèo trong mối quan hệ quá khứ - hiện tại -
tương lai và trong bối cảnh thời kỳ đổi mới. Trong những năm qua xoá đói giảm
nghèo ở Tân Sơn đã đạt được những thành tựu và còn gặp những hạn chế nào. Từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra hướng giải quyết mới.
5.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại nhưng
không làm ảnh hưởng tới lợi ích của thế hệ tương lai, cũng như đáp ứng nhu cầu của
chính họ. Sự phát triển đảm bảo cả 3 mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường. Giải quyết
vấn đề đói nghèo và phân hóa giàu nghèo đảm bảo cho cuộc sống người dân được tốt
hơn. Vận dụng quan điểm này ta có những biện pháp tốt đề cho nhân dân thoát
nghèo không tái nghèo, chênh lệch mức sống giảm rõ rệt.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp nghiên cứu thực địa
Điều tra khảo sát thực địa là phương pháp khá quan trọng trong nghiên cứu địa
lý. Điều tra khảo sát thực tế sẽ giúp cho luận văn có tính thực tế, gắn liền giữa lý
thuyết và thực tiễn, đối chiếu với các thông tin số liệu thu thập được đồng thời bổ
sung thông tin từ thực tế mà sách vở chưa có. Từ đó giúp đánh giá của tôi sẽ có cơ sở
khoa học vững chắc hơn.
Để thực hiện khóa luận tôi tiến hành nhiều đợt kiểm tra tại địa bàn nghiên cứu,
chúng tôi tiến hành quan sát tìm hiểu đời sống của nhân dân. Tôi cũng làm việc với
các cơ quan địa phương từ xã, huyện đến tỉnh để thu thập tư liệu. Kết quả điều tra là
cơ sở để khẳng định một số nhận định trong quá trình nghiên cứu.
5.2.2. Phương pháp đánh giá
Đánh giá sự thay đổi hay không thay đổi về diễn biến nghèo, những tồn tại và
những vấn đề đã được giải quyết là những điều cần thiết trong quá trình nghiên cứu
và đánh giá nghèo đói trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
5.2.3. Phương pháp thu thập, phân tích và xử lý số liệu
Sau khi tiến hành khảo sát, nghiên cứu thực tế, làm việc với các cơ quan ban
ngành… từ đó thu thập được số liệu quan trọng. Sau đó tôi tiến hành xử lý thông tin
qua hệ thống phân tích - tổng hợp, kết hợp với ngoại suy và nội suy.
8
5.2.4 Phương pháp bản đồ, biểu đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Là một phương pháp quan trọng làm tăng tính trực quan của các đối tượng
được thể hiện. Đây được coi là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc phản ánh hiện
trạng nghèo đói và phân hóa giàu nghèo trên địa bàn huyện.
6. Giới thiệu cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung để tài gồm
có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về đói nghèo và phân hóa giàu nghèo.
Chương II: Những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo và thực trạng đói nghèo ở
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
Chương III: Đề xuất một số giải pháp giảm nghèo ở huyện Tân Sơn trong thời
gian tới.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHÈO ĐÓI VÀ
PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO
Đói nghèo và tấn công chống đói nghèo luôn là mối quan tâm hàng đầu của
các quốc gia trên thế giới. Đói nghèo là một trong những nguyên nhân gây ra
những xung đột chính trị, xung đột giai cấp, dẫn đến bất ổn về chính trị, kinh tế
xã hội. Mọi dân tộc dù khác nhau về thể chế chính trị, khuynh hướng phát triển
kinh tế, song đều có mục tiêu làm thế nào để quốc gia mình, dân tộc mình hưng
thịnh. Trong thực tế ở một số nước cho thấy, khi phát triển nhanh bao nhiêu,
năng suất lao động càng tăng bao nhiêu thì tình trạng đói nghèo của một bộ phận
dân cư càng bức xúc bấy nhiêu và có nguy cơ dẫn đến xung đột.
Trong lịch sử xã hội loài người, đặc biệt là xã hội có giai cấp, đói nghèo đã
xuất hiện và tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của
từng quốc gia, từng khu vực và toàn bộ nền văn minh hiện đại. Tuy vậy, nhận
thức, cách tiếp cận và phương thức giải quyết vấn đề đói nghèo vẫn có sự khác
biệt giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế và tổ chức phi chính phủ.
Đói nghèo là một hiện tượng xảy ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Tùy vào từng thời điểm khác nhau mà các quốc gia có sự nhìn
nhận, đánh giá về đói nghèo khác nhau. Song thống nhất lại, khái niệm nghèo
dùng để chỉ mức sống của một nhóm dân cư, một nhóm quốc gia so với mức
sống chung của cộng đồng hay của quốc gia khác.
1.1 Quan niệm đói nghèo
1.1.1 Quan niệm về đói nghèo trên thế giới
Với kim chỉ nam “coi đấu tranh chống đói nghèo là sứ mệnh, là trọng
tâm”, tổ chức Ngân hàng Thế giới (WorldBank) với tất cả tâm huyết và trách
nhiệm của mình đã hoàn thành: “Báo cáo về tình hình phát triển thế giới – Tấn
công đói nghèo, năm 2002”. Bản báo cáo này ra đời là một đóng góp thiết thực
vào việc tranh luận giàu nghèo trong xã hội. Nó tái hiện bức tranh ảm đạm về
tình hình đói nghèo trên thế giới, đồng thời vạch ra nguyên nhân kế hoạch hành
động cho mục tiêu về một thế giới không còn đói nghèo trên mọi phương diện.
Trong báo cáo, nhóm tác giả đi sâu vào bản chất của đói nghèo. Báo cáo
này đã chấp nhận một quan điểm truyền thống hiện nay về đói ngèo (được báo
cáo trong bản báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1990): Đói nghèo
“không chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật chất (được đo lường theo một khái
10
niệm thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng) mà còn là sự hưởng thụ thiếu thốn
về giáo dục và y tế”.
Điểm đáng ghi nhận là báo cáo này đã mở rộng quan niệm về đói nghèo khi
tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, dễ gặp rủi ro của nghười nghèo. Báo cáo
nêu bật, nghèo có nghĩa là: “không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không ai
chăm sóc, mù chữ và không được đến trường”. Đối với người nghèo, nhóm tác
giả chỉ ra: “Người nghèo dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất lợi nằm ngoài
khả năng kiểm soát của họ. Họ thường các thể chế của nhà nước và xã hội xử tàn
tệ, bị gạt ra rìa và không có tiếng nói quyền lực trong các thể chế đó”.
Trước đó, vào tháng 3 năm 1993, tại hội nghị Quốc tế về chống đói nghèo
do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức
tại Bangkok (Thái Lan), người đã bàn đến khái niệm thế nào là đói nghèo và
phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề đói nghèo sao cho có hiệu quả. Qua
thảo luận nhiều vòng, hội nghị đã đi đến sự thống nhất về quan niệm nghèo khổ:
“Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng vùng mà những
phong tục ấy được mọi người thừa nhận”.
Khái niệm nghèo khổ nêu trên cũng nói lên rằng, sẽ không có một chuẩn
nghèo chung cho tất cả các quốc gia và các khu vực, vì nó phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và phong tục tập quán của từng vùng,
đó là sự thay đổi theo không gian. Mặt khác, chuẩn nghèo cũng sẽ thay đổi theo
thời gian chứ không phải là một đại lượng bất biến.
Để đánh giá rõ hơn mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để con người có thể sống một cuộc sống
tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này
và các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo thay đổi theo không gian và thời gian. Tổ
chức Y tế thế giới định nghĩa nghèo tuyệt đối (hay nghèo theo thu nhập) như
sau: “Một người là nghèo khổ khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa thu nhập
bình quân đầu người hàng năm của quốc gia”. Họ còn nhận định, nghèo thu
nhập “là sự đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một người có thể mua
được một lượng lương thực, thực phẩm 2100 – 2300 Kcal/người/năm”.
Nghèo đói vẫn tập trung chủ yếu ở các nước đang và chậm phát triển. Để
có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này, Robert Mc Namara - khi còn là giám
đốc của Ngân hàng Thế giới - đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Ông định
11
nghĩa:’’Nghèo tuyệt đối là sống ở danh giới ngoài cùng của tồn tại. Người
nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn
tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê, mất phẩm cách vượt quá mức tưởng tượng mang
dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới tri thức chúng ta”.
Khái niệm của Robert chỉ ra mức nghèo tận cùng của một bộ phận dân cư
khi điều kiện sống của họ chỉ đảm bảo cho sự tồn tại. Đồng thời, nó cũng cho ta
thấy ngoài việc sử dụng thu nhập hay tiêu dùng để xác định và đo lường đói
nghèo thì có nhiều yếu tố khác quyết định đến tình trạng sống của con người mà
tình trạng này được gọi là nghèo tương đối (hay nghèo về con người). Theo đó,
nghèo tương đối có thể được xem như là mức độ sống thấp hơn của một số tầng
lớp xã hội trong mối tương quan so sánh với sự xung túc của xã hội đó.
Mức nghèo tuyệt đối thường có phương thức tính toán nên danh giới nghèo
tuyệt đối được xác lập cụ thể. Ngược lại, danh giới giữa nghèo tương đối rất khó
xác định bởi nó không có một tiêu chuẩn chung nào xác định. Nó phụ thuộc chủ
yếu vào phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của từng quốc gia và mức độ quan
tâm điều chỉnh của quốc gia đó.
Như vậy, ở phạm trù rộng hơn và ý nghĩa hơn, nghèo tương đối không chỉ
bao hàm mức tiêu dùng và thu nhập thấp mà còn bao gồm cả mức hưởng thụ
thấp về giáo dục, y tế và các lĩnh vực khác của sự phát triển con người. Đặc biệt,
nghèo tương đối còn đề cập đến “sự thiếu quyền lực và tiếng nói, cũng như tính
chất cũng bị tổn thương và đe dọa của người nghèo”. Trong những hoàn cảnh
nhất định, họ không có tiếng nói chính trị thậm chí còn bị tẩy chay và sống biệt
lập với xã hội.
Những tiêu chí đánh giá nghèo đói, dù xuất phát từ tổ chức nào và thời
điểm nào thì về cơ bản, cũng có sự thống nhất về mặt định tính và đều phản ánh
3 khía cạnh của người nghèo: Không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở
mức tối thiểu, có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân
cư, thiếu cơ hội lựa chọn trong quá trình phát triển.
1.1.2 Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam
Công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta bắt đầu từ những năm đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ trước, khi các nước trong khu vực thực hiện từ thập kỷ 70, 80.
Trên phạm vi thế giới, mãi đến đầu những năm 1990, các tổ chức mới chính
thức nghiên cứu, hình thành hệ thống lý luận và phương pháp luận cho cuộc
chiến chống đói nghèo. Và trong nhận thức của người Việt Nam, khi nói đến
nghèo đói thì mọi người đều hiểu rằng đó là tình trạng người dân cơm không đủ
12
ăn, áo không đủ mặc, con cái không được học hành tử tế, ốm đau không có tiền
chữa bệnh, nhà cửa tạm bợ….
Các tài liệu và các công trình nghiên cứu của hầu hết các tác giả Việt Nam
đều thống nhất với định nghĩa chung về nghèo do ủy ban kinh tế - xã hội châu Á
và Thái Bình Dương của liên hợp quốc (ESCAP) đưa ra tại hội nghị ở Bangkok-
Thái Lan vào tháng 9/ 1993.
Ngoài định nghĩa chung về đói nghèo, nước ta còn sử dụng rộng rãi hai
định nghĩa và về cơ bản cũng đều bắt nguồn từ ngân hàng thế giới.
- Nghèo đói lương thực - thực phẩm (tương đương với nghèo tuyệt đối,
nghèo về thu nhập của WB): Được xác định bằng số tiền chi phí cho nhu cầu
thiết yếu để duy trì sự sống với mức tiêu dùng 2100 Kcal/người/ngày.
- Nghèo đói chung (tương đương với nghèo tương đối, nghèo về con
người): Được xác định bằng số tiền chi phí để mua đủ một lượng hàng hóa
lương thực, thực phẩm tương đương với mức tiêu dùng năng lượng 2100
Kcal/người/ngày. Và một số mặt hàng phi lương thực, thực phẩm…
Tuy có sự thống nhất cao về khái niệm nhưng Việt Nam cũng có những đặc
điểm khác với nhiều nước trong vấn đề nhìn nhận đánh giá về nghèo khổ. Bên
cạnh khái niệm nghèo của ESCAP, ta còn sử dụng thêm khái niệm đói nghèo để
chỉ mức độ thấp của nghèo của một bộ phận dân cư. Đó là bộ phận dân cư
nghèo, có mức sống dưới tối thiểu (nhu cầu cơ bản) không đủ điều kiện vật chất
duy trì cuộc sống. Đây là bộ phận thiếu ăn ít nhất một tháng trong năm, phải đi
vay nợ nhưng không có khả năng chi trả. Nói cách khác, đói là nấc thang thấp
nhất của nghèo.
Hiện nay, tình trạng đói đã không được nhắc đến trong các văn kiện chính
thức của Đảng từ năm 2001. Mặc dù vậy, cụm từ “xóa đói giảm nghèo” vẫn
được sử dụng chỉ một nội dung hẹp hơn là đấu tranh để giảm nghèo, tiến tới xóa
đói giảm nghèo.
1.2 Các chỉ tiêu đói nghèo
1.2.1 Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo trên thế giới
Chuẩn nghèo là bước đo mức sống của dân cư để phân biệt trong xã hội ai
thuộc diện nghèo và ai không thuộc diện nghèo, từ đó có những chính sách trợ
giúp cho người nghèo tiếp cận với những thành quả của sự phát triển kinh tế và
đảm bảo công bằng xã hội giữa các nhóm dân cư. Thực tiễn và lí luận đã chỉ ra
rằng: “Hậu quả của thiên tai, lũ lụt và khủng hoảng kinh tế, người nghèo là
13
người chịu trước, còn thành quả của phát triển kinh tế - xã hội người nghèo là
người hưởng sau”.
Xuất phát từ khái niệm về đói nghèo của ESCAP và luận điểm cơ bản trên,
việc tiếp cận xác định chuẩn nghèo phải dựa vào mức sống của dân cư trong
từng giai đoạn cụ thể của mỗi quốc gia. Với mức thu nhập hay chi tiêu nào thì
người dân đáp ứng được nhu cầu cơ bản? Dưới mức đó thì các quyền cơ bản về
sinh tồn và hưởng thụ của họ có được đảm bảo trong xã hội?
Trải qua hơn một thế kỷ, trên thế giới đã hình thành ba phương pháp tiếp
cận chuẩn nghèo chủ yếu như sau:
+ Phương pháp dựa vào nhu cầu chỉ tiêu
+ Phương pháp dựa vào thu nhập thực tế
+ Phương pháp dựa vào đánh giá của người dân
Trong ba phương pháp thì phương pháp đầu được các quốc gia sử dụng khá
phổ biến. Phương pháp cuối lại được hầu hết các NGOs sử dụng trong việc xác
định hộ nghèo của dự án giảm nghèo và phát triển cộng đồng (Participatory
Poverty Assessment - PPA).
Từ đó đã đề ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ đói nghèo như sau:
* Chỉ tiêu thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người là một chỉ tiêu quan trọng vì nó phản ánh được
quy mô, trình độ phát triển kinh tế và mức sống của người dân trong một nước.
Hiện nay, trên toàn cầu tồn tại hai phương pháp tính toán chủ yếu của ngân
hàng thế giới. Bên cạnh phương pháp Atlas ( phương pháp tỷ giá hối đoái ) còn
có phương pháp tính bình quân thu nhập mỗi nước theo sức mua tương đương
(Parachasing Power Parity - PPP). Đây là phương pháp đang được áp dụng trong
các chương trình so sánh quốc tế về chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người,
nhằm đưa ra chỉ tiêu so sánh giữa các nước bằng cách đưa đồng tiền của mỗi
nước về một đơn vị đo lường thống nhất - đồng USD.
Thập niên 90 của thế kỉ XX, Ngân hàng thế giới sau nhiều cuộc điều tra
trên toàn cầu đã đưa ra ngưỡng nghèo chung (theo PPP):
- Đối với các nước thu nhập thấp: < 1 USD/ người/ngày.
- Đối với nước thu nhập trung bình thấp: < 2 USD/người/năm.
Ngoài ra, còn có một số chuẩn nghèo khuyến nghị khác cho các quốc gia:
- Đối với các nước chậm phát triển: 0.5USD/người/ngày.
14
- Đối với các nước đang phát triển: 1USD/người/ngày.
- Đối với các nước châu Mỹ phát triển ở mức khá: 2USD/người/ngày.
- Đối với các nước châu Âu: 4USD/người/ngày.
- Đối với các nước công nghiệp: 14 USD/người/ngày.
* Chỉ tiêu dinh dưỡng
Nhu cầu về dinh dưỡng là 1 trong những nhu cầu cơ bản và tối thiểu của
con người để tồn tại, hoạt động và tái tạo sức lao động. Trong nhiều năm, các
nhà dinh dưỡng của tổ chức y tế thế giới WHO, tổ chức lương thực và nông
nghiệp FAO, các cơ quan quốc gia và quốc tế đã đưa ra mức dinh dưỡng tối
thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người. Chỉ tiêu cơ bản nhất về
lượng dinh dưỡng đưa vào cơ thể là lượng calo tiêu dùng hàng ngày. Nhu cầu
calo của mỗi người là khác nhau, tùy thuộc vào độ tuổi và cường độ hoạt động
thể chất mà họ thực hiện. Tuy vậy để xây dựng một ngưỡng nghèo, cần phải xác
định nhu cầu tiêu dùng của toàn bộ dân số. Lượng dinh dưỡng 2100 Kcal mà y
tế thế giới đưa ra đã dựa trên nhiều lần đánh giá và kiểm nghiệm.
Ngoài chỉ tiêu xác định chuẩn nghèo trên, thì phương pháp chung nhất mà
các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế xác định đói nghèo là dựa vào chi
tiêu để đảm bảo các nhu cầu cơ bản của con người. Ngân hàng thế giới đã dựa
trên số liệu về tiêu dùng để tính toán đói nghèo. Chỉ tiêu này đã được nhiều tổ
chức quốc tế thừa nhận và xem nó là “Chỉ số về phúc lợi được ưa chuộng”. Lí
do thực tế là “chúng đáng tin cậy và vì tiêu dùng được coi là thước đo phản ánh
mức phúc lợi dài hạn tốt hơn so với thu nhập hiện tại”.
Ngân hàng thế giới xây dựng ngưỡng nghèo trên cơ sở xác định nhu cầu
tiêu dùng về lương thực của con người. Cụ thể như sau:
- Ngưỡng nghèo thứ nhất: Là số tiền cần thiết để mua một số lương thực.
Lượng lương thực này phải đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đủ 2100 Kcal cho mỗi
người mỗi ngày (bao gồm khoảng 40 loại sản phẩm), được gọi là ngưỡng nghèo
lương thực.
- Ngưỡng nghèo thứ 2: Bao gồm chi tiêu cho sản phẩm lương thực và phi
lương thực, gọi là ngưỡng nghèo chung.
Ngưỡng nghèo chung = Ngưỡng nghèo LTTP + Ngưỡng nghèo phi LTTP
Ước tính mức nghèo đói trên chỉ có tác dụng là những dự báo về diễn biến
toàn cầu. Còn đối với từng khu vực, từng vùng, căn cứ vào thu nhập và mức
15
sống cụ thể mà mỗi nước tự xây dựng những ngưỡng nghèo đặc thù riêng, phản
ánh được tình trạng đói nghèo trong hoàn cảnh nước đó.
Nghèo đói chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố như kinh tế chính trị,
văn hóa, … vì vậy chủ thể coi 3 phương pháp trên là căn cứ tuyệt đối để đánh giá
mức độ giàu nghèo của một quốc gia. Xuất phát từ những lý lẽ đó liên hợp quốc
đã sử dụng chỉ số đói nghèo Human Poverty Index (HPI). Cách tính HPI dành cho
các nước đang phát triển HPI - 1 dựa vào chỉ số phát triển con người HPI.
Chỉ số HPI được tính theo công thức:
HPI = {1/3(P
1
3
+ P
2
3
+ P
3
3
)}
1/3
Trong đó, P
1
: xác suất những người không thọ quá 40 tuổi (x100).
P
2
: tỷ lệ người lớn mù chữ.
P
3
: Giá trị bình quân phi gia quyền của tỷ lệ người dân không
tiếp cận bền vững với nguồn nước sạch (1) và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng (2).
(giá trị bình quân phi gia quyền = ½ tỷ lệ (1) + ½ tỷ lệ (2)).
Giá trị HPI càng cao thì mức độ nghèo khổ càng lớn và ngược lại.
Điểm mấu chốt trong các thước đo nghèo khổ chính là sự thỏa mãn những
nhu cầu cơ bản của con người. Những nhu cầu cơ bản đó là gì còn tùy thuộc vào
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của các nước, thậm chí còn có sự khác biệt lớn
trong phạm vi vùng miền của một quốc gia.
1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo ở Việt Nam
Ở nước ta khái niệm nghèo đói không gắn với 1 người cụ thể mà gắn với
hộ gia đình, mặc dù chuẩn nghèo đói - thước đo xác định mức độ nghèo trong
mỗi vùng miền hay cả nước thì vẫn lấy theo mức thu nhập tính trên đầu người.
Nhóm nghiên cứu liên bộ: Bộ Lao động thương binh và xã hội, tổng cục
thống kê đã đưa ra chỉ tiêu để đánh giá đói nghèo là thu nhập, giáo dục, sức
khỏe, nhà ở…Trong đó chỉ tiêu thu nhập được coi là chỉ tiêu hàng đầu, đồng
thời cũng là chỉ tiêu đang được sử dụng để xác định số lượng người nghèo và
hoạch định chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ở nước ta, trong điều kiện giá cả không ổn định và có sự chênh lệch giữa
các vùng miền, bên cạnh việc thu nhập được tính toán bằng tiền, còn tồn tại cách
tính toán truyền thống của người dân - tức quy ra gạo. Tùy vào từng thời kỳ và
từng vùng phát triển của đất nước mà các cơ quan liên bộ ngành và các cơ quan
16
thường trực trong việc tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo đã đưa ra những
mức xác định khác nhau về nghèo.
a. Chuẩn nghèo quốc gia do Bộ Lao động Thương binh và Xã Hội ban hành
Bộ Lao động Thương binh và Xã Hội đưa ra chuẩn nghèo đói chủ yếu dựa
và các số liệu về thu nhập của hộ gia đình. Các tiêu chí này thay đổi theo thời
gian điều tra cùng với sự thay đổi mặt bằng thu nhập quốc gia. Cụ thể như sau:
Giai đoạn 1993 đến 1995:
- Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo trên/tháng dưới 13 kg đối
với khu vực thành thị, dưới 8kg đối với khu vực nông thôn.
- Hộ nghèo: bình quân thu nhập đầu người quy gạo/ tháng dưới 20kg đối
với khu vực thành thị, dưới 15kg đối với khu vực nông thôn.
Giai đoạn 1995 đến 2000: (giá năm 1997, tính cho mọi vùng- công văn số
1751/ LĐTBXH)
- Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy gạo dưới 13kg( tương
đương 45.000đ ).
- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập phân theo các vùng như sau:
Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: Dưới 15kg/người/tháng (tương đương
55.000đ).
Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: Dưới 20kg gạo/người/tháng (tương
đương 75.000đ).
Vùng thành thị : Dưới 25kg gạo/người/tháng (tương đương 90.000đ).
Giai đoạn 2001-2005: (Quyết định số 1143/2000/QĐ/LĐTBXH)
+ Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: 80.000đ/người/tháng.
+ Vùng nông thôn, đồng bằng: 100.000đ/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 150.000đ/người/tháng.
Giai đoạn 2006-2010: (quyết định số 170/2005/QĐ-TTg tháng 07/2005 của
Chính phủ)
+ Vùng nông thôn: 200.000đ/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 260.000 đ/người/tháng.
Giai đoạn 2011-2015 (Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg tháng 1/2011 của
Chính phủ)
17
- Hộ nghèo:
+ Vùng nông thôn: 400.000 đ/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 500.000 đ/người/tháng.
- Hộ cận nghèo:
+ Vùng nông thôn: 401.000 - 520.000 đ/người/tháng.
+ Vùng thành thị: 501.000 - 650.000 đ/người/tháng.
* Các tiêu chuẩn nghèo khác:
Theo cách đánh giá của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
Phạm vi đói nghèo có từng cấp khác nhau. Mỗi cấp thể hiện những đặc
điểm riêng biệt về mức độ nghèo.
- Hộ nghèo: Là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn chuẩn
nghèo. Trong hộ nghèo lại có hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. Đây là các
hộ gia đình dân tộc sống ở vùng sâu vùng xa, miền núi có mức thu nhập thấp
hơn chuẩn nghèo. Các hộ này còn tồn tại “ phong túc tập quán sản xuất mang
nặng tính tự nhiên hái lượm”, chủ yếu phát nương làm rẫy, tổng giá trị tài sản
bình quân đầu người dưới 1 triệu đồng.
- Xã nghèo: Là xã có tỉ lệ hộ nghèo cao (>25%), chưa đủ từ 3 trong 6 hạng
mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm: chưa có đường ô tô đến trung tâm xã
hoặc ô tô không đi lại được cả năm, số phòng học chỉ đáp ứng dưới 70% nhu
cầu của học sinh hoặc phòng học tạo bằng tranh tre, nứa lá, chưa có trạm y tế xã
hoặc có nhưng làm nhà tạm, dưới 30% hộ sử dụng nước sạch, dưới 50% số hộ
sử dụng điện sinh hoạt…). Trong các xã nghèo, có các xã đặc biệt khó khăn-
Đây là các xã được công nhận theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg của thủ
tướng Chính phủ.
- Vùng nghèo, vệt nghèo: Là địa bàn tương đối rộng lớn, có thể là một số
xã liền kề nhau hoặc một vùng dân cư, nằm ở những khu vực khó khăn giao
thông không thuận tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển
sản xuất và đảm bảo cuộc sống, là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.
b. Chuẩn nghèo do Tổng cục thống kê ban hành
Về cơ bản, chuẩn nghèo của tổng cục thống kê được xác định dựa trên cách
tiếp cận của Ngân hàng thế giới, gồm hai mức: Mức nghèo lương thực, thực
phẩm và mức nghèo chung.